Trần Gia Phụng
Đại nạn Trung Hoa thời cổ sử
Lược đồ Âu Lạc thế kỷ I-III (Nhà Hán chia Âu Lạc thành
ba quận là Giao Chỉ,Cửu Chân và Nhật Nam )
Việt
Nam nằm về phía nam Trung Hoa, một nước lớn so với Việt Nam. Vị trí địa lý nầy
là một đại nạn thường trực cho Việt Nam, vì các nhà lãnh đạo Trung Hoa qua mọi
thời đại, luôn luôn ỷ thế nước lớn, kiếm cách xâm lăng các nước nhỏ láng giềng,
trong đó có Việt Nam. Bài nầy trình bày đại nạn Trung Hoa thời cổ sử.
1.
Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt
Ở
phương bắc, lúc mới lập quốc, người Trung Hoa quần tụ sinh sống chung quanh lưu
vực Hoàng Hà (Huang He), phía bắc Dương Tử Giang (Yang Zi Jiang), khá xa cổ
Việt. Các triều đại Trung Hoa đầu tiên theo chế độ phong kiến, tức phong hầu
(phong chức) và kiến địa (cắt đất) để cai trị. Hoàng đế Trung Hoa nắm giữ chính
quyền trung ương. Các vương hầu đứng đầu các tiểu quốc chung quanh gọi là chư
hầu. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên (TCN), nhà Châu (Chou) suy yếu. Trong
các chư hầu, lúc đó nước Tần mạnh nhất.
Năm 221
trước TCN, vua nước Tần là Tần Chính tiêu diệt các chư hầu, thống nhất Trung
Hoa, lên ngôi hoàng đế tức Tần Thủy Hoàng (Ch’in Shih Huang, trị vì 221-210
TCN), lập ra nhà Tần (Ch’in). Tần Thủy Hoàng bỏ chế độ phong kiến, xóa các nước
nhỏ, chia Trung Hoa thành 36 quận, đặt quan cai trị, thuộc quyền hoàng đế.
Ổn định
xong trung nguyên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư (Tu Shu) và Sử Lộc (Shi
Lu) cầm quân vượt qua sông Dương Tử năm 214 TCN (đinh hợi), mở mang bờ cõi
xuống phương nam, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập
thành ba quận là Quế Lâm (Kueilin), Nam Hải (Nanhai), và Tượng Quận (Hsiang).
Quế Lâm
nay là vùng bắc và đông Quảng Tây. Nam Hải là vùng Quảng Đông. Tượng Quận là
đất cổ Việt, tức vùng Bắc Việt ngày nay. Trong ba quận nầy, Tượng Quận ở xa xôi
nhất đối với Trung Hoa. Phía bắc Tượng Quận, núi non hiểm trở bao bọc, ngăn
cách với Nam Hải, Quế Lâm, và trung nguyên Trung Hoa.
Đồ Thư bị
người địa phương kháng cự và giết chết. Nhà Tần cử Nhâm Ngao (hay Nhâm Hiêu)
làm hiệu uý quận Nam Hải và Triệu Đà (Chao T’o) làm huyện lệnh Long Xuyên
(Lung-Chuan), thủ phủ của quận Nam Hải.
Năm 210
TCN (tân mão), Triệu Đà đem quân sang đánh Tượng Quận hay cổ Việt. Theo truyền
thuyết, vua cổ Việt là An Dương Vương, nhờ có nỏ thần nên đã đẩy lui quân Triệu
Đà. Triệu Đà liền giảng hòa và cho con trai là Trọng Thủy sang kết hôn với con
gái của An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy lén bẻ gãy nỏ thần, thay bằng một
nỏ giả, rồi về nước. Năm 208 TCN (quý tỵ), Triệu Đà tấn công An Dương Vương lần
nữa, và chiếm được khu vực cổ Việt.(1)
Lúc đó,
Nhâm Ngao bị bệnh qua đời. Trước khi từ trần, Nhâm Ngao khuyên Triệu Đà nên dựa
vào địa thế xa xôi hiểm trở của quận Nam Hải, thành lập một nước độc lập. Năm
207 TCN (giáp ngọ), Triệu Đà chiếm Nam Hải và tự xưng vương, tức Triệu Võ
Vương, đặt quốc hiệu là Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (có tài liệu gọi là
Phan Ngu hay Phan Ngung). Năm 198 TCN (quý mão), Triệu Võ Vương cử người sang
cai trị cổ Việt.(Cương mục, bd. tập 1, sđd. tr. 89.)
Bên
Trung Hoa, sau khi nhà Tần bị lật đổ, Hạng Võ (Xiang Yu) cùng Lưu Bang (Liu
Bang) tranh hùng. Lưu Bang thành công, lên ngôi hoàng đế, tức Hán Cao Tổ (Han
Kao Tsu, trị vì 202-195 TCN), lập ra nhà Hán (202 TCN – 220). Lúc đầu, Hán Cao
Tổ vẫn để họ Triệu làm vương đất Nam Việt. Gần 100 năm sau, Hán Võ Đế (Han Wu
Ti, trị vì 141-87 TCN) sai Lộ Bác Đức (Lu Bo De) đem quân đánh nhà Triệu năm
canh ngọ (111 TCN), giết vua Triệu Dương Vương và thái phó Lữ Gia, chiếm nước
Nam Việt.
Cần chú
ý là Triệu Đà vốn là tướng của nhà Tần, vâng lệnh nhà Tần làm huyện lệnh Long
Xuyên, thủ phủ của quận Nam Hải, nhân cơ hội xáo trộn ở Trung Hoa, đứng lên
chiếm quận Nam Hải, lập ra nước Nam Việt. Triệu Đà không phải là người địa
phương Bách Việt. Triệu Đà xâm lăng cổ Việt và sáp nhập cổ Việt vào nước mới
của ông là Nam Việt.
Theo sử
gia Ngô Thời Sỹ (thế kỷ 18), tác giả bộ Việt sử tiêu án, vì Triệu Đà sáp nhập
cổ Việt vào nước Nam Việt, nên khi Nam Việt bị Lộ Bác Đức sáp nhập vào nước
Trung Hoa năm 111 TCN, vùng cổ Việt cũng bị sáp nhập luôn vào Trung Hoa, chứ
trước kia quân đội của triều đình Trung Hoa không xuống tận miền biên viễn xa
xôi nầy. Do đó, theo Ngô Thời Sỹ, Triệu Đà chẳng những không có công gì với cổ
Việt mà là người đem họa lại cho cổ Việt nữa.(2) Từ đó, cổ Việt bị Trung
Hoa đô hộ cho đến năm 938, khi Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch Đằng Giang, đánh
đuổi quân Nam Hán ra khỏi nước.
2.- Chủ
trương thuộc địa thựa dân
Khi gởi
quân vượt sông Dương Tử, đánh chiếm Bách Việt, triều đình Trung Hoa thực hiện
ngay chính sách thuộc địa thực dân (thực = trồng, tức trồng người). Triều đình
Trung Hoa gởi người Trung Hoa, thuộc chủng Mongoloiid (Mông-cổ) đến các vùng
đất mới chiếm càng ngày càng đông. Những đợt di dân đầu tiên có thể gồm hai
hạng người: thứ nhất là những binh sĩ đi chiếm đất và thứ hai là những người có
trọng tội, bị lưu đày đến miền biên viễn. Khi làm lệnh Long Xuyên, Triệu Đà gởi
sứ về triều đình nhà Tần, xin triều đình gởi ba vạn con gái hoặc đàn bà góa
sang để làm vợ binh sĩ.(3) Như thế, chứng tỏ số người gốc Hoa được gởi
đến vùng Nam Hải lên khá đông.
Từ khi
Triệu Võ Vương (Triệu Đà) cử người sang cai trị cổ Việt (198 TCN), người Trung
Hoa thuộc chủng Mongoloiid di cư đến tận cổ Việt càng ngày càng đông, đến nỗi
có sử thuyết cho rằng những người Hoa di cư nầy chính là tổ tiên người Việt.
Trong thực tế những di chỉ khảo cổ cho thấy những người đầu tiên sống trên đất
cổ Việt nói chung thuộc chủng người được sắp vào nhóm Indonesian hay Mã Lai Đa
Đảo (Malayo-Polynesian). Những người Hoa di cư từ thời Triệu Đà đến Cổ Việt
sinh sống, đã hợp chủng với người bản địa cổ Việt để trở thành tổ tiên người Việt
ngày nay.
Theo
sách The Living Races of Men (New York, 1966), các tiến sĩ Carleton S. Coon và
Edward E. Hunt Jr. dựa trên những khảo cứu về huyết học, đã sắp người Đông Nam
Á, trong đó có người Việt Nam, và người Indonesian nằm chung trong một hệ thống
huyết tộc với nhau.(4) Bên cạnh đó, trong những nghiên cứu về nguồn gốc
người Việt Nam, bộ bách khoa Encyclopedia Britannica (1999) đã kết luận “… rằng
giữa người Việt với người Thái và các tộc hệ Indonesian có liên hệ mạnh mẽ
[chặt chẽ] về xã hội và văn hóa.”(5) Các kết quả nầy cho thấy trong cuộc
hợp chủng Việt Hoa thời cổ Việt, yếu tố bản địa có tính cách chủ yếu quan trọng
cả về chủng tộc, lẫn văn hóa và xã hội.
Yếu tố
bản địa còn thấy rõ trong hai sự kiện: 1) Thứ nhất, dầu bị đô hộ hơn một ngàn
năm trong thời cổ sử, người Việt vẫn duy trì tiếng Việt, vẫn nói tiếng Việt cho
đến ngày nay, trong khi chữ viết có thể thay đổi. 2) Thứ hai, đế quốc Trung Hoa
xâm chiếm miền Nam sông Dương Tử, một vùng đất rộng mệnh mông với nhiều sắc dân
khác nhau, duy nhất chỉ có người cổ Việt nổi lên giành độc lập, trong khi các
sắc dân khác đành chịu sự đô hộ của Trung Hoa. Điều nầy cho thấy sắc dân bản
địa là một thành tố quan trọng trong sự sống còn của người Việt.
Điều
đặc biệt là những người Mongoloiid di cư đến sinh sống trên đất cổ Việt, từ đời
nầy qua đời khác, đã gắn liền với những quyền lợi chính trị, kinh tế người bản
địa cổ Việt. Từ đó những người Mongoloiid di cư đến cổ Việt được Việt hóa dần
dần, và trở thành một bộ phận của dân Việt, trái ngược với chủ trương đồng hóa
người Việt của triều đình Trung Hoa. (Thay vì đồng hóa người Việt theo Trung
Hoa, thì người Trung Hoa di cư lại biến thành người Việt.) Có khi chính những
người gốc Hoa di cư cũng nổi lên chống lại chế độ đô hộ Trung Hoa.
Tượng
trưng cho khuynh hướng nầy là cuộc nổi dậy của Lương Long năm 178 (mậu ngọ),
rồi của các binh sĩ triều đình Trung Hoa tại Giao Chỉ năm 184 (giáp tý), và nổi
bật hơn cả là Lý Bôn năm 541 (tân dậu). Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết về Lý
Bôn như sau: “Tổ tiên là người Bắc [Trung Quốc], cuối thời Tây Hán [202 TCN-25
SCN] khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì
thành người Nam…”(6) Câu nầy không khẳng định là được bảy đời mới trở
thành người Nam, nhưng ý cho thấy sống lâu năm và nhiều đời ở cổ Việt “thì
thành người Nam”.
Như
thế, từ thời Tần Thủy Hoàng, Trung Hoa bắt đầu xâm chiếm miền nam sông Dương
Tử, tiến xuống cổ Việt. Nhà cầm quyền Trung Hoa di dân để đồng hóa vùng Bách
Việt, nhưng khi đến Tượng Quận, tức cổ Việt, mưu đồ nầy bất thành, vì gặp sự
chống đối mạnh mẽ của người cổ Việt, trong đó có cả những di dân từ phương bắc
đến. Ngưòi cổ Việt luôn luôn kiếm cách nổi dậy chống lại nhà cầm quyền thực dân
Trung Hoa, để giành lấy chủ quyền và nền độc lập của mình.
3.-
Huyền thoại khai hóa
Đất cổ
Việt bị Trung Hoa đô hộ từ năm 208 TCN đến năm 938, là năm Ngô Quyền đánh đưổi
quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi cổ Việt.(7) Nhà cầm quyền Trung Hoa đưa
người sang cổ Việt, vừa để biến cổ Việt thành một thuộc địa thực dân của Trung
Hoa, làm phiên thuộc nhằm bảo đảm an ninh phía nam của Trung Hoa, vừa để tổ
chức khai thác và bóc lột thuộc địa.
Công
cuộc khai thác của những nhà đô hộ Trung Hoa chỉ nhằm phục vụ quyền lợi Trung
Hoa, nhưng lại luôn luôn tự đề cao là họ đã khai hóa dân Việt mà họ cho là “Nam
man”.(8) Theo sách Hậu Hán thư (Hou Han shu, sách về đời Hậu Hán, viết
vào thế kỷ thứ 5): “Tục Cửu Chân làm nghề săn bắn chứ không biết dùng bò để
cày. Dân thường phải mua lúa Giao Chỉ mỗi lần bị thiếu thốn. [Nhâm] Diên bèn
truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng, ruộng đất trù mật, mỗi năm
một rộng thêm; trăm họ được đầy đủ. Dân Lạc Việt lại không có phép cưới hỏi,
mọi người ưa dâm dật, không quen thói sống chung với nhau, nên không biết tình
cha con, không biết đạo vợ chồng. Vì vậy Diên gởi thư đi các huyện thuộc quyền
ông, truyền cho mọi người đàn ông từ 20 đến 50 tuổi, đàn bà từ 15 đến 40 tuổi,
tất cả tùy theo tuổi tác mà cưới hỏi nhau… Trước kia trong thời Bình Đế có Tích
Quang, người Hán Trung làm thái thú Giao Chỉ, lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di
ăn ở, tiếng giáo hóa cũng lừng lẫy như ông Diên…Đất Lĩnh Nam giữ phong tục
Trung Hoa bắt đầu từ hai vị thái thú đó…”(9)
Đoạn
văn nầy kể công hai nhân vật tiêu biểu cho các thái thú Trung Hoa, là Tích Quan
(Xi Guang/ Hsi Kuang) và Nhâm Diên (Ren Yan / Jen Yen). Tích Quang làm thái thú
Giao Chỉ (châu thổ sông Hồng), đời vua Hán Bình Đế (1-5 SCN). Nhâm Diên làm
thái thú Cửu Chân (châu thổ sông Mã) từ năm 25 đến năm 29 (SCN) thì được gọi về
Trung Hoa.
Hai
nhân vật nầy, theo Hậu Hán thư, đã có công:. 1) Truyền dạy việc dùng điền khí
để cày ruộng. 2) Giáo hóa dân bản địa. Hai “sự nghiệp” nầy được các bộ sử Trung
Hoa ca tụng và được một số bộ sử Việt Nam chép theo. Đây là hai vấn đề tiêu
biểu cần được xem xét lại:
a) Thứ
nhất, “Diên bèn truyền đúc các thứ điền khí dạy cho họ khẩn ruộng”. Dựa vào câu
nầy, các sách xưa cho rằng chính Nhâm Diên đã dạy cho dân Việt biết cách dùng
lưỡi cày bằng kim khí (điền khí) để cày ruộng. Cần chú ý là người Trung Hoa xưa
ở vùng Hoàng Hà, trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, không biết lúa gạo
(lúa nước), thì làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước mà dạy người
Việt?
Trong
khi đó, một tài liệu cổ của Trung Hoa xác định rõ ràng lúa trồng tại cổ Việt là
loại lúa nước, theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Sách Giao Châu ngoại vực
ký [viết khoảng giữa đời Tấn (265-420) Trung Hoa] viết: “…Hồi xưa, chưa có quận
huyện, thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng
ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người phó là Lạc tướng,
đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu…”(10) “Theo thủy triều
lên xuống mà cày cấy” chính là lúa trồng trong ruộng nước, hay lúa gạo.
Càng
ngày càng có nhiều khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Hoa và cả Việt
Nam, cho thấy rằng Đông Nam Á là trung tâm đầu tiên trên thế giới của nền văn
minh lúa nước, rồi từ đó lan truyền đi khắp nơi trên thế giới. Cũng theo các
tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông nam Á chính là
khu vực Hòa Bình ở Bắc Việt.(11) Hòa Bình nằm trong khu vực uốn khúc của
sông Đà để đổ lên sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ, Vĩnh Phúc), quận
Giao Chỉ thời cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng.
Tiến sĩ
Wilhelm G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học thuộc Đại học Hawaii, chuyên viên
về tiền sử Đông Nam Á, cho biết những di chỉ ông tìm kiếm được năm 1963 mách
bảo rằng sắc dân Lạc Việt ở Đông Nam Á đã biết trồng lúa và biết cách đúc đồng
sớm hơn các miền Cận đông, Ấn Độ và Trung Hoa. (National Geographic, Vol. 139,
No. 3, March 1971.)
Theo
một tài liệu khác, tại Mê Linh (Vĩnh Phúc, Phú Thọ ngày nay) quận Giao Chỉ
(châu thổ Hồng Hà), người ta tìm thấy những bộ xương trâu đã có mặt tại đây
khoảng 2,000 năm trước Công nguyên, và hai lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông
Sơn (thế kỷ thứ 5 TCN đến thế kỷ 1 SCN) dùng cho trâu cày.(12)
Như
thế, rõ ràng Nhâm Diên không phải là người khai tâm dân Việt dùng điền khí để
cày cấy như Hậu Hán thư đã viết và các bộ sử khác chép theo. Dân Lạc Việt đã
biết làm ruộng, trồng lúa nước (lúa gạo) và đã biết sử dụng điền khí trước khi
người Trung Hoa đến xâm lăng, chứ không phải người Trung Hoa dạy dân Lạc Việt
dùng điền khí để cày cấy. Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ
đồng là nghề luyện kim chính của dân Lạc Việt (vốn nổi tiếng về trống đồng), và
nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất cảng
sắt xuống phía nam Trung Hoa từ năm 183 TCN.(Cương mục, tr. 92.)
Vậy
phải chăng Nhâm Diên, thái thú Cửu Chân (vùng châu thổ sông Mã), nơi có trung
tâm trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa), chứng kiến cảnh dân chúng địa phương đã
cày cấy bằng lưỡi cày bằng đồng theo mô thức Đông Sơn, rồi báo cáo như trên để
lập công với triều đình Trung Hoa?
b) Điều
thứ hai, Hậu Hán thư còn cho rằng người Việt “không có phép cưới hỏi… không
quen thói sống chung với nhau nên không biết tình cha con, không biết đạo vợ
chồng”, nên Nhâm Diên dạy dân Việt cưới hỏi theo lễ giáo. Tập tục cưới hỏi,
cũng như các lễ nghi, tập quán trong đời sống mỗi sắc dân mỗi khác. Người cổ
Việt có phong tục của người cổ Việt. Dân Trung Hoa có tập quán của dân Trung
Hoa. Dưới thời Mã Viện cai trị cổ Việt, Hậu Hán thư (quyển 54) chép rằng: “Luật
dân Việt và luật nhà Hán khác nhau đến hơn mười điều.”(13)
Những
tập tục cưới hỏi của các bộ tộc miền núi ở Việt Nam ngày nay, có thể xem là vết
tích tập tục của người cổ Việt còn được lưu truyền. Dầu theo mẫu hệ, những tập
tục cưới hỏi nầy khác với tập tục của những người ở miền đồng bằng (người
Kinh), nhưng không có gì là đồi phong bại tục, đáng để lên án hay đáng để thay
thế. Vì vậy, khi đô hộ cổ Việt, các nhà cai trị Trung Hoa bắt người cổ Việt bỏ
những tập tục cưới hỏi của người cổ Việt, và theo những tập tục cưới hỏi Trung
Quốc, là một sự áp đặt văn hóa thô bạo, chứ không phải là giáo hóa cho người cổ
Việt.
Duy có
một điều chắc chắn là cưới hỏi theo lễ giáo Trung Hoa, tức cưới hỏi theo phụ
hệ, để “biết tình cha con, đạo vợ chồng”, nghĩa là lập thành từng hộ gia đình
nhỏ. Điều nầy đối với những nhà đô hộ Trung Hoa có hai điều lợi cho công việc
cai trị. Thứ nhất, qua các hộ gia đình, nhà cầm quyền đô hộ nắm vững tình hình
dân số, tình hình an ninh địa phương. Thứ hai, nhà cầm quyền đô hộ sẽ dựa vào
số hộ dân để thu thuế theo cách mà Vệ Ưởng (Wei Yang) hay Thương Ưởng (Shang
Yang, 390-338 TCN), đã thiết lập tại Trung Hoa từ thế kỷ thứ 4 trước Công
nguyên.(14) An ninh và thu thuế là hai mục đích hàng đầu của chế độ đô
hộ bóc lột.
Ngoài
Nhâm Diên, thái thú Tích Quang “lấy lễ nghĩa dạy cho dân Man di ăn ở, tiếng
giáo hóa cũng lừng lẫy…”. Lễ nghĩa mà Tích Quang phổ biến cho dân chúng cổ Việt
chắc chắn không ngoài lễ nghĩa Nho giáo, với ba giềng mối chính là tam cương
(vua tôi, chồng vợ, cha con) và năm đạo chính là ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín). Ai cũng biết Nho giáo là một triết thuyết chính trị hậu thuẫn cho
chế độ quân chủ, trong đó đứng đầu là đạo “trung quân”. Trung quân có nghĩa là
trung thành với vua. Lúc đó cổ Việt không có vua; chỉ có vua Trung Hoa. Trung
thành với vua Trung Hoa là mặc nhiên chấp nhận nền đô hộ của Trung Hoa. Như
thế, lễ giáo của Tích Quang cũng chỉ để ổn định xã hội và phục vụ cho công cuộc
thống trị của thực dân Trung Hoa.
Công
việc “giáo hóa” của hai thái thú Tích Quang và Nhâm Diên, nhất là việc áp dụng
tục lệ cưới hỏi theo lễ nghi Trung Hoa, bị người Việt chống đối. Một tờ trình
của Tiết Tống (Hsueh Tsung) vào năm 231, 5 năm sau khi Sĩ Nhiếp chết, gởi cho
triều đình Đông Ngô thời Tam quốc (213 – 280), cho rằng cho đến khi Tiết Tống
đến Giao Chỉ dưới thời Sĩ Nhiếp (Shi She) làm thái thú (từ 187 đến 226), tức là
sau mấy trăm năm đô hộ, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa không đúng theo như các báo
cáo trước đó; người Giao Chỉ và Cửu Chân vẫn còn giữ tục lệ gia đình của họ.(15)
Điều
nầy không lạ, vì đến thế kỷ 15, Quốc triều hình luật thời nhà Hậu Lê đã thừa
nhận trong điều 40 rằng: “Người “man liêu” là người sắc tộc thiểu số và tuy có
văn hóa khác với dân Việt, vẫn thuộc thành phần quốc dân Đại Việt…”(16)
Hơn nữa, cho đến ngày nay, tức 20 thế kỷ sau, vùng rừng núi Việt Nam vẫn còn
một số bộ tộc theo mẫu hệ, tập quán riêng của họ.
Như
thế, chuyện Nhâm Diên dạy cho dân Việt dùng điền khí để cày cấy, hay chuyện
Nhâm Diên và Tích Quang giáo hóa dân Việt, đều chỉ là những huyền thoại làm đẹp
cho chế độ đô hộ. Trong khi đó người Trung Hoa học cách cày cấy lúa nước của
người Việt và du nhập lúa nước vào Trung Quốc, làm phong phú sinh hoạt kinh tế
Trung Hoa.
Trong
sách Ancient China (1967), tác giả Edward H. Schafer viết rằng: “Thuật trồng
lúa gạo và thuần hóa gia súc chắc chắn [Trung Hoa] đã tiếp thu từ các sắc dân
tầm thường ở miền nam xa xôi hẻo lánh [nam Man].” (Nguyên văn: “The art of
cultivating rice and domesticating cattle were doubtless adopted from the
despised races of the remote south.”)(17a)
Cũng
nhà nghiên cứu nầy cho rằng Đức Khổng Tử (551-478 TCN), người tỉnh Sơn Đông
(Shandong) vùng hạ lưu Hoàng Hà và ở phía bắc sông Dương Tử, “sống chủ yếu bằng
loại bánh làm bằng kê”. (nguyên văn: “…Confucius have subsisted chiefly on
millet cakes…”), và “Khổng Tử chưa bao giờ thưởng thức trà, và chắc chắn rằng
Vương Xung, sáu thế kỷ sau, cũng thế.” (nguyên văn: “…Confucius never tasted
tea, and it is doubtful that Wang Ch’ung, six centuries later, did either….”(17b)
Trà là loại giải khát cũng phát xuất từ miền nam.
Chủ
trương bóc lột của triều đình Trung Hoa khi nặng khi nhẹ, tùy hoàn cảnh và tùy
tư cách của các thái thú Trung Hoa, có người tốt kẻ xấu, nhưng thực chất trước
sau cũng đều chỉ nhắm mục đích vơ vét cho Trung Hoa. Chính sách bóc lột nầy lên
cao điểm khi vua Hán Quang Võ (Han Guang Wu) cử Tô Định (Su Ding) sang làm thái
thú Giao Chỉ năm 34 (giáp ngọ). Tô Định rất tham tàn và hà khắc, áp dụng chủ trương
khai thác và bóc lột một cách triệt để, đã đưa đến cuộc khởi nghĩa giành độc
lập đầu tiên năm 40 (canh tý) của dân cổ Việt do Hai Bà Trưng lãnh đạo.
Cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bị thất bại năm 43 (quý mão). Sau đó, trong suốt
mười thế kỷ, người Việt nhiều lần nổi lên chống quân xâm lược Trung Hoa: Triệu
Thị Trinh (248), Lý Nam Đế (541), Lý Phật Tử (603), Lý Tự Tiên (602), Mai Thúc
Loan (727), Phùng Hưng (767), Dương Thanh (819), Vương Thắng Triều (828), Khúc
Thừa Dụ (905) Dương Diên Nghệ (931). Cuối cùng, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam
Hán năm 938 (mậu tuất), thực hiện được giấc mộng độc lập của dân tộc Việt.
Kết
luận
Tóm
lại, đối với người Việt, đại nạn Trung Hoa bắt đầu từ thời cổ sử. Ngay khi mới
thống nhất Trung Hoa, triều đình nhà Tần đã chủ trương bành trướng và đưa quân
vượt sông Dương Tử, chiếm Bách Việt, tiến xuống xâm lăng cổ Việt. Trong suốt
hơn 1,000 năm đô hộ cổ Việt, từ năm 208 trước Công nguyên đến năm 938 sau Công
nguyên, các thái thú Trung Hoa không ngừng vơ vét tài nguyên cổ Việt để cung
ứng cho triều đình Trung Hoa.
Tuy
người Việt đã đánh đuổi được quân Trung Hoa ra khỏi nước để giành lấy độc lập
tự chủ, nhưng sau hơn một ngàn năm đô hộ nước Việt, người Trung Hoa vẫn mang
một số định kiến lạ lùng đối với người Việt.
Thứ
nhất, cho đến thế kỷ 20, mà một nhà cách mạng dân chủ như bác sĩ Tôn Văn
(1866-1925), đã nói với Khuyển Dưỡng Nghị (chính khách Nhật Bản): “Người Việt
Nam vốn nô lệ căn tính. Ngày xưa họ bị chúng tôi đô hộ, ngày nay họ bị Pháp đô
hộ. Dân tộc ấy không có tương lai.”(18) Thật là một câu nói ngạo mạn!
Thứ
hai, các nhà cầm quyền Trung Hoa tự cho rằng nước Việt là một phiên thuộc của
Trung Hoa, một phần đất của Trung Hoa. Khi Pháp chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ Việt Nam,
buộc triều đình nhà Nguyễn ký hòa ước năm 1874, Pháp báo hòa ước nầy cho triều
đình nhà Thanh ngày 24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ
tức Việt Nam bổn hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (tạm dịch nghĩa: “Từ Giao Chỉ đến
Việt Nam vốn là thuộc quốc của Trung Hoa.”)(19) Vì vậy nhà Thanh đòi hỏi
Pháp phải thương thuyết với Trung Hoa về vấn đề Việt Nam.
Năm
1939, trong một tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Hoa, tựa đề là “Cách mạng
Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, lãnh tụ đảng CSTH là Mao Trạch Đông đã
xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước
phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo
Bành Hồ, và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm
An-Nam.”(20)
Do
những định kiến ưu quyền trịch thượng đối với Việt Nam, các nhà cầm quyền Trung
Hoa luôn luôn có dã tâm xâm lăng Việt Nam, mà không để cho người Việt yên sống
hòa bình.
Chú
thích:
1. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, (viết tắt: Cương mục), (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb.
Giáo Dục, 1998, tập 1, tt. 80-89.
2. Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, San Jose: Văn Sử tái bản, 1991, tr. 34.
3. Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Huế: Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại Học, 1965, tr. 235.
4. Carleton S. Coon & Edward E. Hunt J., The Living Races of Man, New York: Nxb. Alfred A. Knopf, 1966, đồ bản 12, tr. 286.
5. Encyclopedia Britannica, 1999, (CD), “Vietnam History…”
6. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 178. Nếu trung bình một đời (một thế hệ) là 23 đến 25 năm, thì 7 đời là từ 161 đến 175 năm. Nhà Hán (Han, 202 TCN – 220) ở Trung Hoa được chia thành 2 giai đoạn: Tiền Hán hay Tây Hán (Former Han, 202 TCN – 25) và Hậu Hán hay Đông Hán (Later Han, 25-220). Giữa Tiền Hán và Hậu Hán, từ năm 9 đến năm 23 là thời gian do Vương Mãng (Wang Mang) đảo chánh và cầm quyền.
7. Bên Trung Hoa, nhà Đường (Tang) chấm dứt năm 907 khi Chu Toàn Trung (Chu Ch’uan-chung) đảo chánh, lật đổ Đường Ai Đế (trị vì 904-907), tự mình lên làm vua, tức Lương Thái Tổ (trị vì 907-914), lập ra nhà Hậu Lương (907-923). Từ đó Trung Hoa rơi vào tình trạng hết sức xáo trộn gọi là đời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền bắc Trung Hoa có năm triều đại kế tiếp nhau trong thời gian ngắn là Hậu Lương (907- 923), Hậu Đường (923-935), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (948-950), Hậu Châu (951-959). Ở miền nam Trung Hoa, trước sau mười nước được thành lập, nên gọi là Thập quốc: so với ngày nay nước Ngô ở An Huy, Tiền Thục ở Tứ Xuyên, Ngô Việt ở Chiết Giang, Sở ở Hồ Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Hán ở Quảng Đông, Nam Bình ở Hồ Bắc, Hậu Thục ở Tứ Xuyên, Nam Đường ở Giang Tô và Bắc Hán ở Sơn Tây. Nước Nam Hán do Lưu Cung thành lập năm 917 ở Quảng Đông, là nước chiếm đóng Giao Châu. Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938, giành độc lập vĩnh viễn.
8. Người Trung Hoa luôn luôn tự hào và gọi các sắc dân chung quanh là đông Di, tây Địch, bắc Nhung, nam Man.
9. Nguyễn Phương trích dịch, sđd. tt. 186-187.
10. Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho],Huế: Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam,Viện Đại học Huế, phiên âm và dịch nghĩa, 1961, tr. 39.
11. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.
12. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh], University of California Press, 1983, tr. 35.
13. Nguyễn Phương, sđd. trích dịch, tr. 137.
14. Bên Trung Hoa, thời Chiến quốc (479-221 TCN), tại nước Tần, dưới đời Tần Hiếu Công (cầm quyền 361-338 TCN), tể tướng Thương Ưởng (390-338 TCN), bày ra cách tổ chức hộ khẩu để thu thuế. Đến đời Đường, từ thế kỷ thứ 7 mới bỏ thuế theo sổ hộ khẩu, đặt ra thuế “dung” đánh vào từng cá nhân (tức thuế đinh).
15. Keith Weller Taylor, sđd. tr. 75. Về việc nầy, tác giả Taylor căn cứ trên sách Tam quốc chí của Trần Thọ. (Sách nầy khác với Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là một bộ tiểu thuyết.)
16. Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, phiên âm, dịch nghĩa và chú thích, Viet Publisher Thư Quán, Hoa Kỳ, tr. 188.
17. Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, tr. 16 (17a), tt. 37, 38 (17b). Wang Ch’ung tức Vương Xung (27-97), triết gia thời Đông Hán (25-220) là tác giả nhiều sách lý luận về triết học, trong đó quan trọng nhất là bộ Luận hoành (Lun Heng, 30 quyển). Hoành là cái cân, nghĩa rộng là cân nhắc, so sánh.
18. Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, [nguyên bản bằng Anh văn], bản dịch của Mạc Định, Paris: 1962, tr. 22.
19. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 142.
20. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
2. Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Sài Gòn, San Jose: Văn Sử tái bản, 1991, tr. 34.
3. Nguyễn Phương, Việt Nam thời khai sinh, Huế: Phòng Nghiên cứu Sử, Viện Đại Học, 1965, tr. 235.
4. Carleton S. Coon & Edward E. Hunt J., The Living Races of Man, New York: Nxb. Alfred A. Knopf, 1966, đồ bản 12, tr. 286.
5. Encyclopedia Britannica, 1999, (CD), “Vietnam History…”
6. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư [chữ Nho], Hà Nội: bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, tr. 178. Nếu trung bình một đời (một thế hệ) là 23 đến 25 năm, thì 7 đời là từ 161 đến 175 năm. Nhà Hán (Han, 202 TCN – 220) ở Trung Hoa được chia thành 2 giai đoạn: Tiền Hán hay Tây Hán (Former Han, 202 TCN – 25) và Hậu Hán hay Đông Hán (Later Han, 25-220). Giữa Tiền Hán và Hậu Hán, từ năm 9 đến năm 23 là thời gian do Vương Mãng (Wang Mang) đảo chánh và cầm quyền.
7. Bên Trung Hoa, nhà Đường (Tang) chấm dứt năm 907 khi Chu Toàn Trung (Chu Ch’uan-chung) đảo chánh, lật đổ Đường Ai Đế (trị vì 904-907), tự mình lên làm vua, tức Lương Thái Tổ (trị vì 907-914), lập ra nhà Hậu Lương (907-923). Từ đó Trung Hoa rơi vào tình trạng hết sức xáo trộn gọi là đời Ngũ đại Thập quốc. Ở miền bắc Trung Hoa có năm triều đại kế tiếp nhau trong thời gian ngắn là Hậu Lương (907- 923), Hậu Đường (923-935), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (948-950), Hậu Châu (951-959). Ở miền nam Trung Hoa, trước sau mười nước được thành lập, nên gọi là Thập quốc: so với ngày nay nước Ngô ở An Huy, Tiền Thục ở Tứ Xuyên, Ngô Việt ở Chiết Giang, Sở ở Hồ Nam, Mân Việt ở Phúc Kiến, Nam Hán ở Quảng Đông, Nam Bình ở Hồ Bắc, Hậu Thục ở Tứ Xuyên, Nam Đường ở Giang Tô và Bắc Hán ở Sơn Tây. Nước Nam Hán do Lưu Cung thành lập năm 917 ở Quảng Đông, là nước chiếm đóng Giao Châu. Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938, giành độc lập vĩnh viễn.
8. Người Trung Hoa luôn luôn tự hào và gọi các sắc dân chung quanh là đông Di, tây Địch, bắc Nhung, nam Man.
9. Nguyễn Phương trích dịch, sđd. tt. 186-187.
10. Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho],Huế: Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam,Viện Đại học Huế, phiên âm và dịch nghĩa, 1961, tr. 39.
11. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.
12. Keith Weller Taylor, The Birth of Vietnam [Việt Nam khai sinh], University of California Press, 1983, tr. 35.
13. Nguyễn Phương, sđd. trích dịch, tr. 137.
14. Bên Trung Hoa, thời Chiến quốc (479-221 TCN), tại nước Tần, dưới đời Tần Hiếu Công (cầm quyền 361-338 TCN), tể tướng Thương Ưởng (390-338 TCN), bày ra cách tổ chức hộ khẩu để thu thuế. Đến đời Đường, từ thế kỷ thứ 7 mới bỏ thuế theo sổ hộ khẩu, đặt ra thuế “dung” đánh vào từng cá nhân (tức thuế đinh).
15. Keith Weller Taylor, sđd. tr. 75. Về việc nầy, tác giả Taylor căn cứ trên sách Tam quốc chí của Trần Thọ. (Sách nầy khác với Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung là một bộ tiểu thuyết.)
16. Nguyễn Ngọc Huy, Quốc triều hình luật, phiên âm, dịch nghĩa và chú thích, Viet Publisher Thư Quán, Hoa Kỳ, tr. 188.
17. Edward H. Schafer, Ancient China, New York: Time-Life Books, 1967, tr. 16 (17a), tt. 37, 38 (17b). Wang Ch’ung tức Vương Xung (27-97), triết gia thời Đông Hán (25-220) là tác giả nhiều sách lý luận về triết học, trong đó quan trọng nhất là bộ Luận hoành (Lun Heng, 30 quyển). Hoành là cái cân, nghĩa rộng là cân nhắc, so sánh.
18. Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, [nguyên bản bằng Anh văn], bản dịch của Mạc Định, Paris: 1962, tr. 22.
19. Yoshiharu Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch, TpHCM: Ban Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 142.
20. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
Đại nạn Trung Hoa thời trung sử
Ngô
Quyền chiến thắng quân Nam Hán (Trung Hoa) tại Bạch Đằng Giang năm 938 (mậu
tuất) và xưng vương năm 939 (kỷ hợi), đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh,
Hà Nội ngày nay). Từ đây, nước Việt vĩnh viễn thoát ra khỏi cảnh đô hộ của
Trung Hoa, nhưng các triều đình Trung Hoa vẫn tiếp tục nhiều lần đem quân sang xâm
lấn nước Việt.
Lần thứ
nhất (981)
Sau
cuộc đảo chánh không đổ máu lật đổ nhà Đinh (968-980), Lê Hoàn lên làm vua năm
980 (canh thìn), tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Về sau, ông
thường được sử sách gọi là Lê Đại Hành.
Biết
tình hình Đại Cồ Việt (quốc hiệu từ thời vua Đinh Tiên Hoàng) đang xáo trộn vì
chuyện đổi ngôi, vua Trung Hoa là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem
thư qua khuyến dụ và đe dọa. Lê Hoàn (trị vì 980-1005) lấy danh nghĩa con của
vua Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống (Sung, 960-1279) cho
nối ngôi vua cha. Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế nước Nam, biết
Lê Hoàn đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai người đem
một thư khác qua nói rằng “…Họ Đinh truyền nối được ba đời [ý chỉ Đinh Bộ Lĩnh,
Đinh Liễn, Đinh Toàn], trẫm muốn cho Đinh Toàn làm thống súy, khanh [chỉ Lê
Hoàn] thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng tài, hãy còn tính khí trẻ con
thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây…”
Lê Hoàn
biết không thể tiếp tục thương lượng, nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn
bị lực lượng để kháng Tống. Trong khi đó, quân Tống chia làm hai đường thủy bộ
tiến vào nước ta năm 981 (tân tỵ). Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng
tiến theo ngả Lạng Sơn, còn đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển
tiến vào bằng đường sông Bạch Đằng.
Trên
đường bộ, Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng,
lọt vào vùng phục kích của quân Việt, và bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh
mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện
và Triệu Phụng Huân bị bắt. Sau trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà
Tống đều rút lui.
Tuy
chiến thắng, Lê Hoàn vẫn phải sai sứ, dưới danh nghĩa của vua Đinh Toàn, sang
nhà Tống năm 982 (nhâm ngọ) xin trả lại hai tướng đã bắt được, và xin triều
cống. Nhà Tống chỉ phong cho Lê Hoàn làm tiết độ sứ. Mãi đấn hơn 10 năm sau vào
năm 993 (quý tỵ), Lê Hoàn mới sai sứ giả trình bày với vua Tống rằng Đinh Toàn
quyết định nhường ngôi cho mình. Tống Thái Tông (trị vì 976-997) biết việc Lê
Hoàn nắm quyền đã lâu, nhưng không có cách gì khác hơn, nên sai sứ sang phong
Lê Hoàn làm Tĩnh Hải Quân tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương.
Lần thứ
hai (1076-1077)
Trong
thời gian nầy nhà Tống tiếp tục cai trị Trung Hoa. Vua Tống Thần Công (trị vì
1068-1085) phong cho Vương An Thạch (Wang An Shi) làm tể tướng năm 1069. Vương
An Thạch (1021-1086) muốn mưu tìm một chiến công ở ngoài biên cương để hỗ trợ
chính sách cải cách ở trong nước của ông ta, chuẩn bị tấn công Đại Việt.
Tại Đại
Việt, nhà Lý (1010-1225) đã khá vững vàng. Triều đình vua Lý Nhân Tông (trị vì
1072-1127) biết được tin nầy, liền quyết định ra tay trước. Tháng 11 năm ất mão
(1075), triều đình cử Lý Thường Kiệt đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng
Đông ngày nay); và cử Tôn Đản đánh Ung Châu (tức Nam Ninh thuộc Quảng Tây ngày
nay) tháng giêng năm bính thìn (1076). Sau khi hạ thành, cả hai ông cho bắt
người, lấy của rồi rút lui về Đại Việt.
Tháng
chạp năm bính thìn (đầu năm 1077), Tống Thần Tông sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo
sứ và Triệu Tiết làm Phó chiêu thảo sứ, đem quân sang trả thù. Lý Thường Kiệt
chận quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xã Như Nguyệt, Bắc Ninh).
Quách
Quỳ chuyển quân đến sông Phú Lương (khúc sông Hồng ở Thăng Long). Lý Thường
Kiệt tiếp đánh, nhưng thế giặc rất mạnh. Máy bắn đá của địch phá chiến thuyền
Việt, và làm cho nhiều binh sĩ nước ta tử trận. Sợ binh sĩ nãn lòng, Lý Thường
Kiệt phao tin có thần nhân báo mộng và cho bốn câu thơ (bằng chữ Nho):
“Nam
quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ”
Có người dịch là:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.“
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ”
Có người dịch là:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.“
Quân
lính nghe được những câu thơ nầy, đều hăng hái đánh giặc. Lực lượng nhà Tống bị
chận đứng. Hai bên cầm cự với nhau bất phân thắng bại. Triều đình nhà Lý đề
nghị bãi binh. Nhà Tống thấy khó thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu, không hạp
thủy thổ, đành chấp thuận. Như thế, cuộc xâm lăng của nhà Tống đầu năm 1077 bắt
nguồn từ việc Lý Thường Kiệt cầm quân gây hấn nhà Tống một năm trước đó.
Lần thứ
ba (1258)
Phía
tây bắc Trung Hoa, tại Mông Cổ, đại hãn Mông Kha (Mangu, trị vì 1251-1259) cử
em là Hốt Tất Liệt (Qubilai) cầm quân tấn công Trung Hoa năm 1251. Hốt Tất Liệt
sai đại tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai), cầm một cánh quân đánh chiếm
nước Đại Lý ở Vân Nam năm 1257. Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang yêu cầu Đại
Việt thần phục Mông Cổ, nhưng vua Đại Việt lúc đó là Trần Thái Tông (trị vì
1226-1258) không chịu.
Ngột
Lương Hợp Thai liền theo đường sông Thao, tiến quân đánh nước Việt tháng 12 năm
đinh tỵ (qua năm 1258). [Sông Thao là tên gọi đoạn sông Hồng từ biên giới Hoa
Việt đến ngã ba sông Hồng và sông Đà.] Không chịu nổi sức tấn công vũ bão của
quân Mông Cổ, Trần Thái Tông bỏ kinh đô Thăng Long rút về Hưng Yên, cách Thăng
Long khoảng 60 km về phía nam. Quân Mông Cổ chiếm Thăng Long, cướp phá giết hại
người Việt không kể già trẻ lớn nhỏ.
Trước
thế nguy, Trần Thái Tông hỏi ý kiến của Trần Thủ Độ nên hòa hay chiến. Ông
cương quyết trả lời: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo.” Chẳng bao lâu,
quân Mông Cổ không quen thời tiết nước ta, bị bệnh tật mỏi mệt. Trần Thái Tông
ra lệnh phản công, đánh đuổi quân Mông Cổ về lại Trung Hoa.
Lần thứ
tư (1285)
Năm
1259, Mông Kha từ trần. Hốt Tất Liệt được hội đồng quý tộc Mông Cổ bầu lên làm
đại hãn năm 1260. Hốt Tất Liệt tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294), đổi quốc
hiệu là Nguyên (Yuan), đem quân xâm chiếm hoàn toàn nước Trung Hoa vào năm
1279.(1)
Trong
khi đó, tại nước ta, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, lên làm
thái thượng hoàng năm 1258 (mậu ngọ). Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông
(trị vì 1258-1278). Thượng hoàng Thái Tông từ trần năm 1277 (đinh sửu). Thánh
Tông lên làm thái thượng hoàng, và nhường ngôi cho thái tử Trần Khâm năm 1278
(mậu dần) tức Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293).
Nguyên
Thế Tổ sai sứ là Sài Thung (Chai Chong) sang Đại Việt cuối năm 1278, hỏi vua
Trần Nhân Tông tại sao không xin phép nhà Nguyên mà tự tiện lên ngôi? Sài Thung
còn buộc nhà vua phải sang chầu hoàng đế nhà Nguyên mới được yên việc. Trần
Nhân Tông tiếp sứ tử tế, nhưng cương quyết không chịu sang chầu nhà Nguyên.
Năm
1282 (nhâm ngọ), nhà Nguyên cử sứ sang nói rằng nếu vua nhà Trần không sang
Trung Hoa, thì cho người đại diện sang chầu. Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần
Di Ái cầm đầu phái đoàn sang triều đình nhà Nguyên. Nguyên Thế Tổ lập tòa tuyên
phủ ty, đặt quan để sang giám trị các châu huyện nước ta. Nhân Tông không nhận,
trả họ về Trung Hoa. Nguyên Thế Tổ liền phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương,
và sai Sài Thung đem 1,000 quân, hộ tống Trần Di Ái về nước. Sài Thung đi vào
bằng đường Lạng Sơn. Quân nhà Trần chận đánh; Sài Thung bị bắn mù một mắt, phải
quay về nước, còn Trần Di Ái bị bắt.
Lúc đó,
Nguyên Thế Tổ muốn bành trướng xuống Đông Nam Á, nhân cơ hội nầy, phong cho con
là Thoát Hoan (Toyan) làm Trấn Nam Vương, lấy cớ mượn đường xuống Chiêm Thành,
đem quân tấn công nước Việt tháng 12 năm giáp thân (qua năm 1285). Lần nầy quân
Nguyên tấn công bằng hai đường: Thoát Hoan từ phía bắc đánh xuống, Toa Đô
(Sogatu) đã qua đánh Chiêm Thành bằng đường biển từ năm 1282, nay quay ngược
trở lên đánh Đại Việt.
Thoát
Hoan dẫn quân qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn), nhắm Thăng Long trực chỉ. Tướng Trần
Quốc Tuấn (Hưng Đạo Vương) lui về Vạn Kiếp (Hải Dương, nơi sông Lục Nam và sông
Thương gặp nhau). Trần Nhân Tông cho người mời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế
giặc mạnh như vậy, ta hãy chịu hàng để cứu muôn dân.” Trần Quốc Tuấn trả lời:
“Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước hãy hàng.”
Quân
Mông Cổ đánh hạ Vạn Kiếp, tiến chiếm Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua về
phía nam, xuống Thanh Hoa (sau nầy là Thanh Hóa). Toa Đô từ Chiêm Thành đem
quân tiến lên, bị Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (em vua Thánh Tông) chận đánh
ở cửa Hàm Tử (Đông An, Hưng Yên). Trần Quốc Tuấn liền đề nghị nhân đà thắng lợi
nầy, tung quân khôi phục kinh thành. Trần Nhân Tông sai thượng tướng Trần Quang
Khải (em vua Thánh Tông, anh của Nhật Duật) cùng với Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ
Lão, đem quân từ Thanh Hoa đi vòng theo đường biển, ngược sông Hồng tiến đánh
quân Mông Cổ tại bến Chương Dương (khu vực Thăng Long), rồi lên bộ bao vây
thành Thăng Long. Thoát Hoan thua chạy lên Kinh Bắc. Trong khi đó, Trần Quốc
Tuấn đánh Toa Đô tại Tây Kết (vùng Hưng Yên ngày nay). Toa Đô bị giết, Ô Mã Nhi
(Omar) bỏ trốn. Trần Quốc Tuấn tiếp tục phản công, sai hai tướng Nguyễn Khoái
và Phạm Ngũ Lão phục binh đánh tan quân Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, trước khi Thoát
Hoan trốn về nước.
Lần thứ
năm (1288)
Tức
giận về sự thất bại vừa qua, Nguyên Thế Tổ cử Thoát Hoan một lần nữa cầm quân
qua đánh phục thù vào tháng 11 năm đinh hợi (1287). Quân nhà Nguyên tiến vào
nước ta bằng ba hướng: ở giữa, Thoát Hoan tiến xuống Lạng Sơn; phía tây, một
cánh quân từ Vân Nam theo đường sông Hồng tràn vào, do Ái Lỗ (Aruc) chỉ huy; và
phía đông do Ô Mã Nhi đi trước, vượt biển Đông tiến vào sông Bạch Đằng. Theo
sau có Trương Văn Hổ tải 17 vạn thạch lương cung cấp cho quân sĩ.
Lực
lượng nhà Trần vẫn do Trần Quốc Tuấn tổng chỉ huy. Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp,
sai Ô Mã Nhi theo sông Lục Đầu đánh xuống Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua
Trần Nhân Tông phải vào Thanh Hoa lánh nạn. Quân Mông Cổ đốt phá Thăng Long rồi
rút lui về Vạn Kiếp.
Ô Mã
Nhi đem chiến thuyền trở ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ngang qua
Vân Đồn (Quảng Yên, nay là Vân Hải, Quảng Ninh), Trần Khánh Dư chận đánh, nhưng
quân Việt bị thua. Gặp được thuyền lương, Ô Mã Nhi cùng Trương Văn Hổ quay trở
vào đất liền. Rút kinh nghiệm vừa qua, Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi mở đường
đi trước, đợi đến khi Trương Văn Hổ tải lương theo sau, Trần Khánh Dư mới đổ
phục binh, cướp hết lương thực và khí giới. Trương Văn Hổ bỏ trốn về Trung Hoa.
Quân
Nguyên càng ngày càng cạn lương thực. Thoát Hoan kiếm cách cầu viện triều đình
nhà Nguyên, nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho chận các đường giao thông ở Lạng Sơn.
Thoát Hoan liền quyết định rút quân. Tháng 3 năm mậu tý (1288) Thoát Hoan sai Ô
Mã Nhi xuôi sông Bạch Đằng, ra biển về trước. Trần Quốc Tuấn theo kế Ngô Quyền
trước kia, sai Nguyễn Khoái dùng cọc gỗ đẽo nhọn rồi bịt sắt và cắm giữa dòng
sông. Nguyễn Khoái lừa Ô Mã Nhi đến chỗ phục binh có đóng cọc, đổ quân tấn công
khi thủy triều xuống. Trần Quốc Tuấn lại tăng viện, đánh tan chiến thuyền Mông
Cổ, và bắt sống Ô Mã Nhi.
Được
tin nầy, Thoát Hoan liền theo đường bộ rút quân về Trung Hoa. Dọc đường quân
Mông Cổ bị chận đánh một vài nơi, nhưng cuối cùng Thoát Hoan cũng thoát được.
Trần Quốc Tuấn hội các tướng, dẫn quân rước vua Trần Nhân Tông và thượng hoàng
Thánh Tông trở về Thăng Long.
Lần thứ
sáu (1407)
Năm
1400 (canh thìn), đại thần Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly lật đổ vua Trần Thiếu Đế
(trị vì 1398-1400), chấm dứt nhà Trần. Nhà Trần bắt đầu từ vua Thái Tông (trị
vì 1225-1258) đến vua Thiếu Đế, truyền được mười hai đời, trong 175 năm.
Lê Quý
Ly lên làm vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành
Đại Ngu, lấy lại họ Hồ là họ của tổ tiên ông, tức Hồ Quý Ly. Làm vua được một
năm, Hồ Quý Ly lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con là Hồ Hán
Thương (trị vì 1401-1407).
Trong
khi đó, bên Trung Hoa, Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398) qua đời năm 1398, cháu
nội lên kế vị là Minh Huệ Đế (trị vì 1399-1403). Huệ Đế làm vua chẳng được bao
lâu thì bị người chú, con của Minh Thái Tổ, lật đổ và thay thế, tức Minh Thành
Tổ (trị vì 1403-1424). Minh Thành Tổ là một người đầy tham vọng, còn tham vọng
hơn cả Minh Thái Tổ.
Bang
giao Việt Hoa càng ngày càng căng thẳng vì nhà Minh đòi hỏi nhiều điều quá
đáng. Năm 1404 (giáp thân), một hoàng thân nhà Trần là Trần Khang, dùng đường
bộ trốn sang kinh đô Trung Hoa, đổi tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của
Trần Nghệ Tông, tố cáo Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tố cáo những lời trần
tình của Hồ Hán Thương là dối trá.
Minh
Thành Tổ sai Lý Kỳ sang nước Việt thăm dò. Lý Kỳ sang nắm tình hình, rồi về
nước phúc trình cuộc đảo chánh của nhà Hồ. Hồ Hán Thương gởi biểu qua nhà Minh
tạ tội, và xin đón Thiêm Bình về làm vua. Năm 1406 (bính tuất) Minh Thành Tổ
sai tướng Hàn Quan, đem năm ngàn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Trần
Thiêm Bình vừa về đến biên giới, liền bị Hồ Hán Thương ra lệnh bắt giết. Hồ Hán
Thương cử Trần Cung Túc cầm đầu phái bộ sang Trung Hoa biện bạch về sự giả trá
của Trần Thiêm Bình. Phái bộ bị nhà Minh giữ lại không cho về.
Tháng 9
năm đó (bính tuất), Minh Thành Tổ cử Chu Năng làm đại tướng, cùng hai phó tướng
là Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang xâm lăng nước ta. Trước khi qua biên
giới, Chu Năng bị bệnh từ trần, Trương Phụ được cử lên thay. Quân Minh tiến
xuống thành Đa Bang (Sơn Tây), một đồn lũy được Hồ Hán Thương cho xây năm 1405
(ất dậu), làm tiền đồn bảo vệ Thăng Long. Trương Phụ và Mộc Thạnh chia nhau hai
mặt tấn công Đa Bang. Khi quân Việt dùng voi phản công, quân Minh dùng hỏa pháo
bắn lại. Voi sợ lửa bỏ chạy. Thành Đa Bang thất thủ, đưa đến việc thất thủ
Thăng Long.
Hồ
Nguyên Trừng, con trai đầu của Hồ Quý Ly, anh của Hồ Hán Thương, đem quân chận
người Minh ở sông Mộc Phàm (Mộc Hoàn, Hà Nam ngày nay), nhưng bị thua phải lui
về cửa biển Muộn Hải, Nam Định. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các quan bỏ
chạy vào Thanh Hóa. Quân Minh đuổi theo. Hai bên gặp nhau ở Lỗi Giang, một phân
lưu của sông Mã (Thanh Hóa). Quân nhà Hồ thua nữa. Hồ Quý Ly cùng hai con chạy
vào Nghệ An. Tháng 5 năm đinh hợi (1407), quân Minh bắt được Hồ Quý Ly ở cửa
biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), và bắt Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng (huyện
Kỳ Anh, Hà Tĩnh), cùng toàn bộ gia đình họ Hồ. Quân Minh không giết cha con Hồ
Quý Ly mà chỉ giải về Trung Hoa.
Cần chú
ý là khi xâm lăng nước Việt lần nầy, Minh Thành Tổ đã đưa ra cho các tướng viễn
chinh ba chỉ dụ đề ngày 21-8-1406, 16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn và nhắc nhở
các tướng Minh thi hành chính sách đồng hóa của nhà Minh và tiêu diệt toàn bộ
văn hóa nước Việt. Chẳng những quân Minh vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn tịch
thu gần như toàn bộ sách vở văn chương, học thuật, tư tưởng và cả giới trí thức
cũng như nghệ nhân người Việt đem về Trung Hoa. Đây là chính sách đồng hóa của
nhà Minh trên toàn cõi đế quốc của họ.(Sẽ viết trong bài tiếp.)
Lần thứ
bẩy (1788)
Nguyên
vào năm 1786 (bính ngọ), Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn ra bắc lần thứ nhất, đánh
tan quân Trịnh, tỏ ý phù Lê. Trong khi quân Tây Sơn còn ở Bắc hà, vua Lê Hiển
Tông (trị vì 1740-1786) từ trần, cháu đích tôn lên thay là Lê Chiêu Thống (trị
vì 1787-1788). Khi quân Tây Sơn rút về, họ Trịnh nổi lên trở lại. Lê Chiêu
Thống viết thư nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh, một cựu tướng nhà Lê, nay đã đầu quân theo
Tây Sơn, đang đóng ở Nghệ An, ra Thăng Long, giúp diệt trừ họ Trịnh.
Chụp
lấy thời cơ, Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi nhanh chóng quân chúa Trịnh, và trở nên
chuyên quyền không khác gì họ Trịnh. Được tin nầy, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai
tướng Võ Văn Nhậm cùng với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh
vào cuối năm 1787 (đinh mùi). Hữu Chỉnh bị bắt giết, vua Lê Chiêu Thống bỏ
trốn. Võ Văn Nhậm đặt Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận, chú của Chiêu Thống và là
anh của bà Ngọc Hân (vợ Nguyễn Huệ), lên làm giám quốc, đứng đầu triều đình nhà
Lê.
Vua
Chiêu Thống trốn lẩn quẩn ở vùng Lạng Giang. Mẹ của vua Chiêu Thống (hoàng thái
hậu) bồng con của nhà vua chạy sang Long Châu (Trung Hoa) cầu cứu nhà Thanh
(1644-1911). Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Thanh Cao Tông
tức Càn Long (Ch’ien-lung / Qianlong, trị vì 1736-1795) rằng đây là cơ hội
thuận tiện, mượn cớ giúp Lê Chiêu Thống để xâm chiếm “An Nam”. Vua Càn Long,
liền ra lệnh cho Sĩ Nghị động binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu và
Vân Nam tiến đánh Đại Việt tháng 10 năm mậu thân (1788). Tôn Sĩ Nghị chia quân
làm ba đạo, vào nước ta bằng các đường Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Trước
sức tiến quân ồ ạt của Tôn Sĩ Nghị, Ngô Văn Sở theo kế hoạch của Ngô Thời Nhậm,
một mặt cho người đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị xin hoãn binh, vừa để kéo dài thời
gian, vừa để nhử địch, một mặt khác bỏ ngỏ Thăng Long, rút quân về Tam Điệp ở
Ninh Bình, bảo toàn lực lượng, chờ viện binh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Tôn Sĩ
Nghị tiến quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vua Chiêu Thống ra đón tiếp và cùng Tôn
Sĩ Nghị vào Thăng Long ngày 20-11-mậu thân (17-12-1788). Hai ngày sau, 22-11
(19-12), Tôn Sĩ Nghị làm lễ tấn phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương.
Được
tin nầy, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân ngày 25-11-mậu thân
(22-12-1788), lấy hiệu là Quang Trung (trị vì 1788-1792), rồi tự mình đem quân
tiến ra Bắc, nhanh chóng đánh đuổi tan tác quân viễn chinh nhà Thanh, tạo nên
chiến thắng Đống Đa lịch sử (mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu, 1789), giải phóng
Thăng Long và giữ vững bờ cõi nước ta.
Kết
luận
Như
thế, từ năm 939 (Ngô Quyền xưng vương) cho đến năm 1788 (Quang Trung xưng
vương), trong vòng 850 năm, các triều đình Trung Hoa đã gởi quân xâm lăng nước
Việt chúng ta tất cả bảy lần. Chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như
sau:
1) Khi nào nước Việt có sự thay đổi triều đại, hay
tranh chấp quyền lực nội bộ, hay nước Việt suy yếu, các vua Trung Hoa liền lợi
dụng thời cơ để xâm lăng, nhất là khi con cháu của các triều đại bị truất phế
chạy qua Trung Hoa cầu cứu.
2) Dù lúc tấn công nước Việt, lực lượng Trung Hoa rất
mạnh, như dưới thời nhà Nguyên (Mông Cổ), nhà Minh, hay nhà Thanh, dù người
Việt lúc đầu thất bại và phải rút lui, nhưng tổ tiên chúng ta luôn luôn cương
quyết đánh đuổi xâm lăng Trung Hoa, dù phải kháng chiến gian khổ để bảo vệ nền
độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc.
3) Trong sáu lần Trung Hoa tấn công nước ta, lần đầu
tiên do triều đình Trung Hoa muốn trả đũa việc Lý Thường Kiệt đem quân tấn công
Trung Hoa trước. Từ kinh nghiệm nầy, sau đời nhà Lý, các triều đại từ nhà Trần
trở đi, tuy cương quyết duy trì chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc, nhưng
không khiêu khích, để tránh bị bắc phương trả đũa. Chỉ khi nào bắc phương xâm
lăng, thì Đại Việt chống trả. Đặc biệt là sau khi đánh đuổi quân Trung Hoa về
nước, Đại Việt vẫn gởi sứ thần sang Trung Hoa ngoại giao, mà ngày xưa gọi là
triều cống, để tránh tái diễn chiến tranh.
4) Những kinh nghiệm chống quân xâm lược Trung Quốc đã
được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, trước khi từ trần năm 1300, tóm lược
với vua Trần Anh Tông: “Đại khái quân giặc cậy vào trường trận, quân ta cậy vào
đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận, là việc thường trong binh pháp.
Nhưng cần phải xét: nếu thấy quân giặc tràn sang như gió, như lửa, thì thế giặc
có thể dễ chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không
vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì mình phải dùng tướng giỏi, phải
xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời cơ mà chế biến
cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha với con một nhà, mới có
thể dùng để chiến thắng được. Vả lại bớt dùng sức dân để làm cái kế thâm căn cố
đế, đó là thượng sách giữ nước không còn gì hơn.” (2)
Theo
Trần Hưng Đạo, Trung Hoa xâm lăng nước ta bằng hai cách: Thứ nhất, quân Trung
Hoa “tràn sang như gió, như lửa”. Thứ hai, quân Trung Hoa “chiếm cứ dần, như
tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay”.
Trong
hai cách nầy, cũng theo Trần Hưng Đạo, cách thứ nhất, tức quân Trung Hoa sang
đánh nước ta như vũ bão, thì “có thể dễ chống cự được”. Ngược lại, nếu Trung
Hoa tiến quân từ từ vào nước ta, theo kiểu tằm ăn dâu, chúng ta sẽ khó chống đỡ
hơn. Trong trường hợp đó, theo Trần Hưng Đạo, muốn chiến thắng địch thủ thì
chúng ta phải tạo nội lực quốc gia bằng cách xây dựng tình đoàn kết dân tộc
(như cha với con một nhà), và nuôi dưỡng sức dân (bớt dùng sức dân) để làm kế
lâu dài mà giữ nước. Tuy nhiên, muốn tạo sự đoàn kết toàn dân và muốn nuôi
dưỡng sức dân, thì người dân phải được hưởng tự do, được công bình trước pháp
luật, mới cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ đất nước, hăng hái bảo vệ độc lập dân
tộc.
Tập
đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Hoa (CSTH) chủ trương bành trướng, còn hơn cả các
triều đình quân chủ Trung Hoa ngày xưa: thôn tính Tây Tạng, xâm lăng Tân Cương,
đánh chiếm hải đảo… Năm 1979, CSTH mở cuộc tấn công đại quy mô, dạy cho CSVN
một bài học, nhưng gặp phản ứng không thuận lợi. Rút kinh nghiệm từ đó, hiện
nay CSTH quay qua thực hiện kế hoạch “tằm ăn dâu”. Dần dần CSTH chiếm đất phía
bắc Việt Nam (ải Nam Quan), chiếm biển phía đông Việt Nam (Vịnh Bắc Việt), lấn
núi phía tây Việt Nam (Trường Sơn), nghĩa là bao vây Việt Nam ba mặt bắc và
đông, tây.
Tình
trạng nầy thật nguy hiểm cho tương lai Việt Nam. Hy vọng những kinh nghiệm lịch
sử của người xưa, nhất là những lời Đức Trần Hưng Đạo đã dặn dò vua Trần Anh
Tông năm 1300, có thể còn hữu ích cho người Việt, nhằm tìm cách phòng bị và
chống lại mối đe dọa thường trực từ Bắc phương.
Chú
thích
1. Khi Hốt Tất Liệt xâm lăng Trung Hoa, đặt Trung Hoa
dưới ách thống trị của Mông Cổ năm 1279 nghĩa là mặc nhiên sáp nhập Mông Cổ vào
Trung Hoa. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ), lên làm
vua, tức Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398), lập ra nhà Minh. Nhà Minh cai trị
luôn Mông Cổ. Trường hợp nầy cũng xảy ra với nhà Thanh ở Mãn Châu. Cuối đời
Minh, Lý Tự Thành nổi lên ở Thiểm Tây, tự xưng vương năm 1643. Năm sau (1644),
Lý Tự Thành kéo quân chiếm Bắc Kinh, vua Minh Hoài Tông (trị vì 1628-1644) tự
tử. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế thông đồng với người Mãn Thanh (nhà Thanh) ở
phía bắc, để dẹp Lý Tự Thành. Lý Tự Thành thua chạy, vua Thanh vào Bắc Kinh làm
lễ đăng quang tức Thanh Thế Tổ, niên hiệu Thuận Trị (trị vì 1644-1661). Từ đó,
nhà Thanh làm chủ Trung Hoa, Mãn Châu tự động sáp nhập vào Trung Hoa. Khi nhà
Thanh sụp đổ sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, đất Mãn Châu cũng bị xem là
thuộc Trung Hoa.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt.
558-559.
3. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác
giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
Đại nạn Trung Hoa thời cận đại
1.-
TRUNG HOA GẶP ĐẠI NẠN
Vào thế
kỷ 19, trong nền giao thương giữa Trung Hoa và các nước Âu Châu, một cuộc tranh
chấp gay gắt đã đưa đến việc người Âu Châu xâu xé Trung Hoa. Nguyên trong những
sản phẩm người Anh đem đến Trung Hoa, có một món hàng vừa dễ chuyên chở, lại
bán được nhiều và được giá cao, đó là thuốc phiện (nha phiến).
Thuốc
phiện mà người Trung Hoa gọi là cù túc, đã được người Ả Rập nhập vào Trung Hoa
từ thế kỷ thứ 8, nhưng chỉ được sử dụng trong y học. Đến thế kỷ 16, những nhà
giàu có Trung Hoa bắt đầu dùng ống dọc tẩu để hút. Công ty Đông Ấn Anh Quốc
(The English East India Company) nhập cảng ồ ạt thuộc phiện vào Trung Hoa để
kiếm lợi, làm tăng nhanh giới nghiện thuốc phiện tại nước nầy. Con số người
nghiện lên đến khoảng mười triệu người vào năm 1830. Năm 1838, Anh nhập vào
Trung Hoa 40,000 thùng thuốc phiện; một thùng khoảng 70 ký-lô, giá có khi lên
đến hai ngàn tiền vàng Mễ Tây Cơ. Việc nầy gây ra hai thiệt hại quan trọng cho
Trung Hoa: Thứ nhất người nghiện càng ngày càng đông, bệnh tật, đói nghèo và
trở nên vô dụng. Thứ hai, người Hoa tốn rất nhiều tiền nhập thuốc phiện qua tay
thương giới Anh.
Vua Đạo
Quang (Tao-kuang / Dao Guang), tức Thanh Tuyên Tông (Qing Xuan Zong, trị vì
1821-1850), quyết định bài trừ và cấm nhập cảng thuốc phiện năm 1838. Việc nầy
đưa đến chiến tranh giữa Anh Quốc và Trung Hoa năm 1840, thường được gọi là
“Nha phiến chiến tranh”.
Trung
Hoa thất bại, phải ký hiệp ước Nam Kinh (Nanking) năm 1842,
gồm 12 khoản, theo đó các khoản quan trọng là: Trung Hoa phải nhượng Hồng Kông
(Hương Cảng) cho Anh; mở năm hải cảng Quảng Châu (Kwangchow), Hạ Môn (Xiamen
hay Hsiamen), Phúc Châu (Fuzhou hay Fuchow), Ninh Ba (Ningpo hay Ningbo),
Thượng Hải (Shanghai) cho người Anh buôn bán và gia đình cư trú, có lãnh sự
trông coi việc buôn bán; bồi thường cho Anh 21,000,000 tiền vàng Mễ; hàng hóa
Anh nhập cảng chịu thuế một lần, và thương nhân Trung Hoa không đóng thêm thuế
khi chuyển hàng tiếp vào nội địa; công văn trao đổi hai bên có tính cách bình
đẳng. Vì việc mở năm hải cảng nên hiệp ước nầy được các sách Trung Hoa gọi
là Ngũ khẩu thông thương điều ước.
Cả hai
bên Anh Quốc và Trung Hoa đều vi phạm hiệp ước Nam Kinh. Cuộc xung
đột lớn xảy ra vào năm 1856. Quân Anh tấn công Quảng Châu rồi rút lui. Người
Hoa tức giận đốt hết các thương quán, dinh thự của Anh, Pháp, Hoa Kỳ. Cuối năm
1857, liên quân Anh Pháp đánh chiếm Quảng Châu, rồi tiến lên đánh Thiên Tân
(Tianjin hay Tientsin), đe dọa Bắc Kinh.
Nhà
Thanh vội vã ký hai hiệp ước Thiên Tân riêng lẽ, một với Anh
và một với Pháp năm 1858. Hai hiệp ước nầy có những điểm chung sau đây: 1) Đại
diện Anh, Pháp tự do cư trú ở Bắc Kinh. 2) Giáo sĩ Anh, Pháp tự do truyền đạo ở
nội địa Trung Hoa, công dân Anh, Pháp có hộ chiếu được tự do du lịch Trung Hoa.
3) Mở thêm nhiều thương cảng. 4) Công dân Anh, Pháp được quyền lãnh sự tài
phán, nghĩa là nếu họ phạm tội trên đất Trung Hoa, thì sẽ do lãnh sự của họ xử;
nếu họ có tranh tụng với người Hoa thì sẽ do quan lại Trung Hoa cùng lãnh sự
xử. 5) Giá biểu quan thuế mới sẽ có sự bàn bạc với đại diện Anh, Pháp.
Năm
1859, khi quân Anh, Pháp đến Bắc Kinh để trao đổi hiệp ước đã được phê chuẩn,
quân Thanh bất ngờ tấn công. Liên quân Anh Pháp liền trả đũa, bắn phá dữ dội.
Vua Hàm Phong (Xian Feng) tức Thanh Văn Tông (Qing Wen Zong, trị vì 1851-1861)
bỏ chạy, giao trách nhiệm cho hoàng thân Cung Thân Vương. Ông nầy thương thuyết
và ký hiệp ước Bắc Kinh năm 1860, lập lại những điều trong
hiệp ước Thiên Tân, cộng thêm ba điều quan trọng là mở cửa Thiên
Tân, bồi thường cho Anh và Pháp mỗi nước 8 triệu lạng bạc (trong khi theo hiệp
ước Thiên Tân, Trung Hoa chỉ trả cho Anh 4 triệu và cho Pháp 2
triệu mà thôi), và cắt đất gần Hồng Kông là Cửu Long (Kowloon) và các đảo phụ
cận là Stonecutters Inlands cho Anh.
Chẳng
những phải bồi thường cho Anh và Pháp, Trung Hoa còn phải đền công cho Nga, là
nước đã làm trung gian giúp đưa đến hiệp ước Bắc Kinh năm
1860. Nga được hưởng lợi nhiều hơn cả Anh và Pháp, vì được Trung Hoa nhượng
nhiều đất ở phía tây bắc Trung Hoa. Từ đó, các cường quốc Âu Mỹ cùng nhau xâu
xé Trung Hoa. Năm 1895, Trung Hoa lại thua Nhật, phải nhượng bộ trong hòa ướcShimonoseki (Hạ
Quan) ngày 17-4-1895.
Vào gần
cuối thế kỷ 19, bị các nước Tây phương đe dọa, Trung Hoa khốn đốn không kém
Việt Nam ở phương nam, nhưng triều đình nhà Thanh vẫn cứ tự nhận Trung Hoa là
thượng quốc, có ưu quyền ở Việt Nam.
2.-
TRUNG HOA TỰ NHẬN ƯU QUYỀN THƯỢNG QUỐC
Trên
đường tìm kiếm thuộc địa sau cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu, Pháp viện dẫn lý
do triều Nguyễn đàn áp Ky-Tô giáo, Pháp đem quân tấn công Đà Nẵng ngày
1-9-1858, mở đầu cuộc xâm lăng Việt Nam. Pháp chiếm các tỉnh Gia Định, Định
Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, buộc triều đình Huế phải ký hòa ước Nhâm
Tuất ngày 5-6-1862, nhượng ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường (ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ) cho Pháp.
Không
dừng lại ở đó, Pháp tiếp tục chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An
Gia, Hà Tiên năm 1867, và tiến quân ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873, chiếm
Hà Nội, Ninh Bình, Hải Dương, Nam Định. Pháp ép triều đình Huế ký hòa ước
ngày Giáp Tuất 15-3-1874, nhường đứt luôn ba tỉnh miền Tây Nam
Kỳ cho Pháp, để Pháp trả lại các tỉnh Bắc Kỳ. Hòa ước Giáp Tuất ngày
15-3-1874 gồm 22 điều khoản, trong đó điều khoản số 2 nói rằng “Tổng thống
Pháp nhận Đại Nam là một quốc gia độc lập, không phải thần phục nước nào, hứa
giúp Hoàng đế Đại Nam nếu cần, bảo vệ an ninh trong và ngoài nước…”, và
điều khoản số 3 tiếp theo “Để đáp lại sự bảo hộ ấy, Hoàng đế Đại Nam từ nay
chịu theo chính sách ngoại giao hiện thời của nước Pháp…” Nói cách khác, từ
nay Việt Nam phải theo chính sách ngoại giao của Pháp, và không được thần phục
hay giao thiệp với nước khác mà không có sự đồng ý của Pháp.
Khi hòa
ước năm 1874 đã được hai bên Việt Pháp phê chuẩn và trao đổi, đại diện Pháp tại
Bắc Kinh là De Rochehouart chuyển bản hòa ước nầy cho chính phủ Trung Hoa ngày
24-5-1875. Triều đình nhà Thanh trả lời rằng: “Chí Giao Chỉ tức Việt Nam bổn
hệ Trung Hoa thuộc quốc.” (nghĩa là: “Từ Giao Chỉ đến Việt Nam vốn là
thuộc quốc của Trung Hoa.”). Câu nầy được tòa lãnh sự Pháp dịch qua Pháp
văn theo nghĩa là: “An Nam cũng là xứ được gọi là Việt nam. Xứ nầy từng là
nước thần phục Trung Hoa.”(1) Do cách hành văn khác nhau, Trung
Hoa nghĩ rằng họ đã phản đối Pháp, nhưng Pháp lại cho rằng Trung Hoa chẳng phản
đối gì.
Trong
cuộc tiếp xúc với thủ tướng Pháp là Charles de Freycinet ngày 25-1-1880, đại sứ
Trung Hoa tại Pháp là Tăng Kỷ Trạch (Zeng Ji Ze) khẳng định với Pháp rằng Việt
Nam là chư hầu của Trung Hoa.(1) Vua Trung Hoa lúc nầy là Quang Tự
(Kuang-hsu) hay Thanh Đức Tông (Qing Te-tsung, trị 1875-1908) mới 10 tuổi và bà
thái hậu Từ Hy (Tzu-Hsi / Ci Xi, 1835-1908) giữ quyền nhiếp chính.
Tăng Kỷ
Trạch còn viết thư ngày 10-11-1880 khi ông đến St Pétersbourg (Nga), yêu cầu
ngoại trưởng Pháp cho Trung Hoa biết lập trường của Paris về những biến chuyển
ở Bắc Kỳ. Trong thư trả lời ngày 27-12-1880, ngoại trưởng Barthélemy St.
Hilaire đáp lại rằng theo điều 2 hòa ước năm 1874, Pháp có bổn phận và trách
nhiệm với Việt Nam. Thư nầy được gởi đến cho Tăng Kỷ Trạch và chính phủ Trung
Hoa. Tăng Kỷ Trạch cho đại diện Pháp ở St. Pétersbourg biết rằng Pháp có thể
chiếm Trung Kỳ, nhưng nếu chiếm Bắc Kỳ thì sẽ gây quan ngại cho Trung Hoa, vì
vùng nầy tiếp giáp với biên giới Trung Hoa. Ngoại trưởng Pháp liền ra lệnh cho
viên đại diện Pháp báo cho Tăng Kỷ Trạch biết rằng từ năm 1874, ngoài nước Pháp
Việt Nam đã hoàn toàn cắt đứt liên hệ với các nước khác.(2)
Về phía
Việt Nam, dầu đã ký Hòa ước Giáp Tuất (15-3-1874), chịu nhận
nền ngoại giao Pháp, vua Tự Đức vẫn gởi phái bộ ngoại giao sang Trung Hoa năm
1876, để chúc mừng vua Thanh Đức Tông lên thay vua Thanh Mục Tông (Mu-tsung)
(trị vì 1862-1874), tức vua Đồng Trị (T’ung-chih) từ trần năm 1874. Tháng
7-1880, vua Tự Đức còn cử sứ thần sang Trung Hoa thêm lần nữa. Chuyến đi nầy,
chẳng những có tính cách ngoại giao thông lệ bốn năm một lần cống sứ, mà còn để
nhờ Trung Hoa giúp đỡ.
Năm sau
(1881), Trung Hoa gởi Đường Đình Canh sang kinh đô Huế bàn chuyện buôn bán, lập
chiêu thương cuộc. Những sự kiện nầy không thể qua mặt người Pháp. Khâm sứ Pháp
tại Huế là Rheinart đã báo cáo đầy đủ các chuyến đi sứ của Việt Nam sang Trung
Hoa cho thượng cấp ngày 2-8-1882.(Yoshiharu Tsuboii, sđd.tt.
298-299.)
Về phía
nhà Thanh, tại Bắc Kinh, đại diện Trung Hoa phản đối với đại sứ Pháp, cho rằng
Việt Nam là thuộc quốc của Trung Hoa và yêu cầu Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ để
duy trì tình hữu nghị Hoa Pháp. Tại Paris, ngày 6-5-1882, đại sứ Tăng Kỷ Trạch
cũng lên tiếng phản đối Pháp và yêu cầu Pháp rút quân.
Thủ
tướng Freycinet (Pháp) cho rằng lời lẽ của họ Tăng bất nhã, nên yêu cầu đại sứ
Pháp tại Bắc Kinh cho chính phủ Trung Hoa biết rằng sẽ không nói chuyện với
Trung Hoa và yêu cầu Trung Hoa đừng xen vào chính sách Pháp ở Bắc Kỳ.(3)
Về quân
sự, ngày 30-6-1882, tổng đốc Vân Nam (Trung Hoa) loan báo rằng quân đội Trung
Hoa sẽ tiến vào lãnh thổ Bắc Kỳ để truy đuổi các thổ phỉ Cờ đen. Trong tháng
sau, tướng Tạ Kính Bưu đem ba doanh quân Vân Nam đến đóng tại Quản Ty (Hưng
Hóa). [Một doanh khoảng 1,000 quân.] Vào tháng 9, nhà Thanh cử tướng Hoàng Quế
Lan đem mười hai doanh quân đóng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên,
Bắc Ninh, và tướng Triệu Ốc đem năm doanh quân đóng ở Tuyên Quang. Tài liệu
Pháp cho rằng số quân Trung Hoa tại Bắc Kỳ lúc đó lên đến 20,000 người. Dầu
vậy, lực lượng Trung Hoa dần dần bị Pháp đẩy lui.
Trong
thực tế, Trung Hoa điều quân qua Việt Nam nhắm mưu lợi, chứ chẳng
phải thực tâm giúp đỡ Việt Nam chống Pháp, nên khi thấy không thể chiến thắng
được Pháp, Trung Hoa quay qua thương thuyết với Pháp để chia phần ở Việt Nam.
3.-
TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ
Ngày
27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong
phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói
chuyện với Bắc Kinh. Trước sự cương quyết của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý
Hồng Chương (Li Hongzhang hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng
lý nha môn, cơ quan phụ trách ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với
Bourée rằng Trung Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo
cáo sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.
Lúc đó,
các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn chiếm Bắc Kỳ, nhưng vừa ngại tốn kém
vì Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường
lối của chính phủ Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée
cho Paris biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và
Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa ra Pháp lệnh cho soái
phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr.
291)
Ngày
20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký
tạm ước Thiên Tân về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc
sông Hồng (vùng núi non và hầm mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu
thổ, sản xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung Hoa, nhưng
người Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam.(4) tạm ước Thiên
Tân thật ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa
vạch ra cụ thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.
Tuy
nhiên, chẳng bao lâu, Tạm ước Thiên Tân bị Pháp bãi bỏ. Nguyên
tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày 22-1-1883. Armand Fallières
tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry trở lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày
21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn đề Ai Cập (Egypt) vì nước nầy đã do
nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.
Việc
làm đầu tiên về Việt Nam của chính phủ Jules Ferry là bãi bỏ tạm ướcThiên
Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm
ước đã giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được
Pháp báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau, đại sứ Bourée bị
triệu hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật, sang Bắc
Kinh làm đại sứ từ ngày 1-6-1883.
Ngày
18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường
sáu điểm của Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không
được chiếm bất cứ phần lãnh thổ nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung
Hoa; (3) Pháp phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải
cảng để giao thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng
nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm
việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa Pháp và Việt Nam
phải được Trung Hoa chấp thuận.(Vũ Ngự Chiêu, sđd.tt. 328-329.)
Trong
khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883.
Thất bại, triều đình Huế đành xin điều đình và ký hòa ước Quý Mùi ngày
25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước Nam nhận và
chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối tương giao nầy theo luật
pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự giao thiệp của
nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao thiệp ngoại
giao với nước nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà thôi.”
Bảo hộ
xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của
Trung Hoa trong thư trả lời ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng
giải quyết vấn đề an ninh biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông
Hồng.
Ngoại
trưởng Pháp còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần
nữa xác nhận rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên Tân ngày
20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9
còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu phi quân sự giữa
hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn động binh để đánh dẹp thổ phỉ thì phải
có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng trong lãnh thổ
Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao thương. Chính sách của chính phủ Jules
Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu tại Quốc hội
ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 330-332.)
Hai
chính phủ Pháp Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền
tại miền Bắc Việt Nam, trong khiTrung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho
Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng
Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa
còn hy vọng hai nước Anh và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn ở
Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng để
chống Đức ở biên giới giữa hai bên.
Cuối
cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền
biên giới, làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi
được ở Việt Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi
chiến phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.
4.-
HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHẤT (11-5-1884)
Đầu
tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên là Gustav Detring, người Đức, công
chức cao cấp trong ngành thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng
Châu, vận động với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884, Gustav Detring đem việc
nầy thảo luận với một người bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm
trưởng tuần dương hạmVolta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình bày
lại ý định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Sébastien Lespès,
tư lệnh hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận cho
Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt Lespès trình về Paris.
Ernest
Fournier nhờ Gustav Detring chuyển cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các
điều kiện về phía Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại
sứ Tăng Kỷ Trạch, từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa
khỏi Bắc Kỳ, và bồi hoàn chiến phí.(5)
Để tỏ
thiện chí, triều đình Trung Hoa quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của
Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh
Trừng làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.
Cuộc
nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng
ký hiệp ước ngày 11-5-1884, gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp ướcFournier hay
hiệp ước Thiên Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới
Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước
ký kết giữa Pháp và Việt Nam. 3) Pháp không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy bỏ
những hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết không
làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau lại trong
vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.
Ernest
Fournier tiếp tục thương lượng với Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút
quân. Ngày 17-5, Fournier trao cho Lý Hồng Chương một giác thư (mémorandum)
theo đó Pháp sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày
1-7-1884.(Alfred Schreiner, sđd. tr. 362.)
Nhận
được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng
Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông
cử quân đi tiếp thu Lạng Sơn. Trên đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ
ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn công dữ dội và gây thiệt hại
nặng nề.
Chính
phủ Paris được tin Bắc Lệ, liền ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho
triều đình Mãn Thanh một tối hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh
quân đội mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa
phải bồi thường 250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung
Hoa.
Phó đề
đốc Prosper Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ
huy hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu
(Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội
Pháp khác đến đảo Cơ Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan. Ngày 5-8-1884, Pháp bắt
đầu tấn công, gây thiệt hại nặng cho Trung Hoa.
Trên
biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa
sông Dương Tử (Yang-tse), vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp
làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, Sài
Gòn: 1971, tt. 227-228.)
5. HIỆP
ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ HAI (9-6-1885)
Trong
khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn
ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp Hoa đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn
cảnh riêng của mỗi bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi
đến việc ký kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp
đổ. Chính phủ Brisson lên thay thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles
Freycinet.
Cuộc
đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885
giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và
thương mại ký ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và Si
Tchen, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang / Li-Hung-Tchang) và Teng Tcheng Sieou (đại
diện Trung Hoa).
Hòa
ước Thiên Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể được
tóm lược như sau: Trung Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1). Trung Hoa nhìn
nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam (điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề
biên giới Việt Hoa (điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại
(điều 5, 6, 8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (Pescadores)
(điều 9).
Như thế
là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn
đến Hà Nội để giúp chấm dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở
về Trung Hoa.
KẾT
LUẬN
Dầu
Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một
nước độc lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên tự xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu
quyền đối với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện, Trung Hoa tự xem có quyền
thương lượng với Pháp về Việt Nam, muốn chia phần với Pháp và quyết định số
phận Việt Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng
những nhà cầm quyền Trung Hoa không bao giờ từ bỏ mục tiêu truyền kiếp là đánh
chiếm và đô hộ Việt Nam.
Chú
thích:
1. Yoshiharu
Tsuboii, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nguyễn Đình Đầu dịch,
TpHCM: Ban Khoa học Xã hội, 1990, tr. 142.
2. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.
3. Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353.
4. Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971, tr. 164.
5. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372.
2. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945, tập 1, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1999, tt. 273-274.
3. Alfred Schreiner, Abrégé de l’histoire d’Annam, Sài Gòn: 1906, tr. 353.
4. Khối Quân sử, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm (1847-1945), Quân sử III, Sài Gòn: Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, 1971, tr. 164.
5. Alfred Schreiner, sđd.. tt. 371-372.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét