KTS
TRẦN THANH VÂN
(Bài
dài không cần động viên ai đọc nhưng đọc được thì rất đáng quý. Lưu về đây để tự
nghiền ngẫm thêm)
Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh
quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường,
cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và
Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì
khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm
mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh,
chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của
Chương trình văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo
Đài THTW đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giữa chừng
câu chuyện, họ hỏi tôi “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây
lát, rồi trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”
– “Cái gì? 55 năm?”
– “Vâng! từ ngày còn là con bé con”.
Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải
chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ.. Vào đại học, tôi làm đơn thi
Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo
ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc
sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng,
đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những
sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng
kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe,
không phải từ lý thuyết.
SỰ THẬT VÀ TRẢI NGHIỆM
Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ”
của tôi với vấn đề TQ mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu
tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có
những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những
điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt,
tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít ai có cơ hội để “hiểu” TQ
hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó,
nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở
Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông
liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…”; trước đó tôi đã có hai kỷ
niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
KỶ NIỆM THỨ NHẤT: CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NĂM 1953
Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh,
nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến
và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại
chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở
Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng,
chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân
trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào
thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia
đình bệnh nhân mang đến tág¡ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng
gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay
chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy
người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị
quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức
Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa
ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và
tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên
bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ
đội. Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa
đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc
sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá
lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi
và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở
vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi
bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra
chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.