Nguyễn Quang Duy
Trên vietnamnet.vn (*),
Giáo sư Sử học Phạm Hồng Tung, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
cho biết Việt Nam lâu nay đã
“gạt quá khứ” sang một bên nên sách
giáo khoa Lịch sử gói gọn 4 câu, 11 dòng ở lớp 12, báo chí lại ít nhắc đến Chiến tranh biên giới Việt-Trung.
Trung cộng thì vẫn tiếp tục tuyên truyền “chiến tranh phản kích chống Việt Nam để tự vệ” và trừng phạt “tiểu bá” Việt Nam vong ân bội nghĩa, tay sai
của Liên Xô.
Sự khác biệt về nhận thức và cách trình
bày lịch sử tạo ra những định kiến mang nặng tính chất kỳ thị và thù địch, nếu gặp những điều kiện thuận lợi, sẽ bùng phát thành
hận thù và xung đột.
Nếu không hòa giải được nhận thức và cách trình
bày về lịch sử thì đó là một liều thuốc độc mà tiền nhân để lại cho thế hệ sau, và để “giải độc” lịch sử Giáo sư Tung đề nghị:
“Bây giờ chính là lúc giới sử học của hai nước Trung - Việt nên ngồi lại, thảo luận những nguyên tắc cơ bản để dạy về những vấn đề liên quan đến lịch sử hai nước”.
Giáo sư Tung tin rằng nhiều quốc gia cựu thù đã thành
công trên con đường hòa giải lịch sử, cho nên người Việt Nam và người Trung Hoa cũng
sẽ phải làm được điều này.
Giáo sư Phạm Hồng Tung hiện là Chủ biên chương trình Lịch sử giáo dục phổ thông tổng thể đang sửa soạn ra bộ sách giáo khoa Lịch sử nên đề nghị của ông cần được xem xét cẩn thận.
Trường hợp hai nước Pháp và Đức
Giáo sư Tung cho biết Đức và Pháp trong lịch sử cũng đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu như Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai, Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870,… các
nhà sử học, các nhà giáo dục hai nước đã tổ chức nhiều diễn đàn gặp gỡ nhau trước khi cùng nhau
soạn một bộ sách giáo khoa Lịch sử chung.
Giáo sư Tung quên rằng Pháp và Đức là hai quốc gia tự do, các sử gia đều độc lập với hệ thống chính trị. Nên ngay thời Chiến Tranh Pháp-Việt vẫn có những sử gia Pháp công
khai ủng hộ Việt Nam.
Báo chí Pháp và Đức được tự do thu nhặt và loan tin,
nên thông tin đều đa chiều và dễ dàng đối chiếu.
Các cuộc phỏng vấn chứng nhân lịch sử được thường xuyên thực hiện. Các hồi ký được tự do phổ biến.
Các tài liệu lịch sử, các văn kiện và số liệu sau một thời gian đều được giải mật để mọi người có thể tìm hiểu.
Mỗi sử gia có cách nhìn
riêng về lịch sử, chính môi trường học thuật tự do giúp họ nhìn nhận các sự kiện, nguyên nhân,
diễn biến và hậu quả một cách khách quan
hơn, trung thực hơn, gần với sự thật lịch sử hơn.
Các sử gia và các nhà
giáo dục Pháp và Đức lại luôn có cơ hội tự do trình bày
quan điểm và phát hiện mới trên các diễn đàn quốc tế, nên việc họ xuất bản sách giáo khoa
chung, các công trình nghiên cứu chung, các sách tài liệu tham khảo chung là một việc hết sức bình thường.
Môi trường tự do và học thuật tự do hoàn toàn
không có tại Việt Nam và Trung cộng.
Việt Nam là nước nhỏ lại luôn bị Trung cộng xâm lược. Chỉ trong vòng 14
năm, 1974-1988, Trung cộng đã 4 lần đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam: Hoàng Sa
(1974), Biên giới phía Bắc (1979), Vị Xuyên Hà Giang
(1984), Gạc Ma (1988) và từ năm 1988 liên tục lấn chiếm Trường Sa và gây chiến ở Biển Đông.
Bởi thế việc so sánh với Chiến tranh Pháp và Đức là điều không thể chấp nhận được.
Giáo dục tự do
Giáo sư Phạm Hồng Tung còn cho
biết vào năm 2003, Cộng đồng châu Âu cho
thành lập những Nghị viện gồm các thanh niên
đóng vai những nghị sĩ, cùng hội họp và bàn thảo đề tài “Nếu là nghị sĩ chúng ta sẽ quyết định những gì cho tương lai của đất nước”.
Nghị viện thanh niên của Pháp và Đức đều ra nghị quyết phải hòa giải lịch sử và phải soạn một sách giáo khoa
Lịch sử chung cho cả hai nước, Nghị quyết được Tổng thống Pháp và Thủ tướng Đức ủng hộ.
Đến năm 2006, cuốn sách Lịch sử chung đầu tiên của Pháp và Đức đã ra đời. Những nội dung về chiến tranh đều được cả hai nước chấp nhận vì đó là sự thực trong quá khứ và bây giờ không nên sống với thù hận.
Ông Tung quên rằng tại Đức và Pháp giáo
viên dạy sử chỉ giữ vai trò hướng dẫn học sinh thu thập, phê bình tài
liệu lịch sử, phân tích làm
rõ nguyên nhân, bản chất, ý nghĩa của các sự kiện và của diễn biến lịch sử.