Nguồn ; Bongbvt.blogspot.com
Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của
Trung Quốc ở Đông Âu và Bắc Việt thời kì hậu Stalin
TRỊNH ÁNH HỒNG
Lê
Quỳnh dịch
[Thư
của tác giả Trình Ánh Hồng (Yinghong Cheng) gửi độc giả Việt Nam ]
Tôi rất cảm kích công sức mà ông Lê Quỳnh đã dành cho bản
dịch này. Kể từ đầu năm 2006, chúng tôi đã liên lạc thường xuyên với nhau để
chia sẻ ý kiến và thông tin về Việt Nam
và Trung Quốc, đặc biệt từ cái nhìn lịch sử. Tôi cũng học được nhiều từ thân
mẫu của dịch giả về kiến thức lịch sử và vấn đề dịch thuật Trung - Việt.
Tôi muốn bổ
sung một vài ghi chú quan trọng cho tiểu luận mà nay được dịch sang tiếng Việt.
Tiểu luận của tôi viết trong giai đoạn 2002-2003, nhưng kể từ đó, tôi đã phát
hiện thêm nhiều và đi đến một số kết luận quan trọng. Một bài viết khác của tôi
sẽ được in trong Modern China Studies (một tạp chí học thuật Hoa ngữ
đặt ở Mỹ, số mùa Xuân 2007) – bài này dựa một phần từ tiểu luận tiếng Anh đầu
tiên, nhưng các phân tích và kết luận về Việt Nam
được làm rõ hơn.
Nói chung, tôi cho rằng từ 1955 đến 1957, những sự kiện
ở Trung Quốc và Việt Nam là phản ứng thách thức học thuyết và những hành động
Mao-it, nhiều hơn là một sự giải ảo Stalin. Khi tôi được đọc nhiều hơn những tư
liệu về sự phản kháng của trí thức Việt Nam, tôi đi đến kết luận rằng họ trực
tiếp chống đối một biến thể của chủ nghĩa Mao ở Việt Nam, chứ không phải là
biến thể của chủ nghĩa Stalin (về mặt lịch sử, áp dụng đúng hơn cho Đông Âu.)
Biến thể Mao-it này chủ yếu gồm ba khía cạnh: cải cách ruộng đất, cải tạo tư
tưởng, và các chính sách và thể chế nhằm kiểm soát và lung lạc nghệ sĩ, nhà văn
nhằm mục đích ý thức hệ và chính trị. Cả ba yếu tố này, trong chừng mực phát
triển ở Việt Nam, hầu như không tìm thấy trong chủ nghĩa Stalin hay hiện thực ở
Liên Xô thập niên 1950, nhưng chúng đã hiện diện ở Trung Quốc của Mao từ thập
niên 1940. Trung Quốc của Mao, hay cụ thể hơn là cách tiếp cận Mao-it về một
chính thể độc đảng và về sự chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa, cần được xem là đã chịu trách nhiệm cho nhiều thảm trạng
ở Việt Nam
thập niên 1950.
Tôi chỉ muốn dùng một ví dụ về cải cách ruộng đất. Theo
các nguồn gần đây của Trung Quốc, người cộng sản Trung Quốc bắt đầu thúc các
đồng chí Việt Nam thực thi cải cách ruộng đất (xúi giục đấu tranh giai cấp, loại
bỏ địa chủ và trừng phạt những ai có cảm tình với họ, chia lại ruộng đất, và
thậm chí để những tay du thủ du thực quá khích ở làng nắm quyền sinh sát) ngay
từ mùa Hè 1949, khi Lưu Thiếu Kỳ bí mật gặp Hồ Chí Minh ở Moskva. Ông Hồ đã
ngần ngừ, vì ông cho rằng Bắc Việt đang trong giai đoạn cách mạng dân tộc (tức
là chống Pháp) vì vậy tầng lớp tinh hoa nông thôn cần được đưa vào mặt trận dân
tộc. Lưu Thiếu Kỳ kể lại cho Stalin về thái độ của Hồ và Stalin đã khiển trách
Hồ. Vì chuyện này, các lãnh đạo Trung Quốc đã quy cho ông Hồ là “kẻ cơ hội cánh
hữu lạc hậu”. Chính Lưu Thiếu Kỳ đã tiết lộ tình tiết này trong một cuộc gặp
năm 1962.
Bài viết sắp tới của tôi bằng tiếng Hoa là một ghi chép
và phân tích chi tiết về việc làm thế nào ba yếu tố Mao-it kể trên (cải cách
ruộng đất, cải tạo tư tưởng và các chính sách với trí thức) đã được phản ánh ở
Bắc Việt từ cuối thập niên 1940 và sau đó bị trí thức Việt Nam chống đối từ năm
1955 (các hoạt động do Trần Dần dẫn đầu) đến mùa hè 1957. Còn bài tiểu luận
dưới đây về căn bản thể hiện suy nghĩ của tôi vào năm 2003. [1]
*
Năm 1956 và 1957 đánh dấu cuộc khủng hoảng trầm trọng đầu
tiên trong khối cộng sản toàn cầu thời Chiến tranh Lạnh với nhiều sự kiện quan
trọng. Bài nói chuyện mật của Nikita Khrushchev tại Đại hội 20 của Đảng Cộng
sản Liên Xô tháng Hai 1956 tiết lộ những tội ác của Stalin đã gây sốc cho thế
giới cộng sản và châm ngòi cho giai đoạn hạ bệ Stalin, mà không lâu sau đó đã
tạo nên những thách thức cho chính hệ thống cộng sản, qua những cuộc nổi loạn ở
Ba Lan và Hungary tháng 10 và tháng 11 năm 1956. Tại các nơi khác ở Đông Âu,
mặc dù nhìn chung không nổ ra các phản kháng chính trị quyết liệt, nhưng những
tranh luận trong nội bộ Đảng và bất bình của trí thức diễn ra phổ biến, đi kèm
là những cuộc biểu tình và bãi khoá lẻ tẻ của công nhân và sinh viên. Ở các
nước cộng sản châu Á, sự bất bình trong giới trí thức và phê phán Đảng trở nên dễ
thấy ở Trung Quốc, đặc biệt vào mùa xuân 1957, khi có phong trào Trăm hoa Đua
nở và thời kì Chỉnh huấn, kèm theo là một số vụ đình công của công nhân và bãi
khoá của sinh viên. Ở miền Bắc Việt Nam, người trí thức đã trực tiếp thách thức
Đảng trong phong trào gọi là Nhân văn -
Giai phẩm (tên của hai ấn phẩm chỉ trích Đảng) trong giai đoạn mùa Thu
1956, gắn liền với biến cố nông dân nổi loạn ở tỉnh Nghệ An và bất ổn tại các đô
thị. Cách mạng Hungary
bị đàn áp tháng 11-1956, và môi trường ở Liên Xô và Đông Âu trải qua những thay
đổi đầy kịch tính. Tuy nhiên, vì các trí thức Trung Quốc vẫn còn được khuyến khích
chỉ trích Đảng vào mùa Xuân 1957, trí thức ở Việt Nam
lại một lần nữa mở cuộc chỉ trích chính quyền. Nhưng vào tháng Sáu 1957, Trung
Quốc mở chiến dịch chống quan điểm hữu khuynh và chấm dứt thời kì “giải phóng”,
và Việt Nam cũng làm như vậy khi bước vào năm 1958. Và như thế cuộc khủng hoảng
trong thế giới cộng sản được giải quyết xong.
Khi kể lại và phân tích các sự kiện trên, các sử gia đã
chủ yếu dựa vào một sườn diễn giải lấy Moskva làm trung tâm. Đa số các nhà sử
học lấy Moskva – đặc biệt là Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô – làm trung
tâm của thay đổi chính trị trong khi đặt các nước cộng sản khác ở đường biên.
Những nhà nước ở ngoại vi này ban đầu có phản ứng bị sốc và lúng túng trước
Moskva, nhưng rồi nhiều nước đã nhanh chóng sử dụng cơ hội để khẳng định tư
tưởng cải tổ của họ, tư tưởng mà bình thường sẽ khó mà biện hộ được. Cái sườn
diễn giải lấy Moskva làm trung tâm này nhìn chung phản ánh sự thật lịch sử vì
ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Liên Xô trong cộng đồng cộng sản thời kì ấy
và còn vì thứ tự thời gian căn bản của các sự kiện. Nhưng khi áp dụng một khung
diễn giải bao quát cho lịch sử, ta cần cảnh giác trước những nhược điểm của nó.
Nhược điểm chính của các diễn giải lấy Moskva làm trung tâm là khuynh hướng bỏ
qua và đánh giá thấp những điểm gốc tạo nên thay đổi chính trị ngoài những điểm
gốc ở Moskva cùng những liên hệ và sự tương tác không nhất thiết tập trung ở
Moskva. Trong một số trường hợp, điều này đưa đến sự giản lược hoá một hoàn
cảnh lịch sử phức tạp và diễn giải sai lầm những liên hệ và sự tương tác giữa
các nước cộng sản.
Bài viết này xem xét tiến trình phê phán Stalin, hay còn
hiểu là giải phóng, từ góc nhìn dựa vào sự liên hệ với Trung Quốc tại Đông Âu
và Việt Nam – một góc nhìn đã hoặc bị đánh giá thấp hoặc bị bỏ qua trong những
phân tích lấy Moskva làm chính [2] . Thuật ngữ “sự liên hệ với Trung Quốc” có ý nghĩa là
một ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc hoặc những diễn biến song song giữa các
nước này và Trung Quốc. Bài viết này giới thiệu và liên hệ hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất là ảnh hưởng của Trung Quốc tại một số nước Đông Âu, và
thậm chỉ cả ở Liên Xô, từ 1955 đến 1958. Thứ hai là sự thách thức chính quyền
của các trí thức Việt Nam
và phản ứng của chính quyền, cả hai cho thấy những sự tương tự thú vị giữa hai
quốc gia. Sự liên hệ với Trung Quốc ở cả trường hợp Đông Âu và Việt Nam cho
thấy rõ là có một nguồn gốc khác góp phần vào quá trình hạ bệ Stalin và thậm
chí gợi ý về một khung thời gian mở rộng của các biến cố ngay từ đầu năm 1955
(tức là trước “Báo cáo mật” của Khrushchev) đến tận cuối 1958 (một năm sau
khi Liên Xô dập tắt cuộc nổi dậy ở Hungary), và như thế giúp làm giàu thêm hiểu
biết của chúng ta về cuộc khủng hoảng cộng sản toàn cầu nhờ các nguồn rộng hơn
và khung thời gian dài hơn.
* *
*
Trường hợp Đông Âu
Đối với đa số các sử gia, ảnh hưởng quan trọng của Trung
Quốc tại Đông Âu sau cái chết của Stalin bắt đầu với vai trò của nước này trong
việc giải quyết khủng hoảng chính trị ở đó vào tháng 10 và 11 năm 1956[3] . Nói ngắn gọn, khi Moskva quyết định dùng vũ lực dập
tắt cuộc nổi dậy của công nhân Ba Lan vào giữa tháng 10-1956, Bắc Kinh đã phản
đối quyết định này với lý do là vấn đề Ba Lan xảy ra không phải vì âm mưu chống
chủ nghĩa xã hội của phương Tây mà chủ yếu là do “chủ nghĩa sôvanh nước lớn”
(ám chỉ sự kiêu ngạo và can thiệp của Moskva vào công việc nội bộ của các
nước). Ngược lại, khi Moskva còn nhùng nhằng giữa việc dùng vũ lực hay để yên
trước cuộc khủng hoảng Hungary vào cuối tháng 10, Bắc Kinh đã thúc giục Moskva
gửi quân vào Budapest. Theo một số nguồn tư liệu Trung Quốc được công bố vào
cuối thập niên 1990, từ ngày 19 đến 31 tháng Mười 1956, thời điểm khi cuộc
khủng hoảng Ba Lan – Hungary lên đến cao trào, liên lạc và thảo luận giữa
Moskva và Bắc Kinh cũng liên tục và dồn dập đến bất thường.
Ngày 19-10, sau khi Đảng Cộng sản Ba Lan chọn Wladislaw
Gomulka, người mà Kremlin xem là có thái độ đáng ngờ với Moskva, làm lãnh đạo
mới, thì Pavel Yudin, đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc, đã thông báo cho Bắc Kinh
về tình hình gay go ở Warszawa, ám chỉ khả năng quân đội Liên Xô sẽ can thiệp ở
Ba Lan. Mao Trạch Đông tức khắc mở cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng và quyết định
không đồng ý với sự can thiệp quân sự do Moskva dẫn dắt. Ngày hôm sau, Mao gặp
Yudin và yêu cầu ông thông báo cho Moskva về quyết định của Đảng Cộng sản Trung
Quốc ngay tức thì và “đúng từng chữ”. Ngày 21-10, Mao lại triệu đại sứ Liên Xô
đến, một lần nữa bày tỏ lo ngại, và cũng cho biết sự không hài lòng trước việc
Khrushchev công kích Stalin, điều mà phía Trung Quốc cho là đã tạo nên khủng
hoảng. Cùng lúc đó, tình hình ở Hungary
trở nên căng thẳng hơn và Moskva không còn nghĩ rằng kênh đại sứ là đủ hiệu
lực. Vì thế, theo yêu cầu của Moskva, một phái đoàn Trung Quốc do Lưu Thiếu Kỳ
và Đặng Tiểu Bình dẫn đầu đã đến Moskva ngày 23-10 và ở lại đó đến 31-10, khi
mà xe tăng Nga tiến vào Budapest. Trong thời gian ở lại, phái đoàn Trung Quốc
được thông báo về diễn biến ở Hungary
và mỗi ngày đều nhận được sự tham vấn từ Khrushchev và các lãnh đạo khác của Liên
Xô. Các thành viên trong đoàn thậm chí đã tham dự các cuộc họp khẩn của đoàn
chủ tịch Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24 và 26-10 ...
(còn tiếp)
----------------
Chú thích:
[1]Ghi chú của talawas: Do sự chậm trễ từ phía chúng tôi, bản dịch
của Lê Quỳnh đã được hoàn thành từ lâu, nay mới có thể công bố trên talawas.
Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả và dịch giả.
[2]Ví dụ, các sách tiếng Anh The Rise and Fall of Communism (tác
giả Richard H. Hudelson, New York: Westview, 1993), The Communist Movement
Since 1945 (Willie Thompson, Oxford: Blackwell, 1998),Eastern Europe Since
1945 (Geoffrey Swain và Nigel Swain, New York: St. Martin's, 1998)
và The Rise and Fall of Communism in Eastern Europe(Ben Fowkes, New York:
St. Martin's, 1993) không nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong giai đoạn hạ bệ
Stalin và giải quyết khủng hoảng Ba Lan – Hungary trong khi vẫn bám vào cách
diễn giải nhấn mạnh đến Moskva. Việt Nam lại càng không nằm trong khuôn khổ
phân tích lấy Moskva làm chính, và nhiều sử gia cộng sản thậm chí không biết
tới trường hợp Việt Nam trong giai đoạn hạ bệ Stalin. Một tác giả viết rằng “Rõ
ràng không đảng nào ở Nam Á hay Đông Nam Á bị rối loạn vì sự kiện hạ bệ Stalin,
có lẽ vì cách nhìn của họ, vì là các tổ chức chủ yếu dựa vào nông dân và không
dính đến Phòng Thông tin Cộng sản Quốc tế, ít gắn bó hơn với thái độ của Liên
Xô hoặc sự quan trọng của ký ức về Stalin so với các đảng Đông Âu…” Phát ngôn
này rõ ràng tách Việt Nam
khỏi cuộc khủng hoảng trong thế giới cộng sản năm 1956-1957 chỉ vì cách mạng
Việt Nam
dựa vào nông dân và ít chịu ảnh hưởng hơn từ Moskva. Willie Thompson, The
Communist Movement Since 1945, trang 77.
[3]Một ví dụ trong các tác phẩm ban đầu mang quan điểm này là “China
and the Communist 'Thaw” của G. F. Hudson. Đây là lời bạt cho quyểnThe Hundred
Flowers Campaign and the Chinese Intellectuals của Roderick Macfarquhar
(New York: Praeger, 1960), trang 299. Một ví dụ gần đây của quan điểm này là quyển Mao's
China and the Cold War của Jian Chen (Chapel Hill: University of North
Carolina Press, 2001), trang 145.
(Nguồn: Yinghong/Talawa, bản tiếng Việt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét