22-9-2015
“Ngày hôm nay, chúng ta
đang e ngại khi bàn về luật hội và tự do lập hội y như cách đây 25 năm các cụ e
dè khi bàn về doanh nghiệp tư nhân. Nhưng rồi DN tư nhân vẫn phát triển, thậm
chí trở thành nền tảng của nền sản xuất. Kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi sự
phát triển tương thích của một không gian xã hội cởi mở hơn” – TS Nguyễn Đức
Thành nhận định.
LTS: Mới đây, bản dự
thảo luật về hội đã được công khai để lấy ý kiến đóng góp của công chúng. Theo
kế hoạch, dự thảo luật này sẽ được thảo luận và thông qua tại Quốc hội khóa
tới, cùng với một loạt các luật khác nhằm cụ thể hóa các quyền con người được
ghi trong chương đầu của Hiến pháp 2013 như quyền tiếp cận thông tin, quyền
biểu tình,…Các dự luật này cũng nằm trong lộ trình thực thi các cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã tham gia như Công ước về quyền tự do lập hội của người lao động
ở cơ sở…
Nhằm cung cấp thêm thông tin và các góc nhìn để các nhà làm
chính sách tham khảo trong quá trình hoàn thiện dự luật, VietNamNet tổ chức bàn
tròn thảo luận về dự luật hội với TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Kinh tế
và Chính sách, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội và Luật sư Lã Khánh
Tùng – thành viên của Đoàn luật sư Hà Nội.
Trì hoãn chục năm
Nhà báo Việt Lâm: Dự thảo luật về hội này đã được đưa ra lấy ý kiến lần đầu tiên cách đây gần chục năm vào năm 2006. Tại sao đến giờ chúng ta lại phải đặt ra vấn đề này?
LS Lã Khánh Tùng: Thực ra từ Hiến pháp 1946
VN cũng đã có quy định quyền lập hội của công dân rồi. Còn luật hiện hành liên
quan đến lĩnh vực hội là luật về Hội ban hành năm 1957. Hiếm có lĩnh vực nào mà
chúng ta vẫn áp dụng luật cũ như vậy. Nhà nước quản lí các hội này dựa vào nghị
định 45 năm 2010.
Tuy nhiên, qua hoạt động thực tiễn các bộ ngành đều nhận thấy có
nhiều vấn đề, vướng mắc phát sinh liên quan đến các hội, hiệp hội, hội đoàn.
Chẳng hạn, gần đây nhất có các tổ chức, hội đoàn thành lập mới khiến các cơ
quan nhà nước rất lúng túng, không có câu trả lời dứt khoát là các hội đoàn này
có bất hợp pháp hay không.
Cùng với tinh thần Hiến pháp mới 2013 rất quan tâm đến quyền con
người thì VN đã có kế hoạch ban hành rất nhiều đạo luật mới liên quan đến quyền
con người trong đó có quyền lập hội, quyền biểu tình, quyền tiếp cận thông tin,
luật tạm giữ tạm giam,…
TS Nguyễn Đức Thành: Nhìn từ góc độ của một
nhà kinh tế, tôi thấy sự thành lập và tồn tại của các hội như các tổ chức tự
nguyện vì cùng chung mục đích, cùng một lợi ích hay thậm chí như một câu lạc bộ
theo đuổi một thú vui nào đó là rất cần cho xã hội. Bởi vì trong một xã hội
hiện đại vận hành theo cơ chế thị trường như hiện nay, những tổ chức như vậy
vừa xây dựng, vừa bảo vệ được các lợi ích rất đa dạng cho công dân.
Chúng ta cố gắng quản lý nhưng hội thì rất đa dạng, từ những hội
rất nhỏ đến những hội mang tính chất chính trị hay những nghiệp đoàn lớn. Nếu
chúng ta không có một luật đầy đủ để có thể bao quát được sẽ dẫn đến những
trường hợp như anh Tùng vừa đề cập, có những đơn vị chúng ta không biết nên
điều chỉnh như thế nào.
Về khía cạnh kinh tế, ở đây tôi nhìn thấy có vấn đề về tài chính
công. Một số hội, hiệp hội quan trọng nhận được tài trợ từ ngân sách. Thậm chí,
nhân sự gần như nằm trong hệ thống chính trị, trong khi những hội khác không
có. Vậy đâu là tiêu chí để nhà nước can dự, hay tài trợ cho hội, và tài chính
công được sử dụng cho hội như thế nào? Đó là vấn đề lớn mà tôi cho rằng luật
phải đưa ra một cách rõ ràng. Không thể chỉ dựa trên cơ sở là nhà nước thấy hội
nào cần thì tham dự vào chuyện nhân sự, hay tài chính, còn hội khác thì không
cần.
Việt Lâm: Nguyên thứ trưởng Bộ Nội
vụ Thang Văn Phúc cho biết là ông đã tham gia xây dựng và chỉnh sửa dự thảo
luật về hội đến 10 lần. Còn dự thảo luật về hội được đưa ra lấy ý kiến công
chúng lần này là lần thứ 14. Tại sao dự luật này lại mất đến cả chục năm, qua
nhiều lần sửa đổi đến vậy?
LS Lã Khánh Tùng: Rõ ràng là lĩnh vực hội
đoàn có phạm vi ảnh hưởng rất lớn về mặt chính trị – xã hội. Các hội rất đa
dạng, không chỉ là các câu lạc bộ, hội nhóm mà nó còn là các liên đoàn, thậm
chí các công đoàn. Ở nhiều quốc gia, người ta còn coi vấn đề đảng phái cũng
thuộc lĩnh vực hội đoàn.
Do tính chất đa dạng của các hội nên người ta rất khó tạo một
khuôn khổ chung, một sân chơi chung.
Ngoài ra, phải nhìn nhận thực tế là ngay trong các cơ quan nhà
nước cũng chưa có được một sự thống nhất về quan điểm, chứ chưa nói đến sự khác
biệt với các tổ chức xã hội dân sự. Cách đây 10 năm, Liên hiệp các tổ chức khoa
học kỹ thuật VN đã đưa ra một dự thảo độc lập có cách tiếp cận rất khác với dự
thảo của Bộ Nội vụ là cơ quan soạn thảo lúc đó đưa ra. Trong khi dự thảo của Bộ
Nội vụ vẫn quy định rất nhiều thủ tục xin phép, những 4- 5 lần xin phép thì dự
thảo của VUSTA đưa ra rất thoáng, chỉ cần đăng ký và thông báo thôi. Cùng với
sự e dè của các cơ quan nhà nước, dự thảo luật về hội do vậy bị trì hoãn đến
giờ.
Đã đến lúc phải thừa nhận không gian dân sự
Việt Lâm: Đành rằng, bối cảnh kinh tế – xã hội thời bấy giờ khiến cho những dự luật như vậy chưa thể được thông qua. Nhưng liệu sự trì hoãn đó có gây ra hệ luỵ gì về mặt phát triển kinh tế hay không, theo ông Thành?
TS Nguyễn Đức Thành: Lâu nay, chúng ta thường tư duy theo hướng mọi thành phần, mọi nhóm trong xã hội đều cần có sự kiểm soát. Câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là: Chúng ta có cần kiểm soát như vậy hay không? Thậm chí chúng ta có khả năng kiểm soát như vậy hay không, đặc biệt trong một xã hội hiện đại và kinh tế thị trường như hiện nay?
Việt Lâm: Đành rằng, bối cảnh kinh tế – xã hội thời bấy giờ khiến cho những dự luật như vậy chưa thể được thông qua. Nhưng liệu sự trì hoãn đó có gây ra hệ luỵ gì về mặt phát triển kinh tế hay không, theo ông Thành?
TS Nguyễn Đức Thành: Lâu nay, chúng ta thường tư duy theo hướng mọi thành phần, mọi nhóm trong xã hội đều cần có sự kiểm soát. Câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là: Chúng ta có cần kiểm soát như vậy hay không? Thậm chí chúng ta có khả năng kiểm soát như vậy hay không, đặc biệt trong một xã hội hiện đại và kinh tế thị trường như hiện nay?
Trong một nền kinh tế thị trường, tính tự do của doanh nghiệp
tạo ra cơ sở cho nền kinh tế đó và các hoạt động của nền kinh tế đó buộc phải
tự do mới có sáng tạo, mới thúc đẩy phát triển. Đi liền với nó là không gian về
mặt xã hội. Bên này là không gian kinh doanh, bên kia là không gian xã hội đều
phải có sự tương thích. Chữ tương thích này không phải chỉ là sự tự do cho có
tính chất tự do mà nó phải có sự tự do theo nghĩa là để nó phản ánh được toàn
bộ nhu cầu xã hội của các nhóm người khác nhau trong một xã hội ngày càng đa
dạng.
Những tổ chức đó được tổ chức dưới dạng hội. Họ không phải các
tổ chức kinh doanh, cũng không phải các tổ chức nhà nước mà họ chỉ là những tổ
chức dân sự. Đơn thuần là họ liên kết với nhau, hoặc có mối quan hệ nào đó để
bộc lộ được nhu cầu mang tính xã hội thật sự của họ.
Nếu chúng ta không có được tư duy để họ tự nảy nở, từ đó họ sẽ
phản ánh được những nhu cầu rất đa dạng của đời sống thì hội sẽ mọc lên một
cách không tự nhiên. Khi nó ra đời không tự nhiên như vậy, nó sẽ phản ánh lệch
lạc nhu cầu thực sự của công dân trong xã hội. Thông tin lệch lạc sẽ đi đến khu
vực kinh doanh một cách lệch lạc và như thế thì xã hội cũng sẽ bắt đầu chệch
choạch. Nền sản xuất sẽ không tương thích được với nhu cầu thực sự của người
dân.
Lấy một ví dụ đơn giản về các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng.
Bên sản xuất có thể xâm phạm vào quyền lợi người tiêu dùng vì mục tiêu lợi
nhuận mà thị trường theo đuổi điều đó. Như vậy, phải hình thành những nhóm lợi
ích, ví dụ người tiêu dùng sữa, sầu riêng, …có thể thành lập những nhóm hội để
bảo vệ quyền lợi khi phát hiện ra bên sản xuất làm không đúng, buộc bên sản
xuất phải điều chỉnh hành vi. Chúng ta không thể dự báo trước hội nào sẽ được
thành lập, bởi nó tự phát theo hiện tượng xã hội. Do vậy, chúng ta phải để cho
nó có một không gian tự do hình thành.
Cơ quan nhà nước không thể nào theo kịp được thị trường, không
thể theo kịp được nhu cầu của người dân mà phải tự người dân bộc phát ra. Cho
nên vai trò hội rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là tính
chất tự nguyện: tự nguyện thành lập một thời gian sau đó giải tán hoặc phát
triển lên, theo quy luật tự nhiên.
Tôi cho rằng, chúng ta đã thiết lập cơ chế thị trường trong vòng
20 năm qua thì đã đến lúc phải thừa nhận một không gian khác tương thích. Khi
đó, đời sống của người dân, cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế mới
cân đối, đầy đặn và bền vững được.
Độc lập hay là cánh tay nối dài của nhà nước?
Việt Lâm: Thực ra cũng đang có hàng nghìn hội tồn tại và phát triển ở VN hiện nay đấy thôi. Liệu họ đã làm tròn vai mà ông Thành vừa nói hay chưa?
TS Nguyễn Đức Thành: Về nguyên lý thì để hoạt động của những hội đó có ý nghĩa thì phải dựa trên tính tự nguyện cao: tự nguyện thành lập hoặc tự nguyện giải tán. Nó cũng giống như thị trường thì có nguyên tắc theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, bên nhà nước phải có pháp luật quản lý và bình đẳng.
Việt Lâm: Thực ra cũng đang có hàng nghìn hội tồn tại và phát triển ở VN hiện nay đấy thôi. Liệu họ đã làm tròn vai mà ông Thành vừa nói hay chưa?
TS Nguyễn Đức Thành: Về nguyên lý thì để hoạt động của những hội đó có ý nghĩa thì phải dựa trên tính tự nguyện cao: tự nguyện thành lập hoặc tự nguyện giải tán. Nó cũng giống như thị trường thì có nguyên tắc theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, bên nhà nước phải có pháp luật quản lý và bình đẳng.
Trong những xã hội mà nhà nước muốn kiểm soát hội thì tính tự
nguyện sẽ suy giảm và theo thời gian nó trở nên hình thức.
LS Lã Khánh Tùng:Phải thừa nhận thực tế là
tính độc lập của các hội đoàn ở ta chưa mạnh. Chẳng hạn như gần đây người ta
tranh cãi khá nhiều về vai trò của những hội rất lớn như Hội nông dân VN với 10
triệu thành viên, hay Hiệp hội lương thực VN trong việc bảo vệ quyền lợi nông
dân trong xuất khẩu gạo.
TS Nguyễn Đức Thành: Nhân nói về Hiệp hội
Lương thực, vấn đề đặt ra ở đây là những hiệp hội đó được hình thành trên cơ sở
nào: tự nguyện hay có sự dàn xếp, áp đặt từ các cơ quan chủ quản? Nhân sự hay
thành viên có phản ánh đúng tính chất của hội không? Hay quá trình ra quyết định
có đúng là nghị quyết chung của những thành viên thực sự? Chỉ khi đó, hội mới
có tính đại diện thực chất.
Nếu hai bước đó đã không đạt được ngay từ đầu thì thông tin mà
hiệp hội đó mang lại không phản ánh đúng cái được giả định là hội đang đại
diện. Thông tin đã không chính xác rồi thì giá trị của nó không còn nhiều nữa.
Như vậy, ngay từ một hội nhỏ như hội chơi xe máy chẳng hạn, thì
chính hội ấy phải quyết định hội ấy làm cái gì. Nôm na như năm nay đi du lịch ở
đâu, sưu tập loại xe máy gì, đó là việc của người ta.
Còn nếu việc quyết định năm nay sưu tập xe gì hay đưa hình ảnh
xe nào lên lại do một người bên ngoài quyết định thì hội đó không còn ý nghĩa
nữa. Đầu tiên là các thành viên sẽ rời bỏ. Chỉ còn lại những thành viên chấp
nhận trò chơi đó nhưng nó không còn ý nghĩa đúng là người đại diện.
Phải nói rằng các hiệp hội khác của chúng ta đều chưa phản ánh
được hoàn toàn tính đại diện trong việc hình thành thành viên, đồng thời quá
trình ra quyết định của các thành viên chưa phản ánh hết nguyện vọng của họ.
LS Lã Khánh Tùng:Độc lập có nhiều khía
cạnh, trong đó độc lập về mặt tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ở VN do
nền kinh tế còn ở mức thấp nên việc huy động tài chính cho các tổ chức phi
chính phủ, các hội đoàn độc lập gặp nhiều khó khăn. Điều này dẫn đến một thực
trạng là rất nhiều hội đoàn muốn nhà nước dành thêm ngân sách, thêm ưu tiên cho
mình.
Tôi quan sát thấy trong nhiều diễn đàn thảo luận về luật hội,
không ít tổ chức đứng lên đòi hỏi điều này, thậm chí có một hội còn đặt vấn đề
tại sao các hội khác lập cơ quan đảng, đoàn trong hội được mà chỗ chúng tôi lập
cơ quan đảng trong hội khó khăn đến thế.
TS Nguyễn Đức Thành:Thực ra đây là vấn đề
thay đổi tư duy. Chúng ta vẫn còn coi hội như một bóng mờ, một cánh tay nối dài
của cơ quan quản lý nhà nước.
Để hội độc lập thực sự thì nó phải độc lập về tài chính, tức là
tài chính được đóng góp từ các thành viên hoặc các thành viên tự đi tìm các
nguồn tài trợ trên cơ sở thuyết phục người khác tài trợ cho mình, chứ không
phải từ ngân sách nhà nước.
Ngân sách là nguồn đến từ thuế của người dân và theo một nghĩa
nào đó tất cả mọi người đều phải đóng cho hoạt động của hội đó dù cho không
lớn. Vì sao tất cả người dân phải đóng tiền cho hội này mà không phải cho hội
khác? Ai quyết định hội này được nhận nhiều hơn, hội kia ít hơn? Nếu tất cả
cùng nhận thì hội có khác gì cơ quan nhà nước?
Khi các thành viên không đóng tiền hay hội không huy động được
tài trợ, tức là nó không có giá trị nữa. Như thế thì nó nên giải tán, tương tự
như một DN thua lỗ thì nên phá sản. Đấy là cách thức phát triển rất tự nhiên.
Không thể nào để những hội tồn tại hàng chục năm không hiệu qủa mà nhà nước vẫn
cung cấp tiền cho họ. Khi nhà nước đã cấp tiền thì chúng ta không thể biết họ
có đáng tồn tại hay không bởi không còn sự tự nguyện nữa.
Các hội hoạt động cũng tương tự như vậy thôi chứ không thể nào
để những hội hoạt động hàng chục năm tồn tại như vậy, nhà nước vẫn cung cấp
tiền cho họ. Khi nhà nước vẫn bao cấp cho hội thì chúng ta không biết là liệu
họ có đáng tồn tại hay không, có còn giá trị với xã hội hay không.
Sự tiến hoá của tư duy
Việt Lâm:Nhận thức luôn là một quá trình. Nói gì thì nói, nếu chúng ta quan sát đều có thể thấy rằng từ chỗ còn e ngại thì gần đây ngày càng có nhiều người, trong đó có các nhà quản lý, hoạch định chính sách đề cập đến sự cần thiết phải thực thi quyền tự do lập hội như đã được khẳng định trong Hiến pháp 2013. Liệu đây có phải là bước chuyển thực sự về tư duy?
LS Lã Khánh Tùng:Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những chuyển biến tích cực này. Dường như rõ nét nhất là do tiến trình hội nhập quốc tế của VN. Gần đây, VN đã gia nhập thêm nhiều công ước quốc tế về quyền con người, tham gia nhiều diễn đàn của LHQ, trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền của LHQ…
Việt Lâm:Nhận thức luôn là một quá trình. Nói gì thì nói, nếu chúng ta quan sát đều có thể thấy rằng từ chỗ còn e ngại thì gần đây ngày càng có nhiều người, trong đó có các nhà quản lý, hoạch định chính sách đề cập đến sự cần thiết phải thực thi quyền tự do lập hội như đã được khẳng định trong Hiến pháp 2013. Liệu đây có phải là bước chuyển thực sự về tư duy?
LS Lã Khánh Tùng:Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những chuyển biến tích cực này. Dường như rõ nét nhất là do tiến trình hội nhập quốc tế của VN. Gần đây, VN đã gia nhập thêm nhiều công ước quốc tế về quyền con người, tham gia nhiều diễn đàn của LHQ, trở thành thành viên của Hội đồng nhân quyền của LHQ…
Nói chung, các vấn đề về các quyền cụ thể được quan tâm nhiều
hơn. Những khái niệm về tự do, những chuẩn mực quốc tế, những giá trị phổ quát
được thảo luận nhiều hơn. Tuy nhiên, để tinh thần đó thực sự đi được vào những
dự thảo cụ thể thì vẫn phải đợi thêm thời gian. Bởi lẽ, nhà nước bao gồm nhiều
cơ quan quản lí khác nhau và chưa hẳn đã thực sự thống nhất với nhau về quan
điểm. Có những bộ có vẻ khá cởi mở, như Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp. Dường như họ
tiếp xúc nhiều với chuẩn mực quốc tế nên trong tiến trình soạn thảo các dự thảo
luật cụ thể thì họ thường cởi mở hơn và thậm chí tiếp xúc, lắng nghe công chúng
nhiều hơn.
TS Nguyễn Đức Thành: Tôi cũng thừa nhận như
vậy, rõ ràng là có những tiếng nói cởi mở hơn so với trước đây. Trước đây nói
về hội, tự do hội gần như là sự cấm kỵ. Giờ đây có nhiều người đã nói lên. Dù
chưa nhiều, nhưng rõ ràng đó là một sự chuyển biến.
Chúng ta cũng phải hiểu rằng đây là một quá trình mang tính lịch
sử. Sự thay đổi tư duy của con người cũng mang tính lịch sử, tức là đòi hỏi
phải có thời gian. Tất cả những tiến triển trong thảo luận về hội của chúng ta
hiện nay cũng giống hệt bối cảnh cách đây 20 -25 năm khi chúng ta thảo luận về
luật doanh nghiệp.
Cách đây 30 năm chúng ta không có không gian cho doanh nghiệp tư
nhân, cho kinh tế thị trường. Nói về doanh nghiệp tư nhân là điều gì cấm kỵ,
khủng khiếp, lại càng không thể tưởng tượng nổi doanh nghiệp tư nhân có thể đem
ra so sánh hay cạnh tranh với doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước
cũng không buồn bàn những chuyện lặt vặt như vậy.
Nhưng rõ ràng là quá trình tiến bộ của xã hội đòi hỏi phải có
một khu vực tư nhân năng động, linh hoạt và hiệu quả. Mục đích của nó là tạo ra
của cải sản xuất tốt hơn doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại cho đến thời điểm
đó. Lúc đó, chúng ta thấy luật về doanh nghiệp tư nhân rất e dè xuất hiện và
tách riêng ra với luật doanh nghiệp nhà nước, tức là họ không muốn chung, coi
như đây là một phần bên lề. Nhưng về sau kết hợp lại thành luật doanh nghiệp
nói chung của cả khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, trong đó khu vực tư nhân
là chính, khu vực nhà nước chỉ là phần phụ trong nội dung luật.
Tôi tin rằng tư duy về hội cũng sẽ tiến hóa như vậy. Bây giờ
chúng ta còn đang e dè, e ngại nhưng đó chỉ là thời kì lịch sử. Bởi vai trò của
các hội, hiệp hội bây giờ cũng khác gì so với vai trò của các doanh nghiệp
trong việc sản xuất ra của cải vật chất. Ở bên này, các hội là những đơn vị
phản ánh tinh thần thời đại, nhu cầu của người dân, xây dựng nên văn hóa dân
chủ mà khu vực doanh nghiệp không thể giải quyết được, khu vực nhà nước không
giải quyết được hoặc giải quyết không hiệu quả, với chi phí tốn kém. Nhưng một
khi xã hội có nhu cầu thực sự thì nó sẽ lớn lên.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng đang e dè khi bàn về luật hội y như
các cụ ngày xưa e ngại khi bàn về doanh nghiệp tư nhân: không có nó thì sao, nó
có thay đổi toàn bộ xã hội này không, có chệch hướng hay không? Nhưng rõ ràng
doanh nghiệp tư nhân đã tồn tại và thậm chí trở thành nền tảng của nền sản xuất
VN hiện nay.
Điều này chúng ta có thể chứng kiến theo thời gian. Dần dần
những hội chính thức sẽ phải thay đổi về mặt chính sách, nhân sự. Họ không muốn
các tổ chức phi chính phủ ngang hàng với họ, họ muốn một luật riêng, các điều
khoản riêng. Nhưng cũng như luật doanh nghiệp khi xưa, sớm muộn sẽ hội tụ lại với
nhau. Và trong tương lai các nội dung để điều chỉnh hiệp hội tự do mang tính
dân sự sẽ chiếm chi phối. Tất nhiên những hiệp hội mang tính tự do, độc lập cao
đó ở trong xã hội hiện đại như vậy thì phải tuân thủ luật pháp một cách chặt
chẽ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét