GS
Phạm Cao Dương
Tháng 4 18, 2019
“...chúng ta cũng cần phải chú ý là
rất có thể người Tầu sẽ không cần phải chiếm đóng Việt Nam mà qua
một nhóm bù nhìn, họ chỉ cần dìm Việt Nam xuống hàng thứ yếu để
một mặt trở thành một thứ bán thuộc địa để dễ khai thác...”
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám
nói gì với Trung Quốc…”(Lời Thiếu tướng CSVN Lê Duy Mật)
“Nhiều người đã ví giai đoạn mất
nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối...”
Phạm Cao Dương (*)
“Chúng ta phải giành cho được
Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a
và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng
sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được
Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng
này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió
đông sẽ thổi bạt gió tây.”
“Chúng ta phải chinh phục trái
đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” Mao Trạch Đông
Tuyên bố trước Trung Ương Đảng
Cộng Sản Trung Quốc năm 1959 (Trích từ “Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc
Trong 30 Năm Qua”. Nhà Xuất bản Sự Thật,1979, tái bản 1980.)
Trước khi vào đề: Đây là bài
thứ ba trong loạt bài tác giả viết dưới nhan đề chung là “Mưu Độc
Ngàn Năm” như một lời cảnh giác về hiểm họa Bắc Phương mà tổ tiên
người Việt từ thời Mã Viện non một ngàn năm trước đã phải liên tục
đương đầu. Bài thứ nhất nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và
chủ trương đồng hóa tiếp theo của Mã Viện với việc dựng cột đồng
của viên tướng Nhà Hán này. Bài thứ hai nói về việc Nhà Minh tịch
thu sách của ta đem về Tầu nhằm tiêu diệt văn hóa của người Việt, từ
đó chính dân tộc Việt Nam; và bài thứ ba về cuộc xâm lăng vừa công
khai vừa âm thầm chút một nhưng vô cùng nguy hiểm bằng những phương
tiện tinh vi nhất, độc địa nhất, mới mẻ nhất hiện đang xảy ra ở
ngoài Biển Đông và ở ngay trên đất liền của chính quốc Việt Nam.
Đây là một vấn đề vô cùng
rộng lớn và vô cùng phức tạp nhưng vì giới hạn của một bài viết
ngắn để bạn đọc có thể bỏ thì giờ đọc được, tôi chỉ xin đưa ra những
điểm chính, đồng thời tôi sẽ không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng cùng những gì đế quốc mới
này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết
lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe
dọa các quốc gia liên hệ và chặn bắt các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là
ngư dân Việt Nam…
Lý do là vì tất cả đã trở thành
đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày
trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát
thanh, đài truyền hình của người Việt, và trên các trang mạng từ nhiều năm nay
và đương nhiên cả trong những buổi gặp gỡ giữa người Việt ở Hải Ngoại.
Ngoài ra một số sách cũng đã được soạn riêng và xuất bản về vấn
đề này rồi.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít
về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động
Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển
Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất
Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước
gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp
Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm với nhiều kiến
nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ
được trả lời quanh co hay gián tiếp rồi sau đó im lặng luôn theo chiến
thuật “phân trâu để lâu hóa bùn”.
Công hàm Phạm Văn Đồng
Tôi cũng không nói hay nói rất ít
về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một
bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết (07/2011) theo đó những người cầm quyền ở
Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của
Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ
Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là
họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi
lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ
sau đó.
*****
Chú thích:
Bản tuyên bố của Chính phủ Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa có nội dung như sau:
"Chính phủ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và
các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác
bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo
Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi
điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem
là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài
khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung
Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể cả vịnh Bột Hải và eo biển Quỳnh
Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường cơ sở, kể cả
đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ, các đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khâu,
Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm, và đảo Đông Đĩnh, là các đảo
thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của
Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân
sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này.
Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên
thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng
áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa,
quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc
Trung Quốc.
Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện
tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳ xâm chiếm. Ðây là hành vi phi pháp, xâm
phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài
Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền
dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai, không
cho phép nước ngoài can thiệp."
0-0-0-0
Công hàm Phạm Văn Đồng:
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin
để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính
phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan
hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí
Tổng lý lời chào rất trân trọng.
(Tài liệu của Bách khoa Toàn thư
mở)
congham_phamvandong
*****
Đây cũng là lần đầu tiên họ,
những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia
Việt Nam thời Quốc Gia Việt Nam với Quốc Trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt
Nam Cộng Hòa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo
Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ
quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính
phủ này tồn tại.
Lý do chính yếu khiến tôi không
nói hay chỉ nói rất ít về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời đang
xảy ra ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là
bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu và chưa phải là chính. Tất cả rồi cũng sẽ
được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa
cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa
Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản
trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi Hoa Kỳ và các nước Tây Phương có những
thái độ tích cực hơn, cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng
kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng
năm 1974 trước sự ngoảnh mặt của Đồng minh Hoa Kỳ, và trong sự im lặng, đồng
lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền
Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt
Nam và cho chính họ. Đã chót cầm bút ký công hàm, đã chót giữ im lặng
không phản đối đúng lúc giờ có hối hận thì đã quá muộn.
Điểm mất nước ở đâu?
Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn,
Biển Đông, chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy
được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì
mục tiêu chính để dứt điểm đất nước và dân tộc Việt Nam hay cái điểm
nằm ở đâu? Nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam
trên bán đảo Đông Dương. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không
riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi
nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự
chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979
giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu anh em và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên
1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm
củng cố vị thế cầm quyền, tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián
tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu
Hoàng Bảo Đại. Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn
toàn giải tỏa dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối
về vấn đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những
cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc
vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm,
mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong
lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện
tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố
định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là
những mỏ Bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của
những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa
điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những
trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà
các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố
kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa”,
những “colonies” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi
những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ.
Nói cách khác, theo lời của các
tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7
năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta
mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập,
lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta. Đó là mặt
trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ
xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ
giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh
đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm
sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta.
Đánh thắng nước ta trên mặt trận
nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả. Nói cách khác đó là chiến
lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt
Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng hơn là chiếm luôn cả
nước và tiêu diệt cả dân tộc theo lời nguyền của Mã Viện hơn một
ngàn năm trước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương
nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy tưởng tượng ngay trên Cao
Nguyên Miền Nam, mái nhà của toàn xứ Đông Dương, địa điểm chiến lược quan
trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất
của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự
kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người
Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai
được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở
đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm
soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì? Làm
sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở
những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có
tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực
thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Nhìn vào con số 90%
các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nước đã lọt vào tay các nhà
thầu Trung Cộng. Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay
không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ
thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các
nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên
lề các đại công trường trên chính đất nước của mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết
vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để
lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ
Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà
Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm
theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các
quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng
chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ
gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái,
đánh lộn, kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…
Những người Tầu được gửi sang
Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào? Họ có phải thuần túy là dân
lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những
đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn?
Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở
khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa
phương đều đã không kiểm soát được hay cố tình làm lơ không kiểm soát. Mặt
khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả
ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số
người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia đáng kể và sự cạnh tranh cũng như sự kỳ
thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm
trọng.
Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi
tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không? Ta không được biết, nhưng
chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác Bauxite, với lượng
nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có
vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng, người ta không
thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của
đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh
xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ
sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra
thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm
mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng
gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả
và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và
biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một
tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam của Tầu, rộng trên ba trăm ngàn cây số
vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan
về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long. Đó chính là ước mơ của những
người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều
này không phải là không thể xảy đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân
tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ
“trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một
tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến
rất
rộng rãi và trong một thời gian
dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay
chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy
Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Nội thù Tiếp tay
Những gì tôi kể ra trên đây chỉ
là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm
ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu
phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực
phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài
người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây
hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự
an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa
cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta
cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía
tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó
khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN
vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam
Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do
người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những
người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi,
vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình
thì sao ? Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở
khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là
dự án xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất
chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở
Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những
người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước
họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có
những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có
kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam
mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta
đã không điếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội.
Hai Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong
nước và Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp là những chuyên viên thượng thặng
của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời
lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa
xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng
để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù
sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi.
Tham nhũng và nhất là bệnh thành
tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì
cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối
cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ
cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn
người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam
Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng
Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của nhiều ca nhạc
sĩ gốc Chàm sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót.
Nên biết thêm là có một thời
nhà cầm quyền ở Việt Nam đã dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy
điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà,
mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc
thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và Chính Phủ. Họ viện cớ là các nhà sản
xuất
đều nói là các lò họ làm là an
toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những
hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nếu chẳng may những vụ rò
rỉ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima thì một phần ba
dân số cả nước, phần ba dân số vốn bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”,
là “đất cày lên sỏi đá”, là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời
thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận
An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo
của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu. Cũng may là dự án Phan Rang đã
tạm thời được hoãn lại. Nhưng vụ Formosa Hà Tĩnh, nhà máy gang thép hỗn
hợp Đài Loan-Trung Cộng lại bùng nổ và đã gây tai họa với nạn ô nhiễm
môi trường và cá chết khủng khiếp ở Vũng Áng (Hà Tĩnh) năm 2016. Tiếp
theo là các dự án đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc
được dự trù cho nước ngoài, với Trung Cộng là chính, thuê tới 99 năm. Rất
may là cuộc biểu tình phản đối trong cả nước của người dân ngày 10/06/2018 đã
buộc chính quyền CSVN phải dừng lại. Nhưng có thể còn nhiều vụ tương tự
khác nữa sẽ được thực thi mà người dân không biết.
Trên đây chỉ là một số những gì
đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn
quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều
chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn, thâm độc
hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam
vào Trung Quốc. Nhà nước CSVN đã cấm dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để
bày tỏ lòng yêu nước của mình. Ngược lại, họ đã bắt bớ hành hạ khi dân phản
đối, hoặc không cho dân biết những gì xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong
của quê hương và dân tộc mình.
Trước tình trạng đa số người dân
không được biết hoặc không muốn biết để tránh liên lụy nên đa số đều dửng
dưng, nếu không nói là vô cảm trước an nguy của đất nước. Bên cạnh hiện tượng
thờ ơ này là sự suy đốn trầm trọng trong sinh hoạt của giới trẻ, với nạn
ăn chơi bừa bãi, cuồng nhiệt lan rộng trong xã hội. Thậm chí đến độ tự
thoát y giữa đường phố để mừng chiến thắng thể thao !
Tệ hơn nữa là nạn suy đồi
đạo đức của người lớn đang ngày một lên cao, nhất là bạo lực và lạm
dụng tình dục ngay trong học đường. Như vậy, liệu khả năng đề kháng
truyền thống ngàn năm của người Việt trong hoàn cảnh này có tồn tại
được không?
Nhiều người đã ví giai đoạn mất
nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với
cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ leo lên cho đến khi miếng
bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Âm mưu Mao Trạch Đông
Do đó, câu hỏi được đặt ra là
những người đang lãnh đạo Việt Nam hiện tại có biết rằng, như một truyền thống
hay một mưu độc ngàn năm, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người
lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ
giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào
“mười sáu chữ vàng” và “tinh thần bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã trao cho họ để tự
lừa dối và lừa dối dân mình qua phương châm “vừa là đồng chí, vừa là anh em”?
(16 Vàng :“láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, 4 Tốt: “láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” )
Câu trả lời là có. Bằng cớ là năm
1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng
cắn bật máu. Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người
dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ
xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của
thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế
giới, bắt đầu là Đông Nam Á. rong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt
Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành
năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do
Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu,
người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu
nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao
Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các
nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung
Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận,
Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Tiếp đến, một bản đồ trong một
sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và
Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy
Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao
Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình.
Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải
chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp
hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả
miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như
Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn
kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể
tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức
mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
Nên để ý là khi nói tới
Việt Nam, Mao Trạch Đông đã nói tới “nam Việt Nam” thay vì “Việt Nam”
gồm cả Bắc và Nam. Phải chăng ông đã coi Bắc Việt Nam là xong rồi,
là thuộc Trung Quốc rồi, không cần phải nói tới nữa? Ngoài ra, phải
chăng đây cũng là một hình thức rửa mối nhục chung mà không ít người
Tầu cho là họ đã phải gánh chịu trong Thế Kỷ 19, sau trận Chiến
Tranh Nha Phiến: “Gió đông sẽ thổi bạt gió tây”?
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam
ở biên giới Trung - Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam, Cộng
Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà
Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước
năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công ước này
bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm
1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên
giới giữa hai nước. Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số
các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ
năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày
10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số
vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng
Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1989,
sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay
tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung
Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu
diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn
vết tích.
Tuy nhiên Lão Sơn không phải là
tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các
tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt
Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về
tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho
dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến
phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng
luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ
trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải
công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao
lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước kia Nhà Thanh đã ký
với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm
1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000
("Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc" và
“Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ” ).
Chiến thuật này đang được họ dùng
ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và
một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam
giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã
cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm
địa điểm Lão Sơn này, kèm theo
hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt
Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước
không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung
Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng, mà người Mỹ, không rõ do lý do bí
mật gì hay không, đã gọi là China Beach, như là biển nhà của mình thay vì
phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước, hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến
dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các
thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc
tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm
kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế
nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã
có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn
cần phải tìm hiểu và bàn thảo nhiều hơn nữa. Có điều chắc chắn là
các nhà nghiên cứu ở trong nước hiện không được tự do tìm hiểu và
không được tự do tiếp xúc với các tài liệu bị coi là bí mật quốc
gia còn tàng trữ ở Kho Lưu Trữ Trung Ương hay ở rải rắc khắp trong
nước, và tự do công bố những gì mình tìm được. Tạm thời tôi chỉ xin
mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài
viết này, hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ, hay những bài viết
của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Cựu Đại Sứ
Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần
đây.
Trước khi dừng bút, tôi xin
được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu
Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh
biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA,
ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chiến
1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới
thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc.
Mặc Lâm hỏi: “Thiếu Tưóng có nghĩ
rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này
hay không?”
Nguyên văn câu trả lời của Tướng
Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám
nói gì với Trung Quốc, nếu không, phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội
Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
Câu trả lời của Tướng Mật chủ
yếu là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và
1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang
giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với
Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài này cho
bài thứ ba và cũng là bài chót trong loạt bài nói về “Mưu Độc Ngàn
Năm” của người Tầu nhằm tiêu diệt đất nước và dân tộc Việt Nam. Với
tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của
đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân vào chính quyền và sự bất lực
của giới trí thức trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn
cả văn hóa ở Việt Nam đã cho thấy, sau 44 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất
nước và trên 30 năm đổi mới, chưa bao giờ nguy cơ mất nước đã đến gần như bây
gờ.
Vậy lãnh đạo cấp cao của hai đảng
Cộng Sản Việt-Trung đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam
từ sau Cuộc Chiến Biên Giới Trung-Việt; từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990; và từ
sau các buổi gặp gỡ của các Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau
này Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo
Trung Quốc? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ
chẳng bao giờ họ nói ra cả. Tất cả đối với họ đều không quan trọng. Sự
tồn vong của Đảng Cộng Sản mới là chính. Đó là một sự thực. Về
điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái-
Bảo-Kiến-Dương-Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc sông của
ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn
dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều
ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho
giặc, thì tội phải tru di.”
Lịch sử đã được chép, đang được
chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học không còn được coi là quan trọng
trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Rất tiếc, vì lý do nào đó
môn học lịch sử Việt Nam dưới thời Cộng sản đã bị bóp méo, xuyên tạc trái với
truyền thống hào hùng của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết
sử ta” của Hồ Chí Minh. Nó cũng đi ngược lại với chương trình giáo dục của bất
cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa
học và kỹ thuật. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất
nước.
Để kết luận ta có thể nói
rằng những gì đang xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam dưới sự cai trị của
người Cộng Sản hoàn toàn trái với thời người Việt Quốc Gia trước
đó. Với Người Việt Quốc Gia dù là ở bất cứ thời nào, từ thời các
vua chúa đến thời Chính Phủ Trần Trọng Kim hồi năm 1945, rồi xuyên qua
Quốc Gia Việt Nam hồi trước năm 1954, gọi chung là Quốc Gia-Việt Nam
Cộng Hòa, dùng chữ của Nhà Văn Hoàng Hải Thủy, qua Hội Nghị Cựu Kim
Sơn, rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, sự toàn vẹn lãnh
thổ của tổ quốc luôn luôn được coi là tối quan trọng và mọi người
phải có nhiệm vụ bảo toàn. Lịch sử đã chứng minh điều này.
Có một nhận định khác chúng
ta cũng cần phải chú ý là rất có thể người Tầu sẽ không cần phải
chiếm đóng Việt Nam mà qua một nhóm bù nhìn, họ chỉ cần dìm Việt Nam
xuống hàng thứ yếu để một mặt trở thành một thứ bán thuộc địa để
dễ khai thác, mặt khác không bao giờ còn có thể tiếp tục làm nút
chặn ngăn cản sự bành trướng của Hán Tộc về phương nam mà Tộc Việt
đã làm được trong suốt thiên niên kỷ trước.
Phạm
Cao Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét