Thứ Tư, 19 tháng 9, 2012
Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012
HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Hoàng Quốc Hải
SƠ GIẢN PHẢ HỆ NHÀ TRẦN
Để bạn đọc tiện theo
dõi các nhân vật trong truyện, tác giả tạm sắp xếp một giản yếu tới tối giản về
phả hệ nhà Trần.
Song có một điều lộn
xộn cần nói, đó là việc hôn nhân của họ Trần. Vì muốn giữ gìn sự trường tồn của
dòng họ, nhà Trần nghiêm cấm con trai, con gái kết hôn với người ngoại tộc. Cho
nên, bạn đọc sẽ thấy anh em con chú bác ruột lấy nhau như cặp Trần Thủ Độ (Thái
sư) lấy Trần Thị Dung (Linh từ quốc mẫu)
Cô cháu ruột lấy nhau
như cặp Thiên Thành công chúa (em ruột Trần Liễu, Trần Cảnh) lấy Trần Quốc Tuấn
(con Trần Liễu).
ĐỒI THÔNG HAI MỘ
Là tập thơ kể về bi kịch tình duyên giữa
Đinh Lăng và Mỵ Dung vào thời Nguyễn Huệ – Quang Trung. Phần cuối câu chuyện
xảy ra tại vùng dân tộc Thái (Tây Nghệ An,Tây Bắc), nơi có tự do yêu đương nam
nữ ( theo kiểu phương Tây ) còn tồn tại đến ngày nay.
1 Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ
Anh của em yêu quí nhất đời
Anh đi mù mịt xa khơi
Phượng hoàng tung cánh phương
trời mãi bay
Tạ lỗi Trường Sơn ( thơ )
Đỗ Trung Quân
Bài “Tạ lỗi Trường Sơn” Đỗ Trung Quân viết năm 1982, sau
khi đi Thanh niên Xung phong về, đã qua chiến trường Campuchia, sau "Những
bông hoa trên tuyến lửa". Bài thơ này được anh Hoàng Ngọc Biên và dịch giả
Diễm Châu [đã qua đời] đưa vào danh mục SẼ IN của nhà xuất bản Trình Bày với
cái tên Chung Do Kwan. Nhưng sau đó dịch giả Diễm Châu mất, nhà xuất bản cũng
bận nhiều cho việc biên dịch văn chương và tác giả bài thơ sống ở Việt Nam nên
chưa chọn được thời điểm thuận tiện để in (dưới tên Chung Do Kwan như là một
tác giả Châu Á - là cách bảo vệ tác giả của nhà Trình Bày). Việc công bố nó sau
27 năm [ 1982- 2009] là chính tác giả công bố trên blog Chung do kwan của mình.
Bài thơ viết khi 27 tuổi, 27 năm sau mới trình diện được.
Huỳnh Ngọc Chênh
Tạ Lỗi Trường Sơn
Đỗ Trung Quân (1982)
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Hầu chuyện Trần Xuân Bách: “Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc”
Tống Văn Công
Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo
Lao Động (51 – Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính
đến gặp. (Cô Châu hiện nay là cán bộ báo Dân Trí.) Cô trao tấm danh thiếp của
anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi
vào, nói “Tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về
Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn
Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?”. Bác ấy
mở cặp lấy cac vi dít đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm
tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”. Từ lâu tôi đã được ba người bạn có
dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo
quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở Ban Dân vận TƯ
và Đinh Gia Bảy ủy viên Đảng đoàn, ủy
viên Ban thư ký Tổng Liên đoàn Lao động VN từng làm việc dưới quyền của anh
Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều
chuyện về anh Bách, một người tài đức song toàn. Tôi cũng được đọc nhiều bài
viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh
tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung ương
lần thứ 7 (khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan
trọng.
Xin nhắc lại một số kết luận của Nghi Quyết TƯ 7:
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)