Bài của
Đào Tiến Thi
Không
kể những cuộc gây hấn trên biển trong thập niên thứ nhất thế kỷ XXI mà không
mấy ai biết đến, kể từ mùa hè 2011, với hai lần cắt
cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, giới chóp bu cầm quyền trong Đảng Cộng
sản Trung Quốc (gọi tắt là Trung Cộng) đã lộ nguyên hình bộ mặt xâm lược, bành
trướng đầy tham vọng và đầy tàn ác. Cũng từ đấy, ngoài những vụ lẻ tẻ trong
năm, không có mùa hè nào Trung Cộng không gây sự nghiêm trọng trong vùng biển
chủ quyền của Việt Nam. Và song song với những cuộc gấy hấn ấy, đã bùng lên
phong trào chống xâm lược Trung Cộng trong nhân dân Việt Nam, kể cả đồng bào
Việt Nam ở hải ngoại.
Cùng với những cuộc xuống đường là những cuộc hội thảo, đưa kiến
nghị, thư ngỏ tới những người, những cơ quan có trách nhiệm quản trị đất nước.
Hoạt động này trong mấy năm đầu cũng rất sôi nổi, nhất là khi Trung Cộng gây
hấn lớn.
Tuy nhiên, phong trào chống xâm lược Trung Cộng cứ yếu dần, yếu
dần. Nếu như mùa hè năm 2011 ở Hà Nội, Sài Gòn có những cuộc xuống đường với
hàng ngàn người thì mùa hè năm nay, với sự kiện bãi Tư Chính, số người xuống
đường ở mỗi thành phố trên chưa được 10 người, và cũng chỉ một, hai lần. Cũng
như vậy với những hoạt động hội thảo, đưa kiến nghị, thư ngỏ cũng chỉ lác đác.
Trong khi ấy vụ Tư Chính là vụ gây hấn nghiêm trọng nhất của
Trung Cộng từ trước đến nay.
Bãi Tư Chính là một rạn đá trong khu vực Nam Biển Đông, cách bờ
biển Vũng Tàu 160 hải lý, cách biển Hải Nam (TQ) 600 hải lý, là điểm cuối cùng
về phía nam của “đường lưỡi bò” - một vùng nước “chủ quyền” do Trung Quốc ngụy
tạo. Từ năm 1989, Việt Nam đã xây dựng ở đây hệ thống nhà giàn phục vụ công
việc thăm dò và khai thác dầu khí. Khoảng đầu tháng 7 năm nay, tàu thăm dò địa
chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã đi vào khu vực Bãi Tư Chính. Nhưng Đảng và
Nhà nước VN đã không có thái độ mạnh mẽ như hồi năm 2014 với vụ tàu Hải Dương
981. Do đó, ngày 19/7/2019, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng
chính thức tuyên bố Bãi Tư Chính nằm trong “quần đảo Nam Sa thuộc chủ quyền của
Trung Quốc” và yêu cầu “quốc gia có liên quan” tôn trọng quyền chủ quyền của
họ. Cho đến nay Hải Dương 8 và nhiều tàu khác của Trung Quốc vẫn không chịu rút
khỏi bãi Tư Chính.
Tôi đã gần như buông xuôi, gần như hết hy vọng thì may sao có
cuộc tọa đàm này. Tọa đàm do Viện nghiên cứu Chính sách Pháp luật và Phát
triển, đứng đầu là PGS. TS. Hoàng Ngọc Giao chủ trì.
Ngoài một loạt “chiến hữu” quen thuộc đối với tôi, như cụ Chí sỹ
Nguyễn Khắc Mai, GS. Nguyễn Đình Cống, Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Nhà ngoại giao
Nguyễn Trung, Anh hùng LLVT Lê Mã Lương, PGS. Trần Thị Băng Thanh, Nhà thơ Trần
Nhương, PGS. Nguyễn Vi Khải, KTS. Trần Thanh Vân, PGS. Chu Hảo, Chuyên gia kinh
tế Phạm Chi Lan, Nhà văn Nguyên Bình, Nhà văn – Cựu tù nhân lương tâm (vì chống
Trung Cộng xâm lược) Phạm Viết Đào, GS. Trần Ngọc Vương, TS. Đinh Hoàng Thắng,
TS. Công Nghĩa Tụ, TS. Nguyễn Đại, TS. Phạm Văn Chung, TS. Nguyễn Văn Vịnh, TS.
Nguyễn Xuân Diện, Nhà báo tự do Lê Dũng,… tôi được gặp thêm nhiều vị trí thức
đáng kính khác mà trước đó mới chỉ nghe tên tuổi, thấy hình ảnh trên mạng hoặc
gặp ở hội nghị nhưng chưa được tiếp cận cá nhân, đó là: PGS.TS, Thiếu tướng Lê
Văn Cương, PGS. Hoàng Ngọc Giao, Nhà ngoại giao Nguyễn Trường Giang, Cựu quan
chức Chính phủ Nguyễn Nam Cường, ThS. Hoàng Việt (một chuyên gia về luật biển,
hiện đang là Giảng viên Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh),… Có một thanh niên nông
dân người thấp bé tên là Nguyễn Văn Sẵn, từ Bắc Giang xuống. Cậu nói cậu bỏ cả
việc đồng áng đang bề bộn để xuống đây dự họp.
Xuất hiện đầu tiên trên màn hình trình chiếu là hình ảnh Cảnh
Sảng – phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc – cùng lời nói ngang ngược của y
về bãi Tư Chính.
Liền sau đó trên màn hình có câu hỏi:
“TỔ
QUỐC LÂM NGUY, HÀNH ĐỘNG HAY KHÔNG HÀNH ĐỘNG?”
Chao ôi, nghe câu này, ai mà có chút chữ nghĩa mà không nhớ đến
câu của Hoàng tử Hamlet trong vở bi kịch cùng tên của Đại văn hào Shakespeare:
“TO BE
OR NOT TO BE?”
(Tồn tại hay không tồn tại/ Sống hay không sống?)