Trần
Đức Thảo
Trong
lúc, cùng với người, với đời, đáng bước vào giai đoạn vất vả về vật chất, khủng
hoảng về tinh thần, thì Thảo lại như thấy vui, vì đây là dịp may rất sống động
trong môi trường cách mạng để trải nghiệm, để thấy tận mắt hướng vận hành, cách
vận hành của cách mạng. Như vậy lá công cuộc nghiên cứu thực tại, ngay ở hiện
trường, đã có có mục tiêu rõ rệt! Đối với một nhà triết học, biết đặt vấn đề
như thế là đã tìm ra phương hướng, thoát khỏi tình trạng bế tắc về mặt tư duy.
Sự vui mừng ấy cũng giống như của một nhà toán học, khi đã đặt xong được phương
trình, đã xác định ra những ẩn số! Giải phương trình ấy sẽ đưa tới đáp số là Sự
Thật! Chung quanh ai cũng cau có, bực bội vì cuộc sống túng thiếu, Thảo lại
thấy như đang gặp may, vì biết từ nay minh đã bắt đầu một hành trình mới,
có mục tiêu rõ rệt, có phương hướng và phương pháp tư duy để đi tới. Mà là đi
tới với một niềm tin mãnh liệt.
Thái
độ không chú ý tới những khía cạnh nhỏ nhen, ti tiện của cuộc song hiện tại, đã
làm cho thiên hạ giễu Thảo lúc nào cũng ngơ ngơ, ngác ngác như mỉm cười trước
cuộc đời… như thằng khùng! Họ không thể hiểu được rằng sau tao nhiêu năm học và
dạy học môn triết ở Paris, vì cảm thấy sống làm việc như vậy thật sự là một
trống rỗng, một bế tắc. Bởi nghiên cứu về xã hội chủ nghĩa chỉ qua sách vở mà
không có dịp trải nghiệm trong thực tế thì cũng như không. Do đó mà Thảo đã
nhất định phải trở về quê hương, nơi mà chiến tranh và cách mạng đang cuồng
nhiệt diễn ra hằng ngày. Phải tìm ở đó một hướng đi cho mình, mà cũng là tìm
một lối thoát cho triết học: phải kết hợp suy nghĩ với hành động, cách mạng với
sự thật, tức là đưa triết học vào cuộc sống, vào cách mạng, để thấy rõ triết
học phục vụ cuộc sống, phực vụ con người, để góp phần giải phóng con người,
sống và suy nghĩ và biết mình đang làm gì và đang đi về đâu mới thật là đáng
sống. Đấy có thể chỉ là sự khao khát, là ước muốn, nhưng sống không khao khát,
không ước muốn thì làm sao vươn tới những đỉnh cao của tư tưởng?
Sau
nghĩ lại lúc học tập với cách mạng ở chiến khu thì Thảo thấy thật ra chỉ là đi
theo đuôi, uổng phí thời giờ, chứ chẳng làm được một việc gì có ích cho dân,
cho nước cả! Mấy năm ấy, vì kỷ luật chiến tranh, ai cũng phải cúi đầu tuân thủ
theo tư duy một chiều, để cố chứng tỏ lòng thành của mình với cách mạng, với
“đảng”, để rồi cảm thấy sự bất lực của mình.
Ở
vị trí đứng ngoài quyền lực, nên Thảo lại càng nhận thấy rõ những chuyển biến
nhức nhối trong đầu óc dân chúng trong xã hội. Nay được ở một Hà Nội đang bị
phải lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, tức là có cơ hội để quan
sát, để thử nghiệm. Và đây là lần đầu tiên trong đời, Thảo đứng trước tìhững sự
kiện cho phép khám phá ra xu thế mà xã hội đang tiến tới, nhất là xu thế ấy
đang dẫn tới một thực tại đầy mâu thuẫn, một tương lai đen tối. Rồi càng sống
sát với người dân, càng hiểu rõ những khát vọng, những ước mong thầm kín của
họ, Thảo càng nhận ra rằng phải sống vì dân hơn là vì chủ nghĩa. Bởi dân chúng
không dám bộc lộ nguyện vọng, còn chủ nghĩa đang gây ra bế tắc cho dân, đang
làm khổ dân, tức làm khổ con người, trái ngược hẳn với những hứa hẹn giải phóng
của ý thức hệ mác xít. Mà người dân thì vẫn cứ phải cắn răng, cúi đấu cam chịu.
Đầu
óc người dân lúc ấy thường xuyên bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị quy cho một tội rất mơ
hồ là tội “phản cách mạng”. Đồng thời họ bị khuất phục bởi guồng máy tuyên
truyên tối ngày đề cao lãnh tụ và đảng “không bao giờ sai”, để rồi bắt buộc
phải sùng bái lãnh tụ, sùng bái chủ nghĩa, sùng bái đảng. Sùng bái ấy là vì sợ,
là phải chấp nhận điều ác. Sùng bái như thế là đẩy con người xuống hàng muông
thú, vì nó làm con người mất tự chủ, mất tự do.
Sự
sùng bái vì sự sợ hãi là nguồn gốc sâu xa… đã dẫn dắt con người tới chủ nghĩa
ngu tín (obscurantisme) và cuồng tín (fanatisme)… Từ đó, người
dân bị sống trong cái vòng lẩn quẩn: vì ngu tín, vì cuồng tín, nên mất hẳn tự
do, nên ngả theo xu hướng sùng bái! Sùng bái cúi đầu trước sự hãi và tội ác
là tự hạ mình thành dụng cụ, thành kẻ nộ lệ của những tín điều hoang tưởng…
tức là đã đẩy mình ra rất xa khỏi chân-thiện-mỹ!, Con người ngu tín, cuồng tín
như thế là con người có mắt như mù, có đầu mà mất lý trí. Con người như thế là
đã bị nô lệ hoá chứ không phải là đã được giải phóng!
Để
chứng minh rõ nguồn gốc sâu xa của cái sai, cái khổ xuất hiện trong đời sông
con người, Thảo bắt đầu thể hiện trong trí tưởng một sơ đồ phát triển từ sự
hình thành của ý thức: từ cử chỉ… rồi tới tiếng nói… rồi tới khả năng truyền
thông, lý luận, để rồi đẩy mạnh lý luận qua thực tại, để bước tới một giai đoạn
tư duy lúc thì theo hình thức, lúc thì theo biện chứng lúc thì thật sát với
thực tế, lúc thì chỉ là không tưởng! Đấy là bắt đầu bước có sai lầm trong trong
phương pháp tư duy, rồi từ đó bước tới sai lầm trong chính sách trong hành
động…
Đấy
là cả một quá trình tư duy chưa thật vững, nên đã dẫn tới một phương pháp hành động
tuỳ tiện và một phương hướng phiêu lưu, không tưởng chỉ vì thiếu nền tảng hiện
thực!
Do
thiếu phương tiện ghi chép, lưu trữ, việc phác hoạ lộ trình quá độ hình thành
sai lầm trong tư duy ấy phải vận dụng tối đa trí nhớ. Suy nghĩ kỹ cho thật
nhuần nhuyễn, thật ăn khớp với thực tại! Rồi phải vắn tắt ghi ra, viết lại, rồi
thì phải đọc lại, suy nghĩ thêm, rồi lại sửa, lại ghi, lại viết, lại sửa tiếp…
Vì thế mà Thảo rất bận rộn và thấy thời gian luôn luôn thiếu.
Đi
đâu, đứng đâu, lúc ngồi ăn, lúc phải nói chuyện với người khác, lúc đạp xe
ngoài đường… nghĩa là lúc nào trong đầu Thảo cũng hiện diện thật song động một
sơ đồ toàn cảnh của sự vận động hình thành con người qua những hoàn cảnh biến
đổi của vũ trụ và của xã hội. Và cố phác hoạ những ứng đụng ý thức hệ trong cái
đồ án toàn cảnh ấy vào xã hội của hôm qua, của hôm nay, để xây dựng một ngày
mai tươi sáng, cái ngày mai mong đợi của “thế giới đại đồng” ấy, nhưng than ôi,
không ngờ là thực tại lại không phải là cái mà mọi người mong đợi! Chưa bao giờ
Thảo phải tập trung tư tưởng đến như vậy, để cố tìm hiểu tại sao những lý luận
biện chứng rất chặt chẽ, đúng đắn, mà rồi chúng lại đưa tới những kết quả cụ
thể xấu xa không ngờ! Chưa bao giờ Thảo bận tâm ghi chép như thế.
Đối
với người ngoài, trong thực tế, lúc này là lúc hình thành quanh Thảo một huyền
thoại về một con người khùng hết cỡ: không còn chú ý gì tới đời sống vất vả,
tầm thường của mọi người và của chính mình! Lúc nào cũng cứ nhìn ra phía trước,
như chỉ thấy những cái đang diễn ra thật sống động trong đầu chứ không trông
thấy gì trước mắt! Lúc nào cũng cứ như ngơ ngơ, ngác ngác trước cuộc đời tầm
thường. Bởi lúc nào cũng như đang bay bổng trên thượng tầng tư tưởng. Như một
nhà thiên văn đang say mê quan sát những quỹ đạo của tư tưởng đang chuyển động không
ngừng trong vũ trụ bao la bên trong bộ não, bên ngoài trái đất!
Thảo
hăm hở vận dụng khả năng, quan sát với tâm thức một nhà nghiên cứu đang làm
việc trong một phòng thử nghiệm lớn, đang ở trước một hiện trưởng tâm lý và xã
hội rất phong phú, đa dạng, để chăm chú theo dối những chuyển biến trong con
người, trong xã hội, từ thời phong kiến. tư sản lạc hậu cũ, nay đang trên bước
quá độ của một cuộc cách mạng vô sản của xã hội xã hội chủ nghĩa Mác-Lê hôm
nay. Marx đã dựa trên hiện thực trước mắt để phê phán rất chính xác sự vận hành
của hiện thực đó. Đây là lúc có thể trắc nghiệm những quy luật phủ định của phủ
định, phủ định bậc ba, bậc tư với những hiện tượng đang diễn ra, chứ không phải
là theo lý luận suông trong sách vở. Phần phê phán dựa trên những diễn biển cụ
thể này là rất đúng, không thể phản bác, chối cãi. Nhưng khi bước qua phần lý
luận biện chứng để xây dựng cái hiện thực tốt đẹp cho tương lai thì Marx không
còn dựa trên căn bản của hiện thực nữa. Vì cái xã hội đại đồng ấy chỉ là một mô
hình không tưởng của mong ước, chưa hê có, chưa hề thấy trong hiện thực! Nhưng
cái hiện thực trước mắt Thảo, ở Hà Nội hôm nay, sao mà nó độc đoán, luộm thuộm,
tàn nhẫn quá. Những hiện tượng phũ phàng trước mắt này đòi hỏi phải dùng thực
tại ấy để điều chỉnh phương pháp tư duy và lý luận, như chính Marx đã khuyên
bảo.
Muốn
thu thập những dữ kiện của hiện thực khách quan, đầu óc phải được sắp đặt như
một thư viện, chứa đựng từng nhóm hiện tượng của một xã hội mới đang hình thành
với những khía cạnh tiêu cực và tích cực. Thảo muốn lập một sơ đồ mạch lạc của
xã hội mới này, của mặt được và mặt chưa được. Đây là một phác thảo lớp lang
của một cuốn sách vĩ đại, nó đã và đang chiếm lĩnh và ám ảnh trong đầu Thảo từ
đó, cho tới mãn đời…
Thảo
muốn nghiên cứu những vấn đề có tính cơ bản của sự hình thành con người xã hội
chủ nghĩa: một khi đã phát triển đầy đủ mọi khả năng, một khi đã có ý thức rõ
rệt về quyền lợi và nghĩa vụ trong xã hội, thì khát vọng của nó lúc đó là thuộc
về bản năng tư sản, hay bản năng vô sản? Đặt vấn đề như thế cũng là để tìm hiểu
về mối tương quan giữa hữu sản với vô sản trong vận hành của cái sẽ trở thành
trong xã hội mới: đâu là bước khởi đầu, đâu là bước kết thúc. Ở điểm tư duy
này, cần phải vận dụng tất cả những yếu tố từ nhân chủng học, tâm lý họe, rồi
xã hội họe, thiên nhiên học, môi trường, sinh thái học… qua các giai đoạn phát
triền con người và xã hội, cho tới nay, để xác định con người nói chúng, con
người bền vững, con người đã được giải phóng… thì nó sẽ có kích thước tư sản
hay vô sản? Từ đó tìm lời giải đáp câu hỏi: giữa con người hữu sản và con người
vô sản, con người nào là một thực thể bền vững về bản chất trong lịch sử? Có
cần bắt buộc phải xoá bỏ con người tư sản trong công cuộc xây dựng một xã hội
tiên tiến hay không? Mà có thể nào xoá bỏ hẳn khát vọng tư sản trong con người
hay không? Có một hiện tượng đáng chú ý là trong cuộc sống càng thiếu thốn, thì
con người càng nghĩ tới quyền lợi cá nhân, tới tư sản nhiều hơn là tới vô sản
và quyền lợi tập thể. Bởi quyền lợi tập thể đã hạn chế, ức chế quyền sống cá
thể. Mà ngân sách nhà nước xã hội chủ nghĩa dành cho phúc lợi của mỗi cá thể
của công dân thì rất là hạn chế, hầu như không đáng kể. Trừ ra và trái lại, thì
đã có một ưu tiên về mặt phúc lợi dành cho diện đảng viên, nhất là cho cấp lãnh
đạo! Đảng viên trở thành một thứ giai cấp mới có nhiều đặc quyên, đặc lợi hơn
nhân dân. Đảng vẫn có thái độ, dù là tạm thời, ngoảnh mặt đi trước những nỗi
quả khổ cực của nhân dân, cho rằng nhân dân phải biết hi sinh, phải chấp nhận
gian khổ… Từ đó nảy sinh một vấn đế mới. Phải chăng trước măt đang hình thành
một giai cấp đầy đặc quyền, đặc lợi, được ưu tiên hưởng thụ thành quà cách
mạng, và một giai cấp có nghĩa vụ gánh vác mọi hi sinh? Thắc mắc này bỗng lóe
lên như một sự thật không thể chối cãi, mà cho tới nay chưa ai dám nêu ra công
khai: một giai cấp thống trị mới đang hình thành! Giai cấp ấy đang giữ độc
quyền chính trị, trong khi, người dân trở thành giai cấp bị trị, không được ai
che chở, không có cơ chế nào bảo vệ!
Vì
vậy mà vấn đề cần phải nêu ra, cần phải cứu xét trong một xã hội xã hội chủ
nghĩa là: liệu có thể xoá bỏ giai cấp? Liệu có thể tồn tại một xã hội không có
giai cấp như mong muốn?
Công;
trình nghiên cứu này phải được thực hiện một cách thật tính táo. khoa học,
khách quan, chứ không thể làm theo một mực đích duy lý, nặng tính siêu hình,
thuần duy ý chí, theo một đam mê, để cố chứng minh, để bảo vệ một học thuyết
hay một ý thức hệ do một lý luận chủ quan, không tưởng và định kiến đã dựng
lên!
Sự
tìm tòi như vậy sẽ là nội dung của một cuốn sách phác hoạ quá trình hình thành
con người và xã hội trong lịch sử, từ thời thượng cổ tới thời xã hội chủ nghĩa
ngày nay. Hướng nghiên cứu ấy dĩ nhiên sẽ tốn nhiều thời gian. Thế nên thời
gian lúc nào Thảo cũng thấy quá thiếu, mà lại luôn bị chưng quanh quấy rầy,
rình rập và cẩm cản: người này chất vấn: tại sao cái kết quả này tồi tệ quá,
cái kia lại xa với mục tiêu đã đề ra đến thế? Người khác lại trách móc: người
trí thức mà lại im lặng, làm ngơ trước những hoàn cảnh bất công, áp bức vẫn
đang tồn tại ngay trước măt? Người cầm quyền thì đe đoạ: nghiên cứu như thế là
mưu tính bác bỏ tư duy chính thống của “đảng” là dự tính gây bạo loạn, là “âm
mưu lật đổ chế độ”!
Nhưng
rồi là những thắc mắc cụ thể, nảy sinh từ những tin tức lọt từ bên ngoài vào:
Stalin đã chết, tội ác của Stalin lần đầu tiên bị vạch ra công khai. Và Đông Âu
đang sôi động! Ba Lan bắt đầu nổi dậy! Budapest đã chuyển minh! Hồng quân Liên
Xô đã phải nhảy vào can thiệp, đàn áp bằng vũ lực! Bây giờ phải dùng vũ lực,
dùng bạo lực để bênh vực, chống đỡ cho lý thuyết, cho lý luận! Phải chăng đấy
là một thú nhận rõ ràng sự sai trái, sự thất bại của lý thuyết và lý luận?
Rồi
nay ngay tại Hà Nội này, còn là những tin tức về những chuyện đấu tranh đòi tự
do sáng tác đang xảy ra. Cánh văn nghệ sĩ trẻ bên quân đội đã cả gan dám đòi
trả lại việc quản lý nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, trả tự do sáng tác cho văn
nghệ sĩ!
Thêm
vào bối cảnh khủng hoảng tư tưởng ấy là những tin tức về những người đã từng
hăng hái tham gia kháng chiến lúc đầu, nay vì có bất đồng ý kiến về mặt ý thức
hệ, nên đã bỏ đi. Những văn sĩ, nhạc sĩ, hoạ sĩ của kháng chiến, đã lục tục
“rinh tê” tức là bỏ “khu” vào thành, rồi sau là di tản vào Nam… tức là từ bỏ
cách mạng! Những tin tức như thế đã làm cho con người cách mạng trong Thảo càng
thêm thao thức, trăn trở! Còn ta giờ đây phải làm gì trong một Hà Nội đã được
giải phóng, nhưng đang gặp bế tắc vì rõ ràng là sau chiến thắng, con người thì
không được giải phóng! Buồn và hoang mang tràn ngập tâm hồn.
Thảo
tự nhủ: xã hội đang gặp khủng hoảng tư tưởng như thế, thì ta phải dũng cảm,
bình tĩnh nhìn thẳng vào thực tại mà tìm hiểu, mà trải nghiệm để vượt qua giông
bão đang làm lập trường ta chao đảo, không còn niềm tin… Ta phải kiên trì trong
việc phân tích thấu đáo để tìm cho ra một tư duy cách mạng mới mẻ, có khả năng
ra hoa đẹp, kết trái ngọt, chứ không phải là thứ hoa hôi, trái đắng như thế
này! Và những gì mới phát hiện trong đầu, làm Thảo vững thềm một niềm tin mới,
một niềm tin là minh đang trên đà tìm ra thủ phạm của thảm kịch thời đại… Nghĩ
như vậy nên Thảo đã sống thanh thản trong hoàn cảnh mà người bên ngoài không
thể hiểu, cứ tưởng như Thảo, đang bị khủng hoảng tâm thần, không biết có phải
vì những thiếu thốn, áp bức, khổ cực đang đè nặng lên cuộc sống nên phát khùng
như thế. Vì nhiều lúc lại thấy Thảo tươi cười như thằng khùng. Chỉ có khùng mới
vui trong khổ hạnh vì túng đói, vì thất nghiệp, chỉ có khùng mới lăng xăng làm
việc, viết lách, ghi chú y như đang bận rộn lắm như thế. Không ai có thể hiểu
nổi sự vuỉ vẻ, say mê suy nghĩ miên man đang thầm lặng, hứng khởi lao mình vào
công cuộc nghiên cứu của một nhà triết học trong hoàn cảnh khao khát kết quả,
khao khát sự thật như vậy, mà quên hẳn đời sống túng quẫn!
Người
kháng chiến nay vào tiếp thu Hà Nội, chỉ nghĩ tới thành quả của chiến thắng.
Thảo vào Hà Nội với tâm thức muốn chuộc lại thời gian đã mất vì lãng phí ở
chiến khu Việt Bắc. Với tâm tư suy nghĩ như thế, Thảo dần dẩn rũ bỏ được nỗi
buồn, có lúc tưởng như đi gần đến tuyệt vọng, để hăng hái tìm ra một nguồn cảm
hửng, để xác định cho mình một nhiệm vụ rõ rệt: phải sông, phải nghiên cứu, và
phải viết…, để làm sáng tỏ nguồn gốc, chiều hướng vận hành của tư duy cách mạng
trong hiện thực!
Với
ý nghĩ sôi sục trong đầu: trước mắt, Hà Nội đang là một phòng thử nghiệm về
công cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi giờ đây, cách mạng đã giải phóng Hà Nội, đã
đánh tan thành trì tư bản, đã đánh gục giai cấp tư sản ở đây. Rồi sau đó sẽ ra
sao? Lời giải đáp đang hình thành ngay tại thủ đô Hà Nội này. Đây là một hoàn
cảnh mà có lẽ Marx mơ ước để có thể thử nghiệm rõ hơn cái lý thuyết đấu tranh
giai cấp của mình, để xây dựng một mô hình cho một thế giới đại đồng sát với
thực tại, chứ không còn chỉ là lý luận suông trong sách vớ và trí tưởng tượng
nữa! Càng quan sát nỗi khổ của dân, càng nhận thấy lý thuyết, lý luận đang “có
vấn đề”!
Thảo
tin rằng mình đã sẵn có môi trường hiện thực để nghiên cứu, để nghiệm sinh.
Chắc chắn kết quả sẽ vô cùng phong phú… Dù cho những ngày sắp tới sẽ rất là
gian khổ về mặt vật chất, mà chính Thảo cũng như nhiều người khác vẫn chưa thấy
có lối thoát. Nhưng rồi lại lo ngại rằng những biên soạn, tìm tòi sẽ không dễ
gì được công bố, được in ra để phổ biến, để lưu lại cho hậu thế những thử
nghiệm đã thu thập được từ một Hà Nội trong giai đoạn nhọc nhằn thay da đổi
thịt, để có thể trở thành cái nôi của một cuộc cách mạng lý tưởng của Việt Nam
và rất có thể là của toàn thế giới!
Người
ta bàn luận về tình hình thế sự với Thảo, để rồi phải nghe những lời diễn giải,
góp ý không sát thực tế vì nó phát xuất từ một cái nhìn xa hơn, cao hơn, rộng hơn,
sâu hơn: tất cả đều đã phát sinh từ gốc, tức là từ sự hình thành con người, cho
tới sự hình thành xã hội, từ những quá khứ xa xôi, cả về chiến tranh và hoà
bình, cả về cách mạng, cả về “đảng” và nhà nước, cả về cộng sản và tư bản, cả
về vô sản và hữu sản… hết thẩy đều có gốc gác từ quá trình tạo thành tư duy, lý
luận… từ sức phân đấu vươn lên, tới thái độ cúi đầu sùng bái lý thuyết, chấp
nhận nỗi khổ của hiện tại, cả tin vào cái sai trong quá khứ, trong hiện tại,
của con người, của xã hội ngày nay…
Phải
nhìn nhận những gì xuất hiện trong hiện tại, đều có gốc rễ từ quá khứ, y như
những lớp đất đá lần lượt qua thời gian, kết tụ lại từng địa tầng, lớp nọ đè
lên lớp kia. Cây có mọc trên mặt đất ấy, nhưng chính gốc rễ của nó đã hấp thụ
những yếu tố, từ các tầng lớp bên dưới để tạo ra tất cả những gì hiển hiện trên
mặt đất này, ở trong hiện tại này… Tất cả đều do chất liệu của một quá trình
kết tụ, tích luỹ từ dĩ vãng: hiện tại là một di sản sống động, là gánh nặng
đang tác động do quá khứ để lại. Cái gì hiện hữu hôm qua thì hôm nay nó vẫn còn
tác động. Cái gì hiện hữu hôm nay, thì rồi nó vẫn tác động ở tương lai, gần hay
xa. Không có cái gì đã tác động tốt hay tác hại hôm qua mà sẽ mất hẳn đi trong
hôm nay, không có cái gì đang tác động tốt hay xấu hôm nay mà sẽ hoàn toàn mất
đi trong tương lai. Cứ y như trong hoá học: không có gì đã có mà rồi sẽ mất đi
hoàn toàn. Nó sẽ xuất hiện dưới một dạng khác, thể khác, chứ không biến đi mà
không để lại dấu vết. Không có cái gì không hề có hôm nay mà lại sẽ có trong
tương lai: cổ xuý đấu tranh bằng hận thù, bạo lực hôm nay, thì rồi nó sẽ đẻ ra
hận thù và bạo lực trong tương lai. Và chính quy luật này cho biết, muốn xây
dựng những điều công bằng, chân thật tốt đẹp của thế giới đại đồng trong tương
lai, thì phải bắt đầu thực hiện những bước công bằng, chân thật tốt đẹp ấy ngay
từ hiện tại bây giờ. Phải xử lý, thanh toán cho hết những di sản thù hận của
quá khứ đang hiện diện, trong thực tại, để nó không còn tác động trong tương
lai. Khung cảnh lý luận như thế là căn cứ trên một hiện tại sống động nghĩa là
nó phải thanh toán, nó phải gột rửa mọi xấu xa để rồĩ nó sẽ còn tiếp tục sống
động trong tương lai, như là cái gốc tốt đẹp, tử tế của tương lai ấy.
Không
có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối,
đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẽ và tham
nhũng, của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương
yêu, tốt đẹp trong tương lai!
Mà
có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô sản
trong tương lai? Hay nó đang phấn đấu để trở lại thành con người hữu sản? Phấn
đấu để có một cái gì cho minh, hay để rồi không có gì cả cho riêng mình?
Có
những nhận định khắt khe cho rằng một số không ít đảng viên, chỉ vì muốn lo
toan, củng cố các điều kiện sinh hoạt cho gia đình mà bị quy chụp cho tội “cách
mạng biến chất”, chỉ biết lo cho riêng tư. Đấy là một lối nhìn sai lệch cần
phải chấn chính. Vì đấy là một thứ lý luận theo lô-gích hình thức của phái siêu
hình, không nhận ra sự thật ở trong những cái thực tế rất tự nhiên trong vận
hành cách mạng của con người... Lối nhìn ấy thật sự không phải là lối nhìn biện
chứng. Thực ra là họ vẫn luẩn quẩn trong một số lý luận siêu hình mà không
biết. Nhìn thấy khía cạnh lệch lạc trong lý luận này, Thảo vui mừng vì biết
mình đã tiến thêm một bước tới gần tung tích của thủ phạm đã đưa cách mạng tới
những sai lầm cơ bản. Tung tích ấy là sự thiếu vắng của thực tế hiện tại trong
lý luận. Nhưng vẫn chưa thấy thật rõ được thủ phạm là gì, là ai!
Và
khi tôi thành thực và khiêm tốn tiết lộ, chia sẻ khám phá mới này với một số
trí thức có trình độ thật sự mà tôi kính nể, thì họ đều gật đầu tiếp nhận như
là một phương pháp tư duy mới mẻ, có căn bản lý luận vững, đáng được khai triển
cho sâu rộng hơn. Điều đó đáng được công bố để một nhà tư tưởng góp ý và đánh
giá. Nhưng làm sao công bố, làm sao có thể khách quan đánh giá một tư tưởng mới
trong hoàn cảnh bị tư duy chính thống “duy nhất đúng” chi phối, có chăng là chỉ
khi nào thoát được ra bên… ngoài! Mà lúc này đi ra nước ngoài đối với bác Thảo
là một vấn đề vô kế khả thi, không dễ giải quyết về nhiều mặt…
Ch10: Hai chuyến di chuyển đổi đời
Đang trong tình trạng mắc kẹt trong vòng cương toả của
các cục “bảo vệ”, “tuyên huấn”, các ban “văn hoá, tư tưởng, khoa giáo Trung
ương” như vậy, thì Trân Văn Giàu, rồi Trần Bạch Đằng từ trong Nam ra thăm Hà
Nội. Cả hai người miền Nam này đã kinh ngạc khi khám phá ra những ý hướng mới
mẻ của Thảo. Và nhất là họ thấy những điều kiện sống và làm việc quá tồi tệ như
thế. Họ tính đề cập với các cấp lãnh đạo về vấn đề nên đối xử nhân đạo với
Thảo… Nhưng sau khi giải phóng miền Nam, nay hầu hết các giới chức cách mạng
cấp cao ở Hà Nội đều đổ vào Nam, nói là để “công tác”, thực ra là vào sống ở đó
để được hưởng chiến lợi phẩm của chiến thắng: Hà Nội lúc đó chỉ còn lại những
trụ sở và chức vụ tượng trưng không có thực quyền hành động.
Cánh
trí thức Nam bộ này khuyên Thảo nên tìm cách vào Sài Gòn sinh sống, vì trong đó
khí hậu ấm áp hơn, đời sống cũng sung túc hơn, nên dễ có điều kiện cho phép làm
việc, thoải mái, cởi mở hơn. Nhưng Thảo hỏi lại:
-
Các đồng chí tưởng tôi là kẻ được tự do chọn lựa, muốn đi đâu thì đi, muốn sống
ở đâu cũng được sao? Tôi đã nhiều lần xin đi dạy học trở lại, họ không cho,
viện dẫn lý do là đã có lệnh cấm tôi dạy học từ thời “bác” Hồ còn sống, từ đó
tới nay, tôi sống như bị giam lỏng ở Hà Nội này. Thỉnh thoảng họ chỉ bố trí cho
tôi được tham dự những sinh hoạt có tính tuyên truyền, cũng có lần tham gia
phái đoàn đi tham quan nước ngoài. Sự có mặt của tôi trong các sính hoạt ấy đều
bị kiểm soát chặt chẽ và chỉ để đánh bóng chế độ!
Sau
đó bác Thảo nhìn nhận rằng sự kiện được vào thăm Sài Gòn đã thay đổi hẳn phương
hướng trong đầu óc và trong cuộc đời bác từ lúc ấy. Tâm sự ấy đã làm chúng tôi
quá đỗi ngạc nhiên. Bác nói:
-
Mới đặt chân xuống cái thủ đô của miền Nam này, mọi sự đã làm tôi kinh ngạc.
Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn nó lại khang trang hiện
đại như vậy? Tôi cứ ngỡ cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ - Nguỵ bóc lột đến nỗi
miền Bắc đã phải “cắn hạt gạo làm tư” để cứu giúp miền Nam cơ mà… Và mọi người
ở đây sao mà nói năng cởi mở thoải mái quá vậy? Ngay những cán bộ của “đảng” ở
đây cũng có thái độ tự do quá. Họ đãi đẳng tôi, họ giễu cợt tôi, coi tôi cứ như
anh mán, anh mường ở làng mới được về thành phố. Phải nói thẳng ra là có một
điều của Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng đến cùng cực. Đó là những bài hát của
một anh chàng nhạc sĩ trẻ của miền Nam, nói đúng ra là của “Mỹ-Nguỵ” chứ không
phải của “đảng”. Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi
niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả dân
tộc ở cả hai miền Nam Bắc. Giữa những năm tháng chiến tranh một mất một còn ác
liệt như thế mà sao anh ta dám cất lên tiếng kêu than như vậy. Những lời ca của
các bản nhạc đã làm tôi xúc động bồi hồi không cầm được nước mắt. Những lời của
những bái hát ấy đã lay động tâm hồn tôi. Phải thú nhận là trong đời tôi, có
hai lần bị thúc đẩy phải thoát khỏi thái độ sợ hãi đến hèn nhát đã ngự trị
trong đầu óc bao trí thức, văn nghệ sĩ… của Hà Nội. Lần thứ nhất là do nhà thơ
trẻ Trần Dần, khi anh ta tới mời tôi tham gia vào nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm!
Lần thứ nhì là khi được nghe mấy bài hát thẩm thía của Trịnh Công Sơn! Đấy là
thứ âm nhạc phát ra từ trái tim của dân tộc. Những lời ca đau đớn trước cuộc
chiến tranh của “một lũ điên”, của câu hỏi bão lòng: “tại sao một đất nước đói
nghèo mà vẫn còn chiến tranh”… Những lời ca như thế đã lôi kéo tôi ra khỏi mặc
cảm sợ hãi vì đang bị kìm kẹp, đang bị coi như “kẻ có vấn đề”. Dám cất lên
tiếng hát phản chiến, giữa lúc cả hai phía đang đam mê “thề phanh thấy, uống
máu quân thù” như thế, chứng tỏ Trịnh Công Son là một con người đũng cảm, không
sợ ngục tù… Không hiểu sao chính quyền miền Nam lại để cho anh ta tự do sáng
tác những bài ca làm mất tinh thần chiến đấu như thế? Điều này khiến phải suy
nghĩ tới trình độ dân chủ rất khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc. Một chế độ để
cho người nghệ sĩ được tự do cất tiếng hát lên những nỗi niềm như thế, không
phải là một chế độ tồi tệ. Xét chung thì miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ
rệt. Cả giới trí thức lẫn dân chúng của miền Nam đều bàn chuyện chính trị cởi
mở, phê phán lãnh đạo và đảng rất tự nhiên. Ở miền Bắc thì không thể. Miền Bắc
là cái lò của giáo điều, của chiến tranh. Không có chỗ cho một Trịnh Công Sơn,
điều đó dễ hiểu. Vì thế tôi không ngạc nhiên khi nghe tin Dương Văn Minh đã ra
lệnh buông súng… và đã được nghe theo. Vì có lẽ dân đã thấm mệt với bao nỗi đau
khổ, chết chóc. Tôi cảm ơn miền Nam vì đã sinh sản được một Dương Văn Minh, một
Trịnh Công Sơn. Người nhạc sĩ trẻ ấy đã góp phần vào giờ phút thiêng liêng
buông súng, thôi băn giết nhau… Đấy thật sự là một anh hùng của hoà bình, chính
anh ta đã nêu gương can đảm cho Trần Đức Thảo này! Chi tiếc rằng người cán bộ
sĩ quan của “bộ đội cụ Hồ”, khi tiến vào dinh Độc Lập gặp Dương Văn Minh, thì
đã có thái độ thô bạo rất đáng tiếc… Riêng tôi thì thú thật là tôi rất cảm ơn
cái lệnh buông súng ấy. Vì nó đã giải thoát được hàng vạn thanh niên miền Bắc
ra khỏi rừng núi đầy bom đạn và muỗi, mòng… Vì nó đã cứu hàng vạn thanh niên
với sổ phận “sinh bắc, tử nam”! Vậy mà cách mạng đã có chính sách miệt thị,
người sĩ quan bộ đội ấy đã có cách hành xử thô bỉ quá kém cỏi với một lãnh đạo
chính quyền miền Nam như thế!
-
Bác nói kém cỏi là như thế nào?
-
Tại vì cách mạng đã hứa với nhân dân, hứa với anh em kháng chiến miền Nam, hứa
với quốc tế là sẽ giải quyết chiến tranh bằng chính sách dân chủ hoà bình, hoà
giải, hoà hợp dân tộc… sau khi có ngưng bắn. Sự tôn trọng những cam kết, tiếp
theo việc chính quyền Việt Nam Cộng Hoà ra lệnh buông súng, thì sau đó đáng lẽ
phải có nghi lễ ký kết hạ quốc kỳ VNCH, kẻo quốc kỳ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam
lên, rồi là bàn giao chính quyền cho người của chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền
Nam Việt Nam đúng theo những cam kết có ghi trong hiệp định hoà bình Paris… Như
vậy thì nước ta đã tránh được cái cảnh tiếp thu thô bạo, tránh được mười năm
cải tạo tàn nhẫn xã hội miền Nam, tránh được sự đánh lừa anh em kháng chiến
miền Nam… Với chính sách ngay thẳng, không trả thù theo tinh thẩn hoà giải, hoà
hợp dân tộc… thì nước ta đã tránh được thảm cảnh thuyền nhân, tránh được mười
năm cải tạo quá tàn nhẫn ở miền Nam, đã làm đất nước kiệt quệ, để rồi cuối cùng
sau này đã phải lạy van Mỹ bỏ cấm vận, phải bãi bỏ hoàn toàn nền kinh tế xã hội
phủ nghĩa, để chấp nhận nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản, như đang
thấy! Tiếc thay trong giây phút phút lịch sử vô cùng thiêng liêng trọng đại,
chính thức chấm dứt cuộc chiến tranh huynh đệ này, thì người sĩ quan “bộ đội cụ
Hồ” ấy đã có ứng xử kém cỏi hung hăng quát nạt, nhục mạ cả ban ỉãnh đạo chính
quyền miền nám, gọi Dương Văn Minh là “mày” và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu,
chứ không cho ngồi… để nhận cái lệnh nhục nhã là “phải đầu hàng vô điều kiện”.
Sự nhục mạ này, với chính sách tù cài tạo… đã làm cho nhiều công viên chức sĩ
quan và binh lính miền Nam đến nay vẫn chưa nguôi hận, thề không đội trời chung
với “Việt cộng”, với cờ đỏ sao vàng! Và họ còn thù cả Dương Văn Minh vì đã chịu
cúi đầu lãnh nhục. Có lẽ biết trước như vậy, nên một số tướng tá quân đội miền
Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng cách mạng! Việc kẻ thắng trận nhục mạ kẻ
bại trận là việc làm tầm thường quá dễ, nhưng kẻ thắng trận mà biết chinh phục
lòng tôn kính của kẻ hại trận bằng tấm lòng quảng đại, bằng trình độ trí tuệ đậm
nét vãn minh văn hoá… thì đó là một việc làm rất khó. Trường hợp nước Đức thống
nhất sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Đức sụp đổ, mà đã không có cảnh
nhục mạ, trả thù, cải tạo như ở ta… mà rồi còn cho phép nhiều nhà chính trị
cộng sản của Đông Đức cũ được trọng dụng, có người đã trở thành lãnh đạo của
nước Đức tự do thống nhất… Hiện tượng sáng ngời này đã xảy ra là do dân tộc Đức
có trình độ dân chù, có vốn trí tuệ và văn minh văn hoá cao chứ không kém cỏi
như ở ta. Trong trường hợp nước ta, việc ứng xử thô bỉ như vậy đúng vào giây
phút chiến tranh chấm dứt như thế, đã làm cho sự tuyên truyền chính sách đại
nhân, đại nghĩa “hoà giải, hoà hợp dân tộc” bỗng nhiên tự nó tố cáo nó là một
quỷ kế để đánh lừa kẻ thù buông súng, chứ không phải là một sự dàn xếp nhân bản
cao thượng giữa anh em trong một nhả. Mấy anh em cách mạng miền Nam còn than
phiền với tôi về việc có những bộ đội miền Bắc, khi tiếp quản Sài Gòn, đã nhục
mạ dân chúng về tội “ăn mặc lố lăng, bắt họ phải cạo sơn móng tay, bắt cắt quần
ống loa” … Rồi lại còn cảnh trả thù cả người đã chết bằng cách đập phá nghĩa
trang của chế độ “nguỵ” nữa! Thải độ ấy thật là thô lỗ quá trớn. Thú thật, khi
nghe tin Dương Văn Minh ra lệnh buông sủng thì tôi vô cùng vui mừng và biết ơn.
Nếu ông ta quyết tâm tử thủ như một số tướng lãnh “nguỵ” chủ trương, thì chiến
tranh còn kéo dài và ác liệt hơn nữa. Trận đánh Sài Gòn sẽ tạo thêm cảnh đổ nát
với sông máu, núi xương… chứ không có cảnh êm thấm mà vào dinh Độc Lập dễ dàng
đẹp đẽ như vậy. Chính vì những hành động thô bạo của kẻ chiến thắng như thế mà
“đại thắng mùa xuân” mới chỉ thống nhất được lãnh thổ chứ nó không thống nhất
được dân tộc… Trong cái đại thắng kết thúc chiến tranh mà giảm được phần hao
tổn xương máu, thì cũng phải kể công của kẻ đã ra lệnh và cả những kẻ đã chịu
buông súng chứ. Tại sao lại trả thù thô bạo như thế? Tôi nói cái sự kém cỏi là
như thế. Sau này, các nhà sử học phải phân tích cho công bằng cái ý nghĩa tốt
đẹp của cái lệnh buông súng ấy. Chẳng lẽ phải lên án, sỉ nhục sự buông sủng để
dận tộc bớt đổ máu?
-
Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy một người cộng sản như bác mà lại có nhận
định lạ đời như vậy. Không it người miền Nam đã kết tội Trịnh Công Sơn là kẻ đã
“đâm sau lưng chiến sĩ”, và đã lên án Dương Văn Minh là kẻ hèn nhát vì đã ra
lệnh buông súng để tạo ra sự đầu hàng nhục nhã như thế…
-
Cung dễ hiểu tại sao lại có thái độ kết tội như vậy. Bởi mỗi người chiến sĩ khi
cầm súng ra trận là với niềm tin vào chính nghĩa của mình. Nhưng phải suy nghĩ
cho thật thấu đáo để thấy tẩm mức lợi hại. Như trường hợp Nhật hoàng Hirohito,
khi ra lệnh cho binh lính Nhật buông súng… Lệnh đó là do thương dân. Tỉnh thần
võ sĩ đạo bất khuất của dân Nhật cao là thế, vậy mà vua nước Nhật đã chấp nhận
sự nhục nhã đầu hàng. Và dân Nhật đã không lên án Nhật hoàng. Họ còn tiếp tục
biết ơn và kính trọng vua Nhật cho tới ngày nay. Còn Mỹ là kẻ chiến thắng, cũng
không hề lên án Nhật hoàng là kẻ đã chủ trương chiến tranh bành trướng để quốc,
Mỹ cũng vẫn kính trọng Nhật hoàng vì cái lệnh buông súng ấy, vẫn kính trọng dân
tộc Nhật vì đã chịu buông súng… Đáng buồn là trong giai đoạn lịch sử chiến
tranh và hoà bình, cả hai miền của một đất nước từng hãnh diện với ngàn năm văn
hiến, mà đã để xảy ra quá nhiều hành động độc ác, côn đồ bất xứng, nên đã không
thể có được sự kính trọng lẫn nhau… Bi kịch của đất nước và dân tộc ta hiện nay
là do trong chính trị, trong xã hội vẫn có quá nhiều điều bất xứng.
-
Trường hợp nước ta thì rất khác. Đây thật sự là một cuộc chiến tranh huynh đệ,
vì cuồng tín ý thức hệ giữa hai phe quốc cộng, một mất, một còn… Mà sau lưng
mỗi bên lại là sự chi phối, của hai khối thế lực quốc tế. Bác nghĩ thế có lẽ là
chưa thấy hết sự di hại về phân biệt ý thức hệ…
-
Đấy không phải là những ý nghĩ của tôi. Mà đấy chính là những nhận định của một
số anh em cách mạng miền Nam. Họ đã phê phán chính sách cải tạo xã hội, họ cho
tôi biết đã xẩy nhiều điều nhức nhối, khi quân cách mạng, giải phóng vào tiếp
thu Sài Gòn và miền Nam. Đến nỗi sau đó đã làm cho miền Nam lâm vào cảnh đói
khổ kéo dài cả chục năm… Mấy anh em kháng chiến ấy thì sau này đều bị gạt ra
bên lề chính trị. Thật là đáng buồn. Họ đã chất vấn tôi, họ chê trách trí thức
miền Bắc, cứ y như chúng tôi phải chịu trách nhiệm về tất cả những sai trái đã
xảy ra trong chế độ. Biết tôi là nhà triết học, nên họ trách móc tôi, họ bắt
bẻ:
-
Bảo rằng “đảng” không bao giờ sai lầm là nói biện chứng duy tâm. Nói tư tưởng
cách mạng là duy nhất đúng là nguỵ biện, là gian dối trong lý luận. Tại sao một
người có trình độ lý luận như đồng chí mà lại chấp nhận, tình trạng phổ biến
nguỵ biện lý luận tồi tệ như thế!
-
Tôi đã phải giải thích cho họ hiểu sự thật rằng tôi đã chấp nhận tình trạng sai
trái ấy là vì tôi sợ, là vì chúng tôi hèn. Trước những nỗi đau của dân, đám trí
thức chúng tôi ở Hà Nội đã im lặng, đã có những ứng xử đồng loã với sai lầm và
tội ác như thế đấy! Tôi hứa sẽ có ngày phải thẳng thắn đề cập tới những khúc
mắc vô cùng tai hại như vậy. Tôi đồng ý là nếu không tháo gỡ hết những khoảng
tối, những khúc mắc của lịch sử đương đại, thì không thể nào nâng cao được dân
trí, không thể nào hoá giải được tình trạng ngu tín đang tiếp tục nhấn chìm chế
độ này vào vũng lầy thối nát, xã hội ngày càng hỗn loạn, con người ngày càng
suy đồi về tinh thần, càng sa đoạ về mặt luân thường, đạo đức, trật tự kỷ
cương…
-
Nhưng làm sao mà giải quyết được những vấn đề phức tạp ấy?
-
Tất cả những vấn đề ấy phát xuất từ tình trạng vẫn có bất công trong đói nghẻo,
mà lại phải gánh vác chiến tranh kéo dài, trong khi chính sách thì đầy ắp mưu
mô, lý luận thì gian xảo nguỵ biện. Từ những ứng xử lật lọng của chính quyền,
của guồng máy tuyên truyền nặng tính giáo điều, vừa ngu tín, vừa cuồng tín… Tất
cả đều bắt nguồn từ cái ý thức hệ hung hăng “đấu tranh giai cấp”: nhu cầu đấu
tranh đã sinh ra muôn vàn tội ác, đã gieo rắc hận thù, đã phát triển bạo lực,
đã chìa rẽ dân tộc rất là nặng nề và tai hại. Không đưa ra ánh sáng những sai
trái ấy để phân tích, để lý giải, để thanh toán chúng thì dân tộc còn bị chia
rẽ lâu dài, xã hội sẽ ngày càng bế tắc, chính quyền ngày càng ung thối.
Sau
đó bác Thảo còn giải thích thêm rằng chính những trăn trở, những ảnh hưởng tích
cực của những ngày đầu được vào sống ở Sài Gòn, đã đưa bác tới sự chọn lựa một
thái độ dứt khoát, phải có một phương hướng nghiên cứu mới thật sự cởi mở vả
khách quan, xuyên suốt bác Thảo nhìn nhận cuộc sống mới ở Sài Gòn đã giúp cho
công cuộc nghiên cứu sau này của bác có một mục tiêu phản biện rộ rệt, một
hướng nhân bản, tiến bộ vững chắc. Nhờ vậy mà tâm hồn thấy hứng khởi, đầu óc
thêm minh mẫn!
Rồi
bác Thảo giải thích tiếp:
-
Sự tiếp cận thực tại đầy mâu thuẫn trong xã hội mới đã làm cho đầu óc tôi thức
tỉnh. Trạng thái tinh thần hưng phấn như thế là nhờ sự thôi thúc của mấy anh em
kháng chiến và trí thức miền Nam. Vì tôi được mời vào tham quan lúc Sài Gòn đã
được hoàn toàn “giải phóng” và đang hăm hở tiến hành cải tạo mang tính xã hội
chủ nghĩa, qua những bước chập chững của thời kỳ “đổi mới”. Việc ấy tuy phức
tạp nhưng phong phú, đầy những hiện tượng có ý nghĩa sâu sắc, với những hệ quả
lâu đài…
-
Mà việc tôi được phép vào Sài Gòn cũng là đo mấy đồng chí miền Nam thu xếp. Câu
chuyện là như thế này: một hôm, rất bất ngờ, Trần Văn Giàu lại từ miền Nam ra,
tới gặp tôi và tha thiết đề nghị:
-
Anh nên vào Nam mà sống, trong ấy không khí ấm áp dễ thở hơn và có sẵn mọi thứ
có lợi cho sức khỏe và công việc làm nghiên cứu cũng dễ hơn. Chứ ở ngoài bắc
này, không khí canh chừng ngột ngạt khó thở quá. Làm nghiên cứu chính trị và
triết học sao được!
-
Nhưng tôi không được tự do chọn nơi ở. Tôi thấy bây giờ ở Hà Nội, ai cũng tỏ ra
háo hức muốn vô Nam để được hưởng thành quả chiến thắng. Nghe nói trong ấy con
người và xã hội có vẻ phóng khoáng hơn, tôi cũng muốn đi theo họ. Nhưng bị kiểm
soát, canh chừng như thế này thì tôi làm sao vô trong ấy được!
-
Tôi sẽ vận động để mời anh vào tham quan và ở chơi với chúng tôi một vài tháng.
Một khi vào rồi thì muốn ở lại cũng dễ thôi. Ở trong Nam anh có quen ai không?
-
Có lẽ tôi chỉ quen biết có một người là Sông Trường, hình như đang làm việc gì
đó ở Sài Gòn. Đồng chí ấy từ trước đây vẫn là người đã được “Trung ương” trao
nhiệm vụ trực tiếp “cai quản” tôi.
-
Thế thì thì tốt quá. Tay ấy đang ở Sài Gòn, vừa trông tờ Tạp Chỉ Cộng Sản, vừa
chỉ đạo toàn bộ công tác tư tưởng ở trong Nam… Đồng chí ấy có thể viết thư mời
anh vào trong ấy tham quan. Nếu không thì tụi tôi sẽ gửi thư mời anh để anh xin
giấy di chuyển. Nhất là lúc này, đang có những sức ép của các gia đình cán bộ
đòi phải nới rộng việc đi lại giữa hai miền Nam - Bắc cho dễ dàng hơn.
Nhận
được thư mời của thành uỷ Sài Gòn, Thảo làm đơn xin giấy di chuyển vào thăm Sài
Gòn trong ba tháng. Đơn này được gửi cho thành uỷ Hà Nội, rồi nó được chuyển
qua cục bảo vệ. Cục bảo vệ chuyển qua Trung ương “đảng” với lời ghi kèm: “Đồng
chí Thảo từ lâu vẫn do Uỷ ban Trung ương quản lý”. Tại đây, lá đơn lại được gửi
vào Sài Gòn cho đồng chí Sông Trường là người đã được lãnh đạo uỷ thác nhiệm vụ
quản lý “đồng chí Thảo” ngay từ lúc đầu. Nhận được lá đơn, Sông Trường tự viết
tay vào một tờ giấy, rồi ký tên và đóng con dấu vuông đỏ của “Trung ương Đảng”.
Lời lẽ ghi trong tờ giấy nhỏ đỉnh kèm là đơn ấy, như sau: “Nên chấp thuận
cho đi, vì hiện nay đối tượng này ở Hà Nội đang trở thành nơi thu hút và tập
trung nhiều thành phần phức tạp rất quậy phá”. Dưới mấy chữ “phức tạp
rất quậy phá” được gạch dưới băng bút đỏ!
Tháng
ba, 1987, Thảo được phép vào thăm Sài Gòn và được thành uỷ cho trụ ngụ tại
khách sạn Bến Nghé, là một khách sạn thuộc loại bình dân dành cho cán bộ cấp
thấp. Tuy vậy, giới trí thức cũng như thành uỷ Sài Gòn đã dành cho Thảo một sự
tiếp đón thân tình:
-
Đồng chí cứ sinh hoạt thoải mái, ở đây không có sự kiểm soát gắt gao như ở Hà
Nội đâu. Còn về mặt vật chất thì Thành uỷ sẽ cấp dưỡng chu đáo! Mong rằng rồi
đây, đồng cbí sẽ có cống hiến đóng góp vào sinh hoạt tư tưởng với anh em trí
thức trong này.
Sự
khuyến khích và giúp đỡ ấy là một thúc bách đối với Thảo; phải làm một cái gì
mới mẻ đáp lại lòng tốt của anh em miền Nam, phải đáp ứng khát vọng của trí
thức Sài Gòn, phải đề ra một phương hướng lý luận mới, không giáo điều, không
nguỵ biện! Được gợi hứng bởi môi trường phóng khoáng của miền Nam, Thảo viết
một hơi, chỉ trong mươi ngày một tập sách nhỏ. Đây là một thứ trích đoạn từ
những phác thảo của cuốn sách lớn đã sẵn có trong đầu. Đoạn này phù họp với như
cầu của tình hình. Vì nó nêu ra sai lầm cơ bản của cách mạng là lối sùng bái
lãnh đạo và lối lý luận nguỵ biện xơ cứng, không chịu nhìn nhận những giá trị
sẵn có trong bản sắc, bản năng của con người nói chung, không chịu coi con
người là trọng tâm, là cứu cánh của mọi lý luận, mọi chính sách. Chính lối lý
luận xơ cứng giáo điều, coi con người chỉ là dụng cụ này, đã đưa tới bế tắc tư
tưởng. Vì đã bỏ quên con người là cứu cánh. Đấy là nguyên nhân sâu xa, khiến từ
khối Liên Xô cho tới chế độ Khơme Đỏ đã bị phê phán nặng nề, đến phải lung lay,
và đã sụp đổ…
Kết
quả của sự ra mắt tập sách nhỏ với nhan đề “Con người và chủ nghĩa lý luận
không có con người” thật là bất ngờ. Đây là một mốc sinh hoạt tư tưởng có ý
nghĩa quan trọng trong cuộc đời nghiên cứu triết học của Thảo từ khi về mrớc.
Đây là lần đầu tiên một tập sách mang tính lý luận, triết học không chịu sự chi
phối của “đảng”, đã được phép công khai xuất bản tại Việt Nam. Mà tác giả của
nó lại là Trần Đức Thảo, một nạn nhân, một tội nhân trong vụ “Nhân Văn - Giai
Phẩm”! Tập sách nhỏ này ra đời đúng vào lúc mọi người đang náo nức bàn luận về một
xu hướng đòi hỏi phải thay đổi cả về tư duy lẫn đường lối chính sách. Đó là đòi
hỏi phải có chính sách thật sự là mới và cỏi mở cho hợp với thời đại, đo chính
Việt Nam chù động! Cuốn sách được trí thức miền Nam đánh giá là một văn bản
phản bác giáo điều, chống tệ nạn sùng bái cá nhân của thời “đảng” bao cấp,
“đảng” thống trị!
Bác
Thảo, khi nói về tình trạng “lúng túng trong lý luận siêu hình” một cách
vô ý thức mà chính bác cũng đã phạm phải, và bác nhấn mạnh rằng điều này đã
được nêu ra rất rõ trong cuốn sách ấy. Rồi bác giải thích:
-
Tuy nhiên trong đó tôi chỉ mới xét vấn đề ở một khía cạnh hạn chế, chưa đẩy sự
phân tích lý luận tới tận cùng. Khi nêu ra những mâu thuẫn trong lý luận của
Althusser của Mao và rồi cả của Pol Pot thì tôi chỉ kết luận là những lý luận
ấy đều có mâu thuẫn, đều là sai lệch. Thực ra thì ngày nay tôi đã có thể đẩy sự
phân tích đi xa hơn nữa, để thấy những mâu thuẫn, sai lệch ấy đều xuất phát từ
cùng một gốc gác là tư tưởng Mác-Lenin! Bàn về tính lỗi thời của tư tưởng ấy
thì đã cũ. Nhưng phân tích, chứng minh bằng lý luận biện chứng rằng tư tưởng ấy
đã gợi ra, đa làm nảy sinh những chính sách đầy mâu thuẫn và độc ác… thì đây là
một điều mới mẻ và táo bạo. Trong tiểu luận nêu trên, tôi đã đề cập tới vấn đề
con người bị bỏ quên, cốt chỉ muốn bảo vệ một số giá trị sẵn có trong còn người
nói chung, nên đã bị quy oan là có xu hướng thù địch “chống đảng”, phá cách
mạng! Và rồi bị đẩy ra khỏi hàng ngũ “nhân dân”! Sự sai lệch ấy phát xuất từ lý
luận hình thức một chiều, không biện chứng. Đấy là một vấn đề thường xảy ra khi
đảng cộng sản ở trong vị thế cầm quyền. Đây là thái độ cửa quyền về mặt tư
tưởng. Và vấn đề này luôn luôn là một vấn đề rất thời sự cần phải giải quyết để
một đảng cộng sản cầm quyền không bị giam hãm, thụ động dặm chân tại chỗ trong
tình trạng giáo điều, bảo thủ và bế tắc. Và cách giải quyết để thoát ra khỏi bế
tắc, thụ động ấy là phải vận dụng lý luận đặt nặng cả hai mặt vừa biện chứng,
vừa hình thức. Với một “lô-gích” vừa hình thức, vừa biện chứng mới mẻ như vậy,
thì sẽ có thể thống nhất được lý luận với hành động, lý thuyết với thực tại,
chính sách với sự thật. Làm cách mạng là phải tôn trọng cả hai mặt của sự thật,
vừa biện chứng, vừa hình thức. Như vậy mới không còn sợ sự phản biện của sự
thật.
Tuy
với một sự phân tích còn hạn chế, mà không ngờ một tập biên khảo nhỏ, được viết
ra từ một gợi hứng của mấy người bạn mời, mà nó đã được đón nhận như một bông
hoa lạ mà những trí thức đang bị ức chế về mặt tư duy, đã mong đợi từ lâu.
Cuốn
sách được xuất bản dễ dàng và đạt kết quả tốt. Chỉ trong ba tháng, người ta đã
phải cho tái bản vì độc giả tìm mua quá đông, mà sách không còn để bán.
Vì
có những lời bình bàn vui mừng quả trớn, coi tập sách này như là một sự bùng
phát của một tâm thức bị dồn nén đang muốn vùng dậy. Dư luận coi đó là lời tố
cáo, gần như công khai, nguồn gốc của một chế độ đã có quá nhiều thủ đoạn kìm
kẹp, bắt ép con người phải sùng bái học thuyết, sùng bái lãnh đạo… và cứ phải
bưng bít sự thật, phải dối trá nguỵ biện trong lý luận để củng cố địa vị và để
chạy tội!
Trước
những lời bình bàn bốc đồng như thế, Thảo lo ngại vì thấy có thể gặp phản ứng
nguy hiểm, nên đã cố ý sửa lại cuốn sách trước khi cho tái bản, bằng cách đưa
chương mở đầu, nói về tệ nạn quy oan, tệ nạn sùng bái, vào bên trong, thành
chương tám ở cuối cuốn sách, cho nó bớt va chạm vào sự kiêu căng, tự ái của mấy
ông “bảo hoàng hơn vua”, của mấy ông “quan cách mạng” trong các ban cục “tuyên
giáo”, “bảo vệ” và “tuyên huấn”, “tư tưởng Trung ương”… Rồi ở phần cuối thì
tăng thêm vài trang nói về hiện tượng giáo điều cực đoan của chế độ Pol Pot.
Nhưng
kẹt cho thành uỷ Sài gòn là có lệnh từ Hà Nội, yêu cầu thu hồi cuốn sách và từ
nay cấm phổ biến nó. Chờ cho vài tuần qua đi, thành uỷ báo cáo ra Hà Nội rằng
“Rất tiếc không thi hành lệnh thu hồi được, vì cuốn sách, cả ở lần tái bản, nay
đã bán hết ra ngoài”!
Nhờ
lần tái bản này với số lượng in ra nhiều hơn nên dễ mua hơn. Hậu quả là số trí
thức tới lui khách sạn Bến Nghé tiếp xúc với Thảo trở nên tấp nập. Công an khu
vực khách sạn được lệnh phải nhập cuộc bằng cách lập danh sách những ai hay tới
thăm tác giả cuốn sách ấy. Nhưng số người tới thăm Thảo cứ tăng vọt lên khi có
tin cuốn sách đã bị cấm. Để chấm dứt sự chiếu cố quá lộ liễu của giới trí thức
và giới cựu kháng chiến của miền Nam, thành uỷ ra lệnh thay đổi chỗ ở của Thảo.
Những
người bạn mới thường ưa tới bàn chuyện chính trị với Thảo đã bị cụt hứng khi
tới khách sạn Bến Nghé thì được nhân viên khách sạn trả lời:
-
Đồng chí ấy đã trở về Hà Nội rồi!
Sự
thật là Thảo đã được cấp cho một căn nhà nhỏ ở đường Đề Thám chứ không phải là
đã bị đưa về lại Hà Nội.
Nhưng
rồi người ta cũng khám phá ra địa chỉ mới của Thảo. Lần này thì có nhiều trí
thức của chế độ cũ tới làm quen với Thảo.
Trong
cơn sốt chạy theo xu thế “đổi mới” ấy là cả một phong trào bung ra làm kinh tế
“chui” của các đảng viên.
Và
một hôm, Thảo bỗng phải chứng kiến một sự thật tàn nhẫn vô cùng đau đớn. Đang
lúc rảo bước trên một hẻm gần đường Cô Bắc, cách nơi ở của Thảo chừng năm chục
mét, thì thấy mấy người qua đường cản lại và nói:
-
Đừng đi quá đấy, có thẳng thương binh nó đang xin đểu đấy! Quay lại đi! Nó hung
dữ lắm đấy!
Thảo
chột dạ, tính quay lại vì chưa hiểu có chuyện gì nguy hiểm ở phía trước. Nhưng
nhìn kỹ phía trước mặt, tuy hởi xa, là một hình dáng khá quen: ai như là Long!
Đúng là Long, người bộ đội trẻ lái xe quân sự, đã đưa Thảo từ Nam Ninh về Việt
Nam. Và sau đã trở nên thân thiết ở ATK, Long thường gọi Thảo bằng “bọ Thảo”!
Nay thì Long ăn mặc lôi thôi, vóc dáng tiều tuỵ, tay cầm một cái ống tiêm
(chích), đang đi tới với nét mặt hung dữ.
Thảo
gọi lớn:
-
Long! Long! Thảo đây!
Long
giật minh ngưng lại, tính quay đầu chạy, nhưng Thảo đã chạy lại quá gần! Long
vừa vứt vội cái ống chích xuống đất thì Thảo đã tới ôm chầm lấy Long:
-
Làm sao mà xanh xao, vàng vọt thế này, hả Long? Làm sao mà ra nông nỗi này?
Long
ôm lấy Thảo và oà khóc:
-
Bô Thảo ơi! Đời con tàn rồi! Con bị sốt rét mãn tính quá nặng, nên đã bị cho rã
ngũ ở trong này! Sống túng quẫn quá nên tụi lính rã ngũ như con phải đi ăn xin!
Hu! Hu! Hu!
Thảo
cũng không cầm được nước mắt, kéo Long về nhà ngay gần đó, Thảo nói:
-
Thôi bây giờ gặp nhau đây thì ở lại đây. Tôi cũng chỉ sống có một mình, nhưng
được thành uỷ Sài Gòn chu cấp nên cũng đủ sống. Bây giờ Long cứ coi tôi như chú
Đa của Long, cứ coi căn nhà bé nhỏ này là của Long, của chúng ta nhé!
Long
lấy lại bình tĩnh, vừa kể lể vừa khóc xụt xịt, về cảnh khổ của đám thương bệnh
binh bị rã ngũ… Rồi lấy tay áo rách lau mặt, ngồi im lặng hồi lầu, bỗng đứng
dậy, lại gần Thảo. Thảo lục lọi trong túi quần có mấy chục đồng đưa cả cho
Long:
-
Đây có chút này biếu Long cầm lấy mà tiêu…
Long
cảm thấy tủi thân, xấu hổ quá nên gạt đi và nói:
-
Bọ Thảo ơi, ốm đau như thế này thì cứ giữ lấy mà sống, con xoay sở được mà!
Thôi bây giờ biết nhà rồi lúc khác con sẽ trở lại thăm bọ!
Nói
rồi bước vội ra ngoài, chạy thẳng một mạch như sợ bị Thảo đuổi theo!
Thảo
bước ra ngoài, nhìn theo, thì Long đã chạy quá xa. Bước trở vào, Thảo cũng ôm
mặt ngồi khóc, miệng lẩm bẩm:
-
Tại sao lại có thể có nông nỗi này? Tại sao? Tại sao?
Cả
những ngày sau đó, cũng không thấy Long trở lại. Thảo cứ như người mất tinh
thần, cứ lẩm bẩm nói một minh. Cũng may là sau đó có nhiều người xa lạ tới thăm
để bàn chuyện tình hình đất nước, khiến Thảo phải bậu tâm vào những suy nghĩ
khác.
Tới
với Thảo giờ đây, là cánh kháng chiến cũ của miền Nam, từng bị gạt ra bên lề
chính trường ngay sau ngày chiến thắng. Giới này bao gồm hai thành phần: thành
phần có uy thế văn chương, văn hoá, có bằng cấp, đã được dùng như đồ trang trí
trong Phong trào hoà bình, hoà giải dân tộc và trong Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam, nay thì họ lên tiếng phê bình “đảng” một cách ngậm ngùi cay
đắng vì bị lâm vào cảnh “vắt chanh bỏ vỏ”. Còn thành phần “đảng” viên, gốc miền
Nam chính cống, thuộc lực lượng vũ trang, từng trực tiếp đóng góp xương máu cho
sự nghiệp thống nhất, thì nay phẫn nộ ra mặt, để phản kháng chính sách phản bội
anh em, đồng chí miền Nam của “đảng”.
Cả
hai thành phần này tìm thấy ở Thảo một nhả phân tích tình hình chính trị sắc
bén, với những dự báo khả tín. Những gì Thảo đã phê phán và lo ngại, thì rồi nó
cứ tiếp tục xảy ra, rất rõ nét, thật bi đát, thật kinh hoàng.
Thảo
giải thích và nhấn mạnh:
-
Để phục hồi sản xuất, sau những đợt cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế ở miền
Nam thất bại, đã đưa đất nước tới tình trạng kiệt quệ hoàn toàn, nên nay đành
phải ngả theo khối tư bản, phải dựa vào vốn tư bản nước ngoài, để phát triển
“theo hướng kinh tế thị trường”. Do vậy mà trước tiên là phải phá bỏ những nút
thắt đã có trong kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cái đang có và đáng tự hào là một
cuộc cách mạng mới về mặt chính trị và xã hội. Cái thứ nhì đáng hãnh diện là cả
một đất nước thiên nhiên, còn đầy tài nguyên chưa khai thác. Nay đứng trước xu
hướng đổi mới kinh tế, ngả theo khối tư bản, thì nền tảng chính sách cách mạng
kiểu cũ phải dẹp bỏ hoàn toàn. Nhưng nay ta đang đứng trước nguy cơ thiên nhiên
đang bị tàn phá, vì những phát triển quá trớn… quá bừa bãi!
Giới
kháng chiến cũ của miền Nam hỏi Thảo:
-
Anh nhận định ra sao về tương lai của những người kháng chiến cũ như chúng tôi?
-
Dĩ nhiên là người ta đã và sẽ dứt khoát dẹp các anh qua bên lề, vì nay sẽ không
còn là thời kỳ cách mạng nữa, mà là thời kỳ “đổi mới” với khẩu hiệu chính thức
“đổi mới hay là chết”! Nay là phải thay đổi, bãi bỏ một số điều kiện để “đảng
và chế độ” trụ lại được, sau khi đã cơ bản thất bại vì bế tắc cả về chính trị
lẫn kinh tế trong giai đoạn kiêu binh ấu trĩ, hung hăng thừa thẳng tiến lên chế
độ “Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa”! Từ sau 1976 cho tới 1985, tức là nay “ta” đã
phải đau đớn dứt khoát bỏ hết các nguyên tắc quản lý xã hội chủ nghĩa đã quá
lỗi thời, theo một lập trường mới, phương pháp mới, là ngả hẳn theo khối kinh
tế tư bản, là nơi duy nhất có dư tiềm lực giúp đất nước ta đứng dậy. Và do vậy,
các anh là người của thời cũ, nên nay bị đẩy ra bên lề!
-
Thế thì chính sách “đổi mới” này là tốt hay xấu?
Thảo
lại phải giải thích thêm:
-
“Đổi mới” trước hết là sự thú nhận một số chính sách cũ về kinh tế sản xuất và
tổ chức xã hội là sai trái, nay phải dứt khoát dẹp bỏ. Như vậy là một điều tốt,
vì nó hợp với thực tại đã thấy được rất rõ ở miền Nam này. Vì dù bị trói tay,
dân miền Nam vẫn cố sản xuất chui để sống còn. Nay chỉ có cởi trói cho dân được
bung ra tự do sản xuất thì mới thoát khỏi cuộc khủng hoảng vì quá đói khổ,
thiếu thốn này. Nhưng do điều kiện kiệt quệ về vốn liếng và về chuyên môn kỹ
thuật, nên đổi mới đòi phải hoàn toàn dựa vào khối tư bản đứng đầu là Mỹ. Vì
khối xã hội chủ nghĩa nay đã hoàn toàn kiệt quệ, bị bế tắc cả về kinh tế; lẫn
chính trị. Chỉ còn lối thoát là dựa hẳn vào khối tư bản, chắc chắn là sẽ sớm
thoái ra khỏi nghèo nàn, tụt hậu về kinh tế. Vì một khi tư bản nó đổ vốn vào,
thì nó sẽ ồ ạt xây dựng và phát triển cơ sở sản xuất hàng hoá, cơ sở du lịch…
đế phục vụ cho thế giới tư bản. Kết quả sẽ thấy ngay trước mắt: dân có công ăn
việc làm, sẽ có hàng hoá để tiêu dùng và xuất khẩu, du lịch sẽ phát triển… nền
kinh tế sẽ đạt lợi nhuận nhanh và cao. Du khách và vốn khối tư bản sẽ tràn vào
như nước, làm cho xã hội sẽ phải lột xác để phục vụ những thế lực có dư tiền
bạc của khối tư bản…
Tóm
lại là đổi mới như vậy, đất nước sẽ trở thành một mắt xích kinh tế của khối tư
bản. Nhưng đi với tư bản, tức là đi với đồng đô-la Mỹ, mà không có tự do dân
chủ, thì chỉ có đường làm đầy tớ cho nó thôi. Bởi chỉ có sức mạnh của tự do dân
chủ, tức là khi dân có quyền phản đối, có quyền đảo thải, bằng lá phiếu, một
chính quyền thối nát bị dân chán ghét, thì mới cản lại được những bước phát
triển phá phách quá trớn do sức ép của đồng vốn tư bản! Còn ở ta vì không có tự
do dân chủ, nên bọn tư bản sẽ cấu kết, mua chuộc chuyên chính, để lũng đoạn,
thao túng kinh tế. Do vậy, trong thực tế, vì thiếu vắng dân chủ, nên Việt Nam
sớm muộn thì sẽ trở thành “một thuộc địa kiểu mới” của khối tư bản. Những ai
nằm trong sự vân hành của nền kinh tế tư bản này sẽ giàu lên nhanh chóng, vì
chủ nghĩa tư bản có nguyên tắc “vỗ bò cho béo, rồi mới vắt sữa”. Tham nhũng sẽ
là con bò được vỗ béo rất nhanh! Các anh tuy đã bị loại ra khỏi chính quyền,
nhưng nay phải ý thức về một nghĩa vụ mới; Đó là cùng với nhân dân, các anh
phải đứng ra ngăn cản những bước phát triển quá trớn của một chính quyền nhắm
mắt chạy theo đồng đô-la Mỹ, đo thế lực tư bản man rợ giật giây. Chính sách
“đổi mới” này chỉ là một thứ xét lại về kinh tế, sau thất bại về mặt này. Đổi
mới thực ra chỉ là về mặt sản xuất kinh tế, còn về mặt chính trị, thì vẫn dùng
khuôn phép cũ, nhưng vận hành theo một cách chú trọng tới đồng tiền, tới lợi
nhuận… Đây là thời kỳ bùng phát của tham nhũng… vì là một thứ bình mới, vỏ mới
nhưng trong vẫn là thứ rượu cũ! Tức là trong chính trị thì vẫn là cai trị độc
đoán theo kiểu xã hội chủ nghĩa, nhưng về mặt kinh tế thì buông thả để cho tư
bản nước ngoài tung hoành, lũng đoạn. Vì tư bản nước ngoài sẽ là nguồn lực
chính giúp “đảng” và chế độ sống còn…
Khi
tư bản phát triển, người ta nhận ra là không còn sợ bị chia thiếu công bằng, mà
chỉ sợ mọi người không có tiền dư dả để mà mua! Muốn vậy thì phải cố sức sản
xuất và nhập khẩu hàng hoá đến mức dư thừa! Đây là một nguy cơ để cho tư bản
man rợ đào sâu vực thẳm chia cách giàu và nghèo trong xã hội, đưa sản xuất và
thị trường vào chu kỳ luẩn quẩn: sau phát triển thịnh vượng giả tạo hàng hoá
tràn đầy nhưng dân không có tiền mua, tình trạng này đưa tới nạn lạm phát, tới
nạn suy thoái kinh té vì hàng hoá ế ẩm, sản xuất phải đỉnh lại, gây ra thất
nghiệp rồi sinh ra khủng hoảng xã hội… Nếu không đề ra một chính sách tự chủ,
bảo vệ chủ quyền, bảo đảm một sự phát triển hài hoà và đồng bộ, bảo vệ giới lao
động, thì nguy cơ lạm phát, bội chi, thất nghiệp, bất công xã hội, chênh lệch
giàu nghèo sẽ ngày càng trầm trọng! Tư bản thế giới càng đổ vốn vào đầu tư, thì
chúng sẽ càng làm chủ nền kinh tế nước ta, chúng càng ra sức thao túng phát
triển bừa bãi, thì xã hội càng mất trật tự kỷ cương, môi trường thiên nhiên
càng bị tàn phá gây mất cân bằng sinh thái… Đất nước ta sẽ trở thành cơ xưởng
sản xuất, cơ sở du lịch của khối tư bản. Dân tộc ta sẽ là kẻ làm công, làm đĩ
để phục vụ chúng… Chúng sẽ ra lệnh phả rừng này để xây nhà máy, phá bãi biển
kia làm khu du lịch, phá ruộng này làm sân “gôn”, phá khu nhà kia để xây sòng
bạc, khu giải trí… Chủng sẽ bảo ta cần rất nhiều thứ phồn vinh giả tạo chạy
theo nhu cầu giả tạo như điện hạt nhân, như xe lửa cao tốc, như khách sạn năm
sao… nghĩa là ta phải cần tất cả những nhu cầu giả để phục vụ thành phần giàu
có như thường thấy trong khối tư bản. Những nơi đã phát triển hoành tráng, lộng
lẫy, thì dân nghẻo sẽ bị đuổi đi, bị cấm lui tới đó. Đấy sẽ là chế độ của bọn
nhà giàu, chứ không còn gì là xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nông nữa!
Bọn
tư bản sẽ không bao giờ biết ngưng tham lam. Mọi sự phát triển đều sẽ bị đẩy
tới mức quá trớn: đã xây cất thì phải xây cất nhiều hơn nữa. Đã nhiều hàng hoá
thì sẽ phải sản xuất thêm nhiều và đa dạng hơn nữa. Đã cạnh tranh thì không
khoan nhượng. Và một khi vốn tư bản đổ vào, kinh tế tư bản đã bao trùm, lợi
nhuận tăng vọt, thì bọn tư bản sẽ đòi phải mở của rộng hơn; phải sủa lại luật
lệ để chiều theo yêu cầu của chúng một cách triệt để hơn, lộng hành hơn. Nền
kinh tế quốc gia sẽ bị cuốn hút vào những chu kỳ khủng hoảng liên tiếp, cứ tăng
rồi giảm, giảm rồi lại tăng. Lúc kinh tế tăng trưởng thì bọn nhà giàu hưởng
lợi. Khi kinh tế giảm thì chủng sẽ sa thải công nhân. Chung quy là giai cấp
công nông sẽ luôn luôn bị thiệt thời, vì là giới phải trả giá cho những cuộc
khủng hoảng.
Nguy
cơ kinh tế thường xuyên bị lũng đoạn cũng sẽ nặng nề hơn. Một nền kinh tế dựa
trên vốn nước ngoài và thị trường nước ngoài thì đương nhiên đất nước ta là con
bò đang được vỗ béo, đang bị vắt sữa, nghĩa là càng phát triển như thế, dân lao
động càng bị bóc lột, thiên nhiên càng bị tàn phá nhiều hơn. Chủ quyền của ta
sẽ teo đi! Hướng đấu tranh tới đây của trí thức các anh là sẽ phải ra sức chống
lại một chính quyền tham nhũng với những bước phát triển vô tổ chức và quá trớn
ấy. Phát triển quá trớn ấy, ngoài sự tàn phá cân bằng sinh thái của thiên
nhiên, nó còn là nguy cơ phá hoại mọi truyền thống, mọi nghĩa vụ, làm mất bản
sắc dân tộc, cơ bản là sẽ mất tinh thần tự chủ…Nếu không bảo vệ chủ quyền,
chống sự phát triển quá trớn thì dân ta sẽ sống như kẻ làm mướn cho ngoại bang
và phải sống nhờ trên chính đất nước của mình! Vì lúc đó các khu chế xuất lớn,
các khu du lịch sang trọng, các hệ thống công nghệ tiên tiến, hiện đại là do
vốn tư bản nước ngoài và tham nhũng làm chủ, sẽ ưu tiên phục vụ cho tham nhũng
và thế giới đại tư bản! Các anh nên nêu vấn đề luật lệ bảo đảm các nghĩa, vụ
phục vụ dân chúng, bảo vệ dân lao động.
-
Giờ đây là những vấn đề bảo vệ chủ quyền của quốc gia, đòi thêm quyền lợi cho
công nhân trong các xí nghiệp do nước ngoài thao túng, đòi kiểm soát, bằng một
đạo luật, để minh bạch hoá sự phân chia lợi nhuận kinh tế cho công bằng, nghĩa
là để một mức lợi nhuận quan trọng dành cho phục lợi của nhân dân lao động, cho
những ai đang sống trong một xã hội tư bản do đồng tiền chi phối, ít ra là đòi
cho được một nền giáo dục và y tế mang tính nghĩa vụ, tức là được miễn phí.
Thật không có sự bất công xã hội nào bằng tình trạng lợi nhuận trong cả nước
tăng lên vòn vọt, mà dân ốm đau không có tiền đi chữa bệnh! Con trẻ đang tuổi
học hành nhưng không có tiền đóng học phỉ! So với thời chế độ cũ của miền Nam
trước đây thì thật là một sự thua kém rất xa! Thật là vô lý và nhục nhã, khi ta
nói là đã giải phóng miền Nam, mà nay đưa miền Nam tới tình trạng con người bị
nô lệ vào đồng tiền hơn trước! Không tiền là ốm đau không thuốc men, không tiền
là con em không được học hành! Giải phóng miền Nam là như vậy sao? Sự thật là
miền Bắc đã mang cái chuyên chính, cái đói nghèo vào cho xã hội miền Nam! Và
rồi nếp sống văn minh văn hoá cởi mở ấm no của miền Nam đã tràn ra giải phóng
ngược lại miền Bắc, lôi miền Bắc ra khỏi lối sống hủ lậu “tự túc tự cường” cứ
ngoan cố tự hảo về thành tích bưng bít chính trị, về hạn chể tiêu dùng! Nay thì
miền Bắc cũng được bung ra tự do làm ăn… theo gương miền Nam. Nhưng trong cái
đà bung ra làm kinh tế ấy, tham những đã phát triển tối đa, không gì ngăn chặn
được!
-
Thế nên nay phải đòi kiểm soát thật chặt chẽ các nguồn lợi nhuận đến từ tham
nhũng. Mọi chi tiêu dùng “vốn chết”, như xây nhà cửa quá khang trang, mua xe cộ
lớn, chi tiêu xa xỉ v.v… sẽ phải bị kiểm soát nguồn gốc hợp pháp, sẽ bị đán
thuế thật cao để bù đắp vào sự thiệt thòi của nhân dân lao động. Phải đòi truy
gốc hợp pháp của các món tiền tiêu xài xá xỉ đó, để cho bọn tham nhũng lộ mặt,
để kiểm soát các nguồn thu nhập gian lận của chúng, để thu lại tài sản tham
những dùng nó làm quỹ phục vụ phúc lợi miên phí cho nhân dân. Phải tranh đấu
đòi và bảo đảm phần lớn lợi nhuận là dành cho phúc lợi của toàn dân. Phải hoàn
thành cả một hệ thống kiểm soát, cấm cản, truy thu có tính hồi tố tất cả tài
sản có gốc tham nhũng. Đặc biệt là phải cho phép thành lập công đoàn tự do đề
bảo vệ công nhân, phải đòi có tự do báo chí để phanh phui bằng hết và kịp thời
mọi hành vi tham nhũng đã qua, hiện tại và trong tương lai. Phải chấm dứt cảnh
độc quyền cai trị và độc quyền kinh tế. Vì tư bản mà làm chủ nhà nước, thì nó
sẽ làm chủ mỗi người chúng ta qua sự cai trị chuyên quyền! Tương lai của chúng
ta đang lâm nguy! Vì nguy cơ trước mắt là bao nhiêu quyền dân chủ tối thiểu cần
thiết ở ta sẽ bị xoá bỏ! Ưu tiên là phải đòi cho dân được tự do ứng cử và tự do
bầu cử trực tiếp bằng lá phiếu của dân. Đó là hướng tranh đấu mà chúng ta phải
theo đuổi để có một nền độc lập thật sự; để cho dân ta, bằng là phiếu tự do,
thật sự làm chủ nước ta! Có như vậy thì khồi tư bản mới kính trọng ta, không
thao túng được ta vả không nô lệ hoá được ta.
Nghe
bác Thảo trình bầy và hô hào như vậy, nhiều trí thức trẻ miền Nam nay như đã
thêm tự tin đã nhìn thấy còn quá nhiều công việc phải làm. Và có nhiều người vì
có niềm tin mạnh mẽ, nên đã vén tay áo, đúng dậy nhận trách nhiệm… để công khai
tranh đấu minh bạch như những nhà dân chủ, và dù một số người đã bị trù dập,
giam giữ, nhưng họ không còn sợ nữa!
Những
lý luận như những lời tiên tri của Thảo đã chính phục được nhiều trí thức chẳng
những của miền Nam, mà của cả nước!
Vì
vậy, công an phường Cô Bắc đã được lệnh phải theo dõi chặt chẽ hơn, phải lập hồ
sơ lý lịch những ai lui tới với Thảo. Cuối cùng Thành uỷ Sài Gòn đành phải báo
cáo lên Trung ương, về một “nguy cơ chính trị đang hình thành”, do số người
“phức tạp” đến gặp Thảo ngày càng đông! Có lúc họ đã ngủ lại trong nhà Thảo!
Bản báo cáo này đi vòng vo rồi cũng tới tay… Sông Trường, với lời báo động của
các ban tư tưởng văn hoá!
Rồi
một hôm, trời tuy nắng nhưng do cuối năm nên không nóng mấy, Sông Trường tới
thăm, làm Thảo ngạc nhiên!
-
Đã lâu quá không gặp anh, nên hôm nay rảnh rỗi, tôi tới thăm anh. Sức khỏe của
anh độ này thế nào? Sao trông anh có vẻ hơi vàng vọt, bệnh gan của anh ra sao
rồi, có thuốc men đầy đủ không? Ánh có cần gì không?
-
Cảm ơn anh đã có lòng tới thăm tôi! Mà sao hôm nay anh lại chú ý tới sức khoẻ
của tôi vậy? Sự thật là chưa bao giờ tôi cảm thấy khỏe như lúc này. Nhưng anh
tới là có chuyện gì vậy anh? Giữa anh và tôi, có lẽ chúng ta nên cứ thẳng thắn
với nhau đi. Có phải là tại có nhiều người lạ đến thăm tôi phải không? Tôi cũng
thấy bị mất thời giờ với họ. Nhưng họ là những người tâm huyết của miền Nam,
thấy họ tỏ ra rất trăn trở về tình hình đất nước như tôi, nến tôi không thể xua
đuổi họ.
-
Họ trăn trở về điều gì? Có phải họ than thở với anh về tình trạng các cán bộ
miền Bắc vào đây quá đông nên đã chiếm chỗ làm của họ không?
-
Không phải vậy. Đấy là điều lần đầu tiên tôi được anh cho biết có tình trạng
đó. Họ tới với tôi là để bàn về hiện tượng hủ hoá tràn lan của các cấp cán bộ
cách mạng của ta ở trong này. Đại khái họ nêu ra những cách thức làm giàu, vơ
vét của cải quá lộ liễu của các cán bộ cấp cao cũng như cấp thấp, ở khắp mọi
nơi… Họ dùng quyền lực xin nhà, cấp nhà đất cho họ hàng, gia đình, thậm chí cho
cả bạn bè hay người bên ngoài “đảng” nữa, để cấu kết với nhau, kinh doanh bất
hợp pháp đất đai rất trắng trợn. Xin nhà rồi thì đòi hợp thức hoá. Hợp thức hoá
xong là mang bán cho tư nhân, rổí xin đổi đi tỉnh khác, lại xin cấp nhà vì lý
do chưa có. Cứ như vậy, con cháu họ bị thuyên chuyển đi nhiều tỉnh làm việc là
cuối cùng họ giàu lên quá nhanh. Còn xin đất để phát triển công nghiệp, nhưng
vừa được cấp xong là bị xẻ nhỏ ra để nhượng lại cho dân xây nhà ở. Có nơi vùng
ven biển thì nhắm mắt cho phép ké gian lập bãi đáp cho dân đi chui di tản ra
nước ngoài: chúng thu mỗi đầu người ra đi như vậy là từ năm tới mười mấy “cây”
vàng! Anh thử tính coi từ bao nhiêu: năm nay, có cả mấy trăm ngàn người đã bằng
lòng “mua bãi” để được đi chui an toàn, và chứng đã thu được hàng mấy tỷ đô-la
Mỹ, tôi nghe họ tính toán mà kinh hãi quá. Hôm nọ cả hai anh Trần Bạch Đẳng vả
Trần Văn Giàu tới thăm tôi, hai anh ấy than là “đảng” và chế độ ta bị tai tiếng
nhiều là do cánh tư tưởng văn hoá và cánh công an: cả hai cánh ấy đều quen thói
vu khống, chụp mũ, chế tạo bằng chứng giả, sử dụng côn đồ, rồi toa dập với toà
án tạo ra những án oan… để đánh trí thức và làm tiền bọn nhà giàu, bịt miệng
giới tranh đấu đòi các quyền dân chủ… Nhà nước mà làm ăn thám lam, đầy thủ đoạn
lộ liễu như thế thì còn gì là chính nghĩa, là công lý nữa! Dân làm sao kính
trọng một “đảng”, một nhà nước đầy thủ đoạn và thối nát như thế! Hai anh ấy hỏi
tôi làm sao chấm dứt tình trạng này? Anh có biết gì về những tệ nạn ấy không?
-
Tôi biết chứ! Đui mù cũng phải thấy chứ! Nhưng nay tệ nạn cán bộ “biến chất”
tràn lan ra đều khắp, dẹp hết không nổi, mà dẹp hết thì sẽ không còn cán bộ mà
sai khiến. Khó khăn, nan giải lắm, chứ không dễ thanh toán đâu.
-
Thế anh có biết tại sao hiện nay cánh văn hoá tư tưởng, cánh công an cứ tự do
thao túng, và tệ nạn làm giàu bất hợp pháp lại trắng trợn và tràn lan như vậy
không? Theo tôi thì lỗi là do chính quyền cứ bưng bít, không dám công khai hoá
những vụ việc bất lương ấy ra trước ảnh sáng dư luận. Nên bọn chúng cứ hoành
hành như là vẫn được bóng tối che giấu, ít ai biết đến tội lỗi của chúng. Nhưng
nhân dân đã thấy hết. Nếu cho báo chí của ta tự do khui các vụ ấy ra, thì tham
những sẽ phải chùn tay. Trước sau gì, muốn thắng tụi nó là phải có tự do báo
chí! Tự do báo chí là để ánh sáng soi rọi vào những nơi có sai trái, tội lỗi!
-
Không được! Không được đâu! Vì có tự do báo chí là sẽ loạn ngay; Tụi thù địch
sẽ nhảy vào lợi dụng. Chúng sẽ quậy nát chế độ ta ngay. Vì chỗ nào mà chẳng có
tham nhũng. Chúng nó sẽ dùng tự do báo chí để đẩy mạnh diễn biến hoà bình là ta
sẽ sụp đổ y như ở Liên Xô trước đây thôi. Cái gì chứ, tự do báo chí là tuyệt
đối không thể được đâu.
-
Tôi: thấy sự sụp đổ ở Liên Xô là không phải do có tự do báo chí. Vì lúc đó phần
lớn báo chí ở khắp nơi vẫn ở trong tay “đảng” cơ mà! Sự sụp đổ ấy có nguyên
nhân nội tại, nó đã tới từ nội bộ hoang mang, rối loạn trong “đảng”. Từ những
sai lầm chồng chất, tích luỹ từ lâu…
-
Thôi anh đừng bận tâm về những chuyện chính trị phức tạp ấy. Nó khó giải thích
lắm! Và có lẽ là không thể giải thích được, ta nên tạm gạt nó qua một bên.
-
Vậy sự thật là anh tới thăm tôi hôm nay có mục đích gì?
-
Đúng như anh dự đoán, tôi tới anh với một mục đích rõ rệt, đã được suy nghĩ rất
kỹ. Tôi tới là để đề nghị với anh một giải pháp có lợi cho anh về mọi mặt. Tôi
yêu cầu anh không trả lời tôi ngay, mà cứ để suy nghĩ cho thật kỹ rồi hãy trả
lời.
-
Đề nghị gì mà ghê gớm thế?
-
Tôi để nghị anh nên trở qua Pháp nghỉ ngơi, tìm thuốc men chữa bệnh cho thật
khỏe rồi sau lại về đây. Lúc đó chúng ta sẽ tính với nhau một sự cộng tác triệt
để và lâu dài. Vì tới đây sẽ là thời kỳ đất nước ta phải lột xác để thành một
con rồng của châu Á, ít ra cũng có thể sánh với Đại Hàn hay Đài Loan! Anh cứ
suy nghĩ cho thật kỹ đi, tôi biết rồi thể nào anh cũng hiểu hết ý tôi, để chấp
thuận đề nghị này. Bởi vì nếu anh ở lại Sài Gòn hay trở về lại Hà Nội, thì rổi
cũng chỉ là phí phạm thời gian của anh thôi. Nêu anh ra đi thì sẽ như đại bàng
bay trở lại vùng trời cao, nó sẽ có thể thấy và làm được nhiều chuyện phi
thường, khác với lúc nó bị nhốt trong chuồng, cho dù cái chuồng ấy tốt đẹp đến
đâu, nhưng là vẫn phải sống chung với đàn gà.
-
Thật là một đề nghị quá bất ngờ đối với tôi. Như anh đã biết, trong thời gian
kể từ khi trở về nước tới nay, đã có vài lần tôi đã được mời cùng phải đoàn của
ta đi tham quan nước ngoài, và đã có lần chính người trong đoàn đề nghị để tôi
cứ âm thầm ở lại nước ngoài để mà tiếp tục nghiên cứu y như hồi còn sinh hoạt ở
Paris, nhưng tôi đã dứt khoát từ chối. Vì tôi nghĩ Thảo ngày nay y như một cây
tùng đất Việt, nó chỉ có thể mọc và phát triển cho đúng là cây tùng khi nó được
trồng ở đất Việt mà thôi. Ở nơi khác nó có thể mọc xanh hơn, xum xuê hơn, nhưng
nó sẽ không còn được vóc dáng của một cây tùng nước Việt! Bây giờ anh tính bứng
nó đi để trồng ở nơi khác à?
-
Không! Tôi nghĩ bây giờ cây tùng ấy đã tăng trưởng đủ để, dù trồng ở đâu, thì
nó sẽ vẫn có bản chất, vóc dáng, bóng mát của cây tùng. Người như anh mà cũng
sợ cây tùng trở thành cây gô tạp ở nơi khác sao? Anh cứ nghĩ cho thật kỹ đi rồi
sẽ trả lời tôi. Anh chưa chán cảnh phượng hoàng phải sống chung với đàn gà à?
Thôi tôi về và chờ câu trả lời có suy nghĩ của anh.
-
Anh không cần phải chờ! Tôi trả lời thẳng với anh là tôi không cần đi đâu cả!
Anh phải hiểu rằng khi trở về đất nước này là tôi đã bồng bột mang một giấc mơ
huy hoàng, một kỳ vọng vĩ đại là về để mang tim óc ra xây dụng một mô hình cách
mạng mà loài người mong đợi! Nhưng khi trở về quê hương rồi, thì giấc mơ ấy, kỳ
vọng ấy đã bị thực tại chỗ đạp cho đổ vỡ tan tành; Rồi mãi sau, qua những trải
nghiệm vất và, tôi mới đứng dậy được, nhờ đã định ra cho mình một nghĩa vụ
thiết thực hơn; nhờ đã tìm ra một kỳ vọng chắc chắn sẽ thành tựu, là sẽ góp ý
làm cho cuộc cách mạng này có tính nhân bản, nhân đạo hơn, cho bớt tính chuyên
chính độc đoán, tính hiếu chiến gây tai hoạ, để trở thành một nhà nước hoà
bình, dân chủ hợp lòng dân, thực sự là do dân và vì dân để mà sống còn với thời
đại và thời gian. Cho tới nay tất cả những nghiên cứu, khám phá của tôi đều là
cố sức góp ý để cách mạng sửa sai và xây dựng theo chiều hướng tốt đẹp, cho hợp
với mong muốn của dân. Vì thế tôi đã thề sẽ làm nghĩa vụ đó ở đầy cho tới hơi
thở cuối cùng! Dù tôi vẫn bị kìm kẹp, nhưng tôi quyết tâm hoàn thành sứ mệnh
ấy, vì tôi không thấy ai ở đây làm nhiệm vụ ấy! Giữa anh và tôi, có bao giờ anh
thấy tôi góp một ý nào có hại cho cách mạng, cho “đảng”, cho dân bao giờ đâu.
Anh không thấy, không hiểu thành tâm thiện chí và quyết tâm của tôi sao?
-
Tôi rất hiểu lòng nhiệt thành của anh. Chính vì thế mà tôi muốn anh ra đi.
Chúng tôi đã bố trí, đã chuẩn bị cho anh một lối thoát vừa danh dự, vừa lý
tưởng. Vì anh chưa suy nghĩ thấu đáo đấy thôi. Mai tôi sẽ trở lại, xin anh đứng
thoái thác vội vã. Anh cứ suy nghĩ và suy nghĩ thêm đi, mai sẽ trả lời tôi. Vì
tất cả đã sẵn sàng rồi! Nhất định là anh không thể lưu lại cái đất Sài Gòn này
như vậy nữa đâu. Đảng đi quyết định nhất định là anh sẽ phải ra đi thôi, không
cưỡng lại được đâu, mà thật sự là không nên cưỡng lại, vì ra đi thì sẽ có lợi
cho anh… Anh cứ suy nghĩ cho thấu để thấy rõ đề nghị thực tiễn của tôi!
Sau
khi Sông Trường ra về, Thảo suy nghĩ đến đau đầu! Tại sao lại có đề nghị này?
Đây là lại thêm một thủ đoạn để cô lập ta với những trí thức và cánh kháng
chiến miền Nam? Lỗi ở ta đã không cảnh giác, cứ tưởng vào Nam là thoát cảnh bị
kìm kẹp! Bây giờ họ muốn đẩy ta đi, mà ta từ chối không đi thì chuyện gì sẽ xảy
ra? Họ thì thiếu gì thủ đoạn! Chính Sông Trường đã chẳng nói thẳng ra là mọi sự
đã được bố trí sẵn sàng rồi là gì! Ta làm sao cưỡng lại? Mà ra đi hay ở lại, lợi
cho ai, hại cho ai? Tuổí ta đã gần đất, xa trời, còn chống trả với thời gian và
quyển lực này được bao lâu nữa? Mà chống trả để làm gì, khi ta vẫn bị phong
toả, kìm kẹp? Ta ra đi là sẽ tới chân trời rộng mở… ở lại là vẫn bị bao vây bởi
bức tường cảnh giác và nghi kỵ. Vài năm nữa ta chết đi, mang vào cõi im lặng cả
một khối lượng tư duy và bao công trình trải nghiệm… thế là rảnh nợ cho họ.
Thôi thì cũng đành mang thân xác này ra gửi xứ người… Biết đâu ở bên ngoài, ta
lại có đủ thời gian và cơ hội để dàn trải trí óc ta lên trang giấy, trong một
cuốn sách, hầu lưu lại một cái gì cho hậu thế? Thôi thì này chỉ còn lại một
giấc mộng nhỏ, một kỳ vọng thật mong manh trong một cuốn sách, trước khi ta trở
về với cát bụi!
Đêm
ấy, Thảo đã ngồi ôm đầu suy nghĩ, lâu lâu lại lấy tay gạt nước mắt. Khóc thầm
rồi lại suy nghĩ… Cứ như thế cho tới sáng. Thảo không khóc cho mình mà là khóc
cho sự nghiệp mà mình đã nguyện hiến dâng cả cuộc đời để vun trồng nó!
Nhớ
lại biết bao sáng kiến cụ thể, hợp lòng dân, để cho Cách mạng thành công huy
hoàng, cho “đảng” không còn bị tai tiếng vì gian dối, vì tội ác và thủ đoạn kém
cỏi của những cá nhân lãnh đạo hoang tưởng, để “đảng” thoát ra khỏi nanh vuốt
của bọn lưu manh bè phái, cửa quyền, để trở thành một “đảng” dân chủ trong
sáng, chân thành, vĩ đại… vậy mà “đảng” không chịu lắng nghe! Nhìn thực tại giờ
đây thê thảm quá! Mà ta nay đã già rồi! Mà tại sao lãnh đạo hiện tại lại cứ cố
ôm mãi, cứ cố bệnh vực những sai lầm, tội lỗi của quá khứ? Tại sao họ không
biết cải thiện phương pháp cai quản đất nước? Tại sao cứ như cố đợi nước lũ
tràn tới chân.
Thảo
nghĩ vậy nên lại gạt nước mắt!
Biết
bao tâm huyết, trí óc, xương máu đã đổ ra! Biết bao hi sinh gian khổ! Nay đành
để tư bản man rợ tràn vào. Cách mạng nay đã biến chất toàn diện. Toàn là cơ hội
cho tham những phát triển! Đất nước, thiên nhiên, vốn nổi tiếng rừng vàng, biển
bạc, nay đứng trước nguy cơ bị đồng tiền tư bản tràn vào tàn phá vô tội vạ!
Người tâm huyết làm sao không buồn bực. Người dân thì không có quyền ngăn cản,
phản đối!
Thảo
đau đầu suy nghĩ, lấy tay áo quệt nước mắt!
Ngẫm
lại cái sụ trở về của mình thật là bi thảm: ước mơ góp phần hoàn thành một cuộc
cách mạng lý tưởng đã sụp đổ ê chề. Cao vọng góp ý xây dựng “đảng” thành một
đảng dân chủ tiến bộ của thời đại cũng tan vỡ hoàn toàn. Bao nhiêu năm quá, sự
nghiệp triết học như thế là bế tắc, kể như tiêu tan. Nay tới lúc gần đất, xa
trời, thì lại bị tống đuổi ra đi cho rảnh mắt bè cánh bảo thủ, thối nát! Vậy là
rồi đây, thân xác này sẽ bị chôn vùi ở xứ người!
Thảo
tức tưởi quá, đau đầu quá, lại xụt xịt chấm nước mắt, rồi lại thở dài và suy
nghĩ. Trong lòng tràn ngập uất ức, phẫn nộ và tự vấn lương tâm, tự chất vấn
mình: chẳng lẽ ta không còn con đường nào để đi tới?
Bác
Thảo kể tới đó, lắc đầu nói:
-
Chung quanh tôi lúc đó cứ trách tôi là không biểt tuỳ cơ ứng biến, không biết
thích nghi, tạm thời thoả hiệp với quyền lực. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ. Tôi
không thể từ bỏ chính tôi để trở thành như đám trí thức của “đảng”, như những
bù nhìn…
Nghe
tới đó tôi buột miệng hỏi:
-
Thành thực muốn hỏi bác, bao nhiêu năm rồi, bác đã gợi ý, khuyên bảo những điều
hay, lẽ phải, mà từ lãnh đạo này cho tới lãnh đạo khác, đã chẳng có ai lắng
nghe bác. Họ chỉ coi bác như kẻ cản đường. Tại sao bác không tạm thời đồng ý
với họ, theo lập trường của họ để chờ thời cơ…
-
Không thể được! Nếu ai cũng thoả hiệp với dối trá và tội ác, thì dân còn hi
vọng vào đâu, vào ai? Không thoả hiệp với dối trá vả tội ác là nguyên tắc để
giữ vững chính mình. Một hành động, thiện hay ác, dù là thật nhỏ, dù chỉ là
nhất thời, cũng đều để lại dấu vết bền lâu trên sự nghiệp của mỗi con người.
Dối trá, độc ác, bạo lực là độc tố âm thầm huỷ hoại con người đã sử dụng nó. Xã
hội dung túng nó sẽ mất hết lương tri, mất hết trật tự kỷ cương. Nhân nhượng
hay thoả hiệp với cái xấu là con đường tự diệt từ từ chính mình. Điều ấy, Thảo
này không thể nào làm được.
-
Như vậy thì làm sao bác có thể được quyền lực cách mạng tin dùng!
-
Đành vậy chứ không thể nói khác, làm khác! Không thể đánh mất lý tường để được
tin dùng!
-
Nếu vậy thì những gì bác nói ra sẽ chẳng được lắng nghe! Như vậy till thật là
vô ích!
-
Không phải là vô ích đâu. Những lời lẽ lý giải đúng, những phân tích hơn thiệt,
đều là những hạt giống gieo vào thời gian để rồi sẽ có lúc, có chỗ cho nó bén
rễ trong những đâu óc tỉnh táo, lương thiện để tới một ngày nó sẽ ra hoa đẹp,
kết trải ngọt. Những tư tưởng đúng với lương tri, thấm nhuần thực tại đều có
sức mạnh của sự thật. Có ngày nó sẽ bung nở ra để xoá đi gian trá và bạo lực.
Trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng dậy của chân lý và lương tri. Chính vì vậy
mà chế độ gian trá và tàn ác nào rồi cũng sẽ sụp đổ. Vì với thời gian, những
lời nói dối trá, những việc làm gian ác cuối cùng sẽ chỉ sinh ra toàn hoa hôi,
trái đắng. Các anh cứ tin tôi đi, những gian trá và tội ác đã phạm hôm nay, thì
mai mốt chúng sẽ là một di sản độc hại, bị dân chúng nguyền rủa cho tới lúc nó
bị đào thải. Ngoan cố càng kéo dài thì sự đào thải, đổ vỡ càng thảm khốc. Vì
thế mà tôi kiên trì cố phân tích thực tại, để can ngăn mọi hành động xấu xa,
sai lệch, mọi chính sách sai trái gây nhiều hậu quả nghiêm trọng của hiện tại.
Đặc biệt là phải ý thức về xu hướng tha hoá của chiến tranh. Bởi làm chiến
tranh là tận dụng yếu tố gian xảo, lừa gạt, tức là đẩy đầu óc thông minh theo
con đường mưu trí, tức là lìa xa con đường trí tuệ. Chính sách trường kỳ chiến
tranh nguy hại lâu dài vì nó để lại trong xã hội, trong chính quyền thói quen
gian xảo, lưu manh, côn đồ của bạo lực. Tố cáo sự độc hại của chiến tranh không
phải là vì oán thù, không phải để trả thù, mà là để thanh toán, để giảm thiểu
những thảm hoạ mà “đảng” và lãnh đạo đã gây ra với chính sách trường kỳ chiến
tranh.
-
Cứ làm như vậy thì đời bác sẽ còn nhiều gian khổ!
-
Gian khổ cũng đành chấp nhận, không thể làm khác.
-
Như vậy là chính bác đã làm khổ bác rồi.
-
Thì đúng là nhũng chọn lựa và quyết định của tôi đa đưa tôi vào một cuộc đừi
đầy gian nan, vất vả. Nhưng tôi không thể chọn một con đường nào khác. Vì con
đường khác ấy sẽ biến tôi không còn là tôi nữa. Nếu tôi thay đổi, nếu tôi chấp
nhận đi theo con đường của thảm hoạ, là tôi đã phản bội đất nước và dân tộc.
Nói
rồi bác Thảo lại lắc đầu mỉm cười một cách cay đắng.
Đã
nhiều lần giải thích với bác rằng chúng tôi không muốn biết tận tường về những
vấn đề thuần tuý triết học của bác. Điều chúng tôi tò mò, là muốn được nghe bác
kể về hoàn cảnh sống, hoàn cảnh làm việc, về mối quan hệ với các lãnh đạo, từ
chủ tịch Hồ Chí Minh trở xuống, về cuộc hôn nhân tan vỡ, về bạn bè chí thân và
cả về những kẻ đã muốn ám hại bác….
Càng
kể, bác Thảo càng như tìm thấy hứng thú để ôn lại dĩ vãng, như để phân trần, tự
bào chữa cho chính mình. Có những buổi chiều chủ nhật mùa đông lạnh buốt, trong
một quán café yên tĩnh và ấm cúng, bác đã say sưa làm sống dậy những ngày tháng
đau thương, cho tới khi bên ngoài trời đã tối khuya, khiến chúng tôi phải chặn
lại để bác dùng chút gì nhẹ cho bữa ăn tối, trước khi đưa bác về lại căn nhà
khách của sứ quán lúc quá khuya.
Khi
rời xe chúng tôi để bước vào cân nhà số 2 phố Le Verrier, bác thường than:
-
Mỗi lần phải bước vào lại căn nhà này thì tôi cảm thấy vô cùng khổ sở. Căn
phòng gì mà chật hẹp hôi hám, đã quá lâu không ai ở, và từ lâu căn nhà này đã
chẳng được bảo trì, tẩy uế, sơn phết lại, như luật lệ ở Paris đã quy định, nay
mùi ẩm mốc nồng nặc. Đêm tắt đèn nằm xuống, gián bò ra như kiến có khi đang ngủ
bỗng giật mình tỉnh dậy vì gián bò lên thân thể làm nhột ngứa trên cổ, trên
mặt…
Khi
giãi bày những nỗi khổ tâm, bác Thảo như xả ra bớt được những nỗi niềm đã tích
tụ quá nhiều, đã dằn vặt bác quá lâu… Cởi mở tâm sự với chúng tôi như vậy là
một thứ thuốc an thần giảm bớt những ức chế, bực bội trong ỉòng… Và đấy cũng là
dịp để chúng tôi tẩm bổ cho cái thân già hom hem của bác. Bác ăn ít, nhưng rất
kén: chỉ chọn những món thật tươi, không mỡ màng, dễ tiêu. Bác kể cách tự nấu
ăn: phải là thật tinh khiết, thật giản dị, thật tươi, ăn bữa nào thì chỉ nấu
nướng cho đúng bữa ấy, không ăn thứ ôi cũ. Vả lại cũng không dư tiền, không dư
thời giờ và sức khỏe để nấu nhiều.
Tạm
trú trong căn nhà khách ấy, mỗi lần muốn chuẩn bị bữa ăn, thì phái lích kích
mang cái xoong, lọ dầu, gạo, muối xuống ba đoạn cầu thang mới tới căn bếp ở
dưới tầng hầm. Nấu xong, lại phải lau chùi bếp cho sạch sẽ, rồi lại lích kích
mang đủ thứ lên phòng ngồi ăn, nghĩa là lại leo lên ba đoạn cầu thang. Mỗi lần
qua một đoạn thang lại phải ngưng nghỉ để lấy sức leo lên tiếp. Lên tới phòng
ngủ thì phải nằm nghỉ một lát mới có thể ngồi ăn, vì leo lên hết ba đoạn cầu
thang ấy thì là thở dốc, cơn hen suyễn muốn kéo tới!
-
Thể ở trong nước thì bác có đỡ cái cảnh vất vả phải tự nấu ăn ấy không?
-
Ở trong mrớc cũng vậy, cũng phải tự nấu, mà là nấu băng củi khói cay đến chảy
nước mắt, nước mũi, đến nghẹt thở mới có được niêu cơm!
-
Ăn uống như vậy thì vất vả quá! Không mướn ai giúp bác được sao?
-
Nghèo túng quá, bữa đói, bữa no, tiền đâu mà dám nghĩ tới mướn người làm! Mướn
người để bị chúng quy cho tội bóc lột sức lao động à?
-
Thế thì thật là khổ!
-
Khổ thế mà vẫn sống như không biết khổ là gì! Ha! Ha! Ha!
-
Thế lãnh đạo có biết bác phải sống vất vả như vậy không?
-
Biết chứ sao không! Họ mỉa mai rằng đó là cách “cải tạo” Trần Đức Thảo! Để Trần
Đức Thảo “học tập nhân dân”! Càng thấy họ đè đầu, muốn bẻ gãy ý chí phản biện
của tôi, tôi căng cưỡng lại, dù biết rồi sẽ sống khổ. Nhưng tôi không sợ khổ,
tôi không sợ chết!
Nghe
tâm sự như vậy, khiến chúng tôi tò mò muốn biết thêm về cách ứng xứ của lãnh
đạo đối với bác. Tôi bèn hỏi:
-
Từ khi trở về nước, bác có một lúc nào được đãi ngộ, một thời gian nào được làm
việc gần với cụ Hồ để bản tính chuyện đất nước không?
Bác
nghiêm mặt, nhìn trừng trừng chúng tôi và đáp:
-
Anh hỏi như thế là đã có một sự ngộ nhận lớn rằng tôi được chấp thuận cho trở
về là để làm việc gần với cụ Hồ. Sự thật là việc tôi về là do sự vận động của
tôi với sự trợ giúp của đảng cộng sản Pháp. Và qua đảng cộng sản Pháp thì có cả
sự giúp đỡ của phía lãnh đạo Liên Xô nữa. Bởi lúc ấy, cả đảng cộng sản Pháp,
cũng như phía Liên Xô, đều muốn đưa tôi về với hi vọng có thể có cơ hội góp ý
với cách mạng Việt Nam. Bởi lúc ấy ai ở bên ngoài cũng đều hiểu là “cách mạng
Việt Nam” đang chịu ảnh hưởng rất nặng nề của Bắc Kinh. Thế nên khi tôi vận
động để được trở về quê hương, thì họ có tra hỏi tôi rất kỹ để tìm hiểu xem tôi
“muốn trở về để làm gì?” Tôi đã nhiều lần trả lời thật rõ là “để những hiểu
biết, những khả năng trí óc của tôi có cơ hội phục vụ cách mạng, với tinh thần
gạn lọc những lỗi lầm của quá khứ cách mạng. Tôi nhấn mạnh sẵn sàng làm bất cứ
việc gì, để trở thành có ích cho quê hương và cách mạng”. Vì thế mà cuối cùng,
các bạn bè phương tây đã giúp tôi trở về. Sau này, khi đã về rồi, thì tôi mới được
biết là “lãnh đạo” cũng đã cân nhắc, đã nghiên cứu kỹ và bàn tính khá lâu rồi
mới ngỏ ý chấp thuận đón nhận tôi trở về…
Nghe
vậy, tôi lại càng thắc mắc:
-
Nhưng từ khi về quê hương tới nay, bác đã được đãi ngộ như thế nào? Bác có được
làm việc gần cụ Hồ không?
-
Đúng là ở bên ngoài, các anh không hiểu chút nào về hoàn cảnh của tôi từ khi
trở về đến quê hương. Hỏi như vậy là không biết tí gì về hoàn cảnh của tôi
trong mấy chục năm qua, cũng như không biết gì về “ông cụ”. Nếu quan hệ, nghĩa
là có giao thiệp mật thiết, có trao đổi ý kiến với nhau một cách thẳng thắn,
thân tình… thì thực sự là tôi không có được một quan hệ nào với bất cứ lãnh đạo
nào. Không hề có một mối giao hảo thân tình nào, dù chỉ là với bất cứ một đảng
viên cấp cao nào đối với tôi. Bởi ngay từ khi vừa đặt chân trở lại quê hương,
tôi đã bị nghi ngờ là một “kẻ có vấn đề”! Trong cảnh giác cách mạng,
hoài nghi cũng đã là một khẳng định. Thế nên, gặp gỡ lãnh đạo thì chỉ là trong
hoàn cảnh diễn ra giữa một người ở cấp trên cao của “đảng”, với một kẻ đã bị
đẩy xa ra phía ngoài, bị coi là thuộc diện xấu, ở trong một hàng rào cảnh giác.
Trong guồng máy cách mạng chuyên chính, sự phân biệt đối xử rất gắt gao. Một
khi bị là đối tượng của cảnh giác thì không thể có quan hệ với ai cả. Đó là
trường hợp của tôi. Tôi chỉ còn là đối tượng của guồng máy “bảo vệ” canh chừng.
Do vậy mà cho tới nay, tôi phải ghi nhận rằng thực sự là ngay từ giây phút đầu
tiên về tới quê hương, tôi đã không hê được đãi ngộ, và cũng chẳng hề có được
một mối quan hệ với lãnh đạo nào cả.
-
Ủa! Như vậy là bác không cộng tác gì với một lãnh đạo nào cả hay sao?
-
Mặc dù tôi đã thường xuyên, cố gắng tìm cách bắc cầu quan hệ với các cấp lãnh
đạo, bằng cách gửi trực tiếp những báo cáo, đề nghị, viết những bức thư góp ý
của tôi về nhiều vấn đề quan trọng, vào nhiều thời điểm quan trọng. Nhưng không
một lần nào, không một lãnh đạo nào, từ Hồ chủ tịch trở xuống, đã thân chinh
trả lời các bức thư của tôi. Toàn là được nghe nhắn lại qua cấp thừa hành, được
nghe thuật lại những lời nhắn nhủ của lãnh đạo, như thể xoa dịu lòng bồn chồn
nhiệt thành của tôi. Đôi lúc họ cũng cho tôi gặp mặt lãnh đạo. Đấy là qua những
buổi tiếp tân tập thể, cốt để tỏ uy quyền, cốt để phô trương sự thuần phục
chung quanh lãnh đạo, để trấn áp tư tưởng “linh tinh” của tôi. Đã nhiều lần,
tôi nhận ra là lãnh đạo không hể trực tiếp đọc những bức thư, những báo cáo của
tôi, nghĩa là giữa lãnh đạo và tôi, luôn luôn có một sự gạn lọc, có một bức
tường ngăn chặn, không cho phép nảy sinh một mối liên hệ thân cận nào. Nhưng
riêng tôi biết thì “ông cụ” rất cảnh giác, rất tò mò, muốn tìm hiểu những suy
tư của tôi, tuy “ông cụ” có thái độ nghi ngại, xung khắc đối với những suy nghĩ
của tôi trước mỗi vấn đề vừa xuất hiện. Vì thế mà chưa bao giờ có sự tham khảo
chân thành, hoặc trao đổi trực tiếp về bất cứ vấn đề gì, ngoại trừ chỉ có một
lần. Để rồi tôi sẽ kể về lần gặp đó. Còn thì trong thực tế, tôi hoàn toàn bị
đẩy ra thật xa mọi sinh hoạt chính trị. Sau này, khi sức khỏe “ông cụ” suy yếu,
phải sống cô đơn, mất hết quyền lực chính trị, rồi mất, thì chính mấy cán bộ
quản lý tôi cũng không còn tới gặp tôi như khi trước nữa. Họ đẩy hẳn tôi ra bên
lề chính trị. Từ đó, dần dần từng bước, tôi phải chuyển hướng hẳn sang thái độ
nghiên cứu trong câm lặng những vấn đề chính trị của đất nước, của cách mạng,
nghĩa là của “đảng” một cách hoàn toàn độc lập. Nhất là khi tôi nhận ra tình
trạng sức khoẻ của “ông cụ” bắt đầu suy yếu, bắt đầu bị cô lập, với nhũng dấu
hiệu bị mất quyền lực chính trị, thì tối lại càng bị đạp văng ra xa mọi sinh
hoạt chính trị…
-
Như vậy là kể từ khi về nước, bác không bao giờ được gặp mặt, được sinh hoạt
trực tiếp, với cụ Hồ hay sao?
-
Gặp tận mặt thì có chứ! Nhưng gặp thân mật để trao đổi ý kiến thì kể như chưa
hề bao giờ. Thế nên gặp trực tiếp không có nghĩa là có quan hệ. Mà những lần
gặp trực tiếp ấy đều lưu lại trong tôi những kỷ niệm cay đắng, đau đớn, bi hài,
không bao giờ có thể quên được, có khi nó còn ám ảnh tôi như một tội lỗi tổ
tông đã ám hại suốt cả đời.
Ch11: Một bản án vô phương kháng cáo:
Tại sao bác cứ bị ám ảnh là đã bị ám hại như vậy?
-
Vì lãnh tụ đã có định kiến đối với tôi. Coi tôi thuộc diện đào tạo ngoài luồng,
mang ảnh hưởng của đế quốc thực dân, nên có sẵn một quan niệm phản động về cách
mạng. Vì thế mà “ông cụ” rất nghi ngại cách nhìn phê phán của tôi đối với những
việc “ông cụ” đã làm. Vậy mà “ông cụ” cũng muốn kiểm soát, không chế, đo lường
tư tưởng của tôi, đã ra lệnh trực tiếp phải quản chế chặt chẽ tôi. Lãnh đạo
muốn biết tôi nghĩ gì về từng bước đi của “Trung ương” có lẽ cũng vì vậy mà tôi
chưa bị thanh toán. Thật sự là “ông cụ” rất muốn biết rõ suy tư, lập trường của
tôi trước mỗi vấn đề… nhưng lại không ưa những suy tư thường mang tính “phản
biện” của tôi.
-
Không ưa mà cũng cho gặp mặt à?
-
Cũng vẫn cho gặp chứ. Như tôi đã kể, những lần gặp gỡ ấy càng cho tôi thấy
không thể có một quau hệ giữa lãnh đạo và tôi. Mặc dù tôi đã biết rõ chính lãnh
đạo thường xuyên theo dõi tôi. Đặc biệt và trầm trọng nhất là lần gặp đầu tiên.
Chỉ chừng non một tuần, sau khi tôi về đến an toàn khu (ATK). Lần gặp ấy đã mở
rộng con mắt, đã soi sáng đầu óc tôi một cách thật sâu xa và đầy cay đắng…
Lần
ấy, khoảng cuối năm 1952, lúc tôi đang vô cùng hoang mang thắc mắc, bực bội
trong lòng vì tôi biết là đảng đang triệu tập một hội nghị rộng rãi cấp cao
quan trọng tại Tân Trảo, ở ÀTK này, mà tôi lại không được mời tham dự. Nhưng
rồi xảy ra một vụ việc ìàm tôi cực kỳ xúc động: có lệnh truyền xuống để chuần
bị đưa Trần Đức Thảo đi chào “Bác”! Thật là hồi hộp và mừng! Tâm trí lúc ấy
tràn đầy hi vọng nên quên hẳn những dấu hiệu đang bị phân biệt đối xử!
Rồi
giờ phút của sự thật, giữa “ông cụ” và tôi, đã tới: một cán bộ đặc biệt được
phái tới. Đây là một cán bộ giao liên đã đứng tuổi, chẳng những tỏ ra am hiển
về địa hình, địa lý của vùng ATK này, mà còn rất thông thạo về lễ tân trong
“đảng”. Vì đấy là cán bộ chuyên đảm trách việc đưa, đón, hướng dẫn khách quý
của “Trung ương”! Cán bộ này trịnh trọng cho tôi biết ông ta là chuyên viên
“ban lễ tân (protocole) của bộ ngoại giao”, nghĩa là cán bộ cấp cao của Trung
ương, chuyên hướng dẫn, chuẩn bị thật kỹ những ai sẽ được đưa tới gặp “Hồ chủ
tịch”, mà cán bộ lễ tân này nói một cách kính cẩn là sẽ được hướng dẫn về một
số nghi thức phải tuân thủ khi được diện kiến “Người”!
Cán
bộ lễ tân này dặn dò từng chi tiết rất tỉ mỉ, chứng tỏ một sự tôn vinh, sùng
bái tuyệt đối:
-
Yêu cầu của ban lễ tân là đồng chí phải thận trọng trong từng cử chỉ, từng lời
nói khi gặp “Người”. Thứ nhất là cần nhớ rằng khi gặp thì phải đứng xa “Người”
ít ra là ba mét! Chỉ khi “Người” ra dấu, ra lệnh, mới được lại gần hơn. Thứ nhì
là không được tự ý nói leo, “Người” có hỏi câu gì thì mới được phép trả lời. Mà
phải trả lời đúng vào câu hỏi đó, tuyệt đối không được tự ý nói thêm, nói ra
ngoài câu hỏi. Thứ ba là không được chào trước, nói trước. Thứ tư là không được
xưng “tôi”, y như là ngang hàng với “Người”.
-
Nếu không được xưng tôi thì xưng bằng gì?
-
Đồng chí có thể xưng bằng “con”, hay bằng “cháu”, và phải gọi Người bằng “bác”
như đồng bào vẫn gọi… Những mệnh lệnh này là quan trọng, đồng chí phải ghi nhớ
cho kỹ, kẻo làm hỏng cuộc diện kiến với “Người” là tai hại lắm đấy. Không phải
ai ở đây cũng đã được tới gần để chào “Người” đâu.
Sự
chuẩn bị kỹ như vậy làm Thảo rất bồn chồn, nhất là lúc giao liên tới dẫn đi gặp
“Người”.
Lúc
đó là sáng sớm tinh sương, con đường mòn xuyên rừng, xuyên núi còn đẫm sương
đêm, chưa nhìn rõ những hiểm trở dưới chân. Đi khoảng hơn một tiếng đồng hồ
sau, trời hửng sáng, thì tới một trậm giao liên khác, cũng là trạm kiểm soát.
Vì khi ngồi chờ ở trạm này, thì thấy có hai giao liên khác dẫn hai đoàn người
vừa ở hội nghị về. Tại đây, giao liên của mỗi đoàn phải trình giấy chứng minh
thư của từng người trong đoàn, để cán bộ thường trực của trạm ghi vào sổ. Rồi
hai đoàn người, ấy mới được đi qua.
Băn
khoăn đợi ở trạm này mãi đến gần trưa, bỗng từ xa có một hồi còi tu huýt đài
tiếng, như loại tu huýt của các hướng đạo sinh, vẳng tới. Lát sau một sĩ quan
bộ đội “tiền phương”, mặc quân phục gọn gàng, vai đeo “tếp” vải, bên sườn, đeo
súng ngắn K54, đi rất nhanh tới rồi chỉ về phía Thảo hỏi gay gắt như quát, rất
hách:
-
Ai đấy? Đã nghe thấy còi báo rồi, sao lại còn có người ngồi ở đây?
Giao
liên của Thảo vội trình ra một tờ giầy, rồi nói:
-
Báo cáo đồng chỉ, tôi được lệnh đưa đồng chí này mời ở bên Tây về, tới đây chờ
để được kính chào “Bác”.
-
Đồng chí đã chuẩn bị kỹ đối tượng chưa? Đã tập huấn những quy định để gặp “Bác”
chưa?
-
Báo cáo đồng chí, tôi đã chuẩn bị, chỉ dẫn đầy đủ rồi.
Chở
khoảng mười lăm phút sau, lại một hồi còi tu huýt như tiếng sáo thật dài nữa
vẳng tới, một toán bộ đội gồm bốn người, trong quân phục y như người tiền trạm,
tay cầm súng trường Tiệp Khắc, đi tới vả nhìn ngó chung quanh, rồi nói câu gì
với người tiền trạm rồi lại đi ngay. Bây giờ thì tất cả người làm việc trong
tiền trạm phải đi ra xa. Chỉ có một giao liên cùng Thảo là được ngồi đó chờ.
Lát
sau nữa, lại một toán bộ đội đi tới gần khoảng năm mét, dừng lại, ghim súng
trường chĩa về phía trạm giao liên, sẵn sàng can thiệp… Rồi lặng lể từ trong
rừng sâu, xuất hiện một cụ già gày còm, khô khóc, lất phất chùm râu cằm, bước
chân nhanh nhẹn, quần áo bạc mầu nâu nông dân, quần xắn lên gần đầu gối, tay
cầm một khúc tre giả làm gậy, vai khoác tấm vải nhựa rộng như áo mưa màu xanh
lá cây xậm, đầu đội mũ “cát” kiểu thuộc địa bọc vải, như loại công chức Tây
thường đội, nhưng là màu xanh lá cây. Người ấy đi ngang qua, nhìn vào chòi lá
của trạm giao liên rồi cất tiếng hỏi, giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh:
-
Đồng chí nào ở trong ấy đấy?
Giao
liên của Thảo chạy ra, đứng thật, nghiêm cách khoảng ba mét, kính cẩn nói:
-
Xin báo cáo Bác, con được lệnh đưa đồng chí Thảo mới ở bên Tây mới về, tới chào
Bác!
Nói
rồi, tay ra hiệu vẫy. Thảo vội bước ra, đi gần tôi, đúng khoảng ba mét thì dừng
lại, rồi cũng đúng rất nghiêm, im lặng chờ chứ không dám chào trước. Rồi
“Người” tiến lại gần Thảo còn chừng một mét, nhìn chằm chằm vào Thảo, như lục
soát trí nhớ, tìm kiếm điều gì, rồi nói:
-
À! Chào chú Thảo! Chú về đây đã được bao lâu rồi?
Lúc
đó Thảo mới dám đáp lại:
-
Cháu xin kinh chào Bác! Cháu về đây đã được năm hôm rồi.
Người
đưa tay phải tới, hai tay Thảo vội đỡ lấy bàn tay ấy. Bàn tay “lãnh đạo” thật
nóng ấm. Thảo cúi đầu, nắm chặt bàn tay ấy một hồi, rồi ngửng mặt lên nhìn kỹ
“Người”, và nói với giọng run run vì xúc động:
-
Cháu rất vui mừng được về quê hương và được gặp Bác ở đây.
Nỏi
xong mới buông bàn kia tay ra, nhưng vẫn đúng nghiêm và cố nhìn thêm cho kỹ
khuôn mặt xương xương, khắc khổ, con mắt tinh anh, sắc bén, cũng đang chăm chú
nhìn Thảo. Cái nhìn thật soi mói. Hai bên nhìn thẳng vào mặt nhau giây lát,
Thảo bỗng rùng mình, cảm thấy như bị một luồng khi lạnh truyền khắp thân thể,
nên hơi run.
Rồi
hơi ngầu ngừ, Người nói, với vẻ mặt thật nghiêm:
-
À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở, nhưng bây giờ về
đây thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không! Thôi bác có hẹn nên phải
đi kẻo trễ.
-
Vâng, cháu xin tuân lời bác. Và cháu xin chào… Bác!
Nhưng
“Người” đã quay mặt, rảo bước thật nhanh, đi ngay, không chú ý tới lời chào của
Thảo. Cả đoàn tuỳ tùng, từ nãy đứng tạo thành vòng tròn ở xa chung quanh, cũng
vội vã đi như chạy theo.
Kể
tỉ mỉ tới đó rồi bác Thảo tâm sự:
-
Trên đường trở về, đầu óc tôi bị xúc động mạnh, cứ bối rối. Vì cuộc gặp gỡ chớp
nhoáng, quá ngắn ngủi vừa rồi, không còn để ý tới cảnh vật chung quanh. Đi bộ
xuyên rừng núi trở về tới “nhà” thì đã gần tối. Giao liên phải ngủ lại đó, để
sáng mai cuốc bộ trở lại trạm gốc.
Riêng
Thảo thì vẫn liên miên nghĩ ngợi, phân vân, cố ôn lại xem mình đã có cảm giác
như thế nào khi đã gặp “Người”! Mà tại sao “Bác” đã dặn đò minh một câu như
thế?
-
Đêm ấy nằm mà cứ trăn trở, cứ chợp ngủ, rồi chợt thức, chợp mắt một lúc là đầy
mộng mị kéo tới. Lúc tỉnh dậy mà vẫn còn bàng hoàng, toát mồ hôi. Sáng ra, tôi
cố ổn định tâm thần, lấy lại bình tĩnh để suy nghĩ tìm hiểu về cuộc gặp gỡ vừa
qua. Dĩ nhiên là “người” đã biết trước, đã cho phép, đã chấp nhận cho gặp, chứ
không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ.
Hai
thắc mắc chính cứ dằn vặt trong đầu: Sự gặp mặt ngắn ngủi như vậy là có ý nghĩa
gì? “Người” là thế nào? Sao mọi người bắt phái kính cẩn gọi “người” là “bác”?
Sao “bác” lại nói với mình câu ấy? Nó có nghĩa gì? Thảo nhớ lại lúc “bác” im
lặng chằm chằm nhìn mình, có lẽ “bác” lục lọi trí nhớ xem kẻ đứng trước mặt là
người như thế nào, để suy nghĩ xem cần phải nói gì với nó. Sau chỉ ba mươi
giây, mà sao như quá dài. Thảo không thể quên cái cảm giác thấy ớn lạnh, như
chịu không thấu cái nhìn soi thấu tâm can, vào thân phận minh như thế. Cái nhìn
ấy đã làm cho Thảo bỗng cảm thấy minh là một đối tượng “có vấn đề”! “Vấn
đề” đây là đã bị nhiễm tư tưởng phương Tây, bởi đã đọc nhiều sách vở của phương
Tây! Đúng là như vậy! Bởi thế mà “bác” không muốn hỏi han hay tỏ ra thận mật
với một kẻ “có vấn đề đã bị nhiễm tư tưởng phương Tây”, dù là kẻ ấy mới từ bên
kia địa cầu trở về! Và có lẽ vì vậy mà phải nhắc nhở bằng một câu ngụ ý răn đe
có ý chê “sách vở ở bên Tây” là vô giá trị, nên về đây là phải “học tập nhân
dân”! Mà dĩ nhiên “nhân dân” đây là “đảng”, là “bác”, chứ không phải là thứ dân
thường vất vả vẫn gặp ngoài đời: Mặc dù lần gặp gỡ ngắn ngủi này đã diễn ra
hoàn toàn riêng tư, âm thầm, bí mật giữa “ông cụ” và Thảo, nhưng rồi sau nó đã
được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi! Càng suy nghĩ về lần gặp gỡ, càng nghiền
ngẫm lời khuyên bảo như một mệnh lệnh, càng tìm ra ý nghĩa một sự kiện chỉ dành
riêng cho Thảo, vậy mà nó đã được rao giảng rộng rãi trong giới trí thức… Tất
cả vụ việc đó đã khiến Thảo nhận ra mình đã bị lãnh đạo dùng làm bài học: “đọc
nhiều sách vở bên tây” có nghĩa là đã bị đầu độc (!?) nên bị nghi kỵ, kỳ thị,
bị ghi vào một thứ sổ đen, trong danh sách những “kẻ có vấn đề”! Từ đó
nảy sinh nơi Thảo mặc cảm là một “kẻ có vấn đề”. Mặc cảm này càng về sau
càng được minh chứng bởi những khó khăn đã gặp trong cuộc sống hằng ngày, nó cứ
đau đáu đeo đuổi, thường xuyên hành hạ, đe doạ tâm thần Thảo tới cuối đời. Càng
suy nghĩ càng thấu cái đòn nghi kỵ của “bác Hồ”. Vì câu nói ấy, tuyệt đối chỉ
có “bác Hồ” và Thảo biết thôi, vậy mà sau này nó đã được phổ biến rộng rãi khắp
dân gian! Điều đó chứng tỏ giây phút gặp gỡ chớp nhoáng ấy là cả một sự chuẩn
bị để làm bài học răn dậy đám trí thức ỷ mình có học, có bằng cấp của tây!
Rồi
bác Thảo thú nhận:
-
Từ đó tôi đã cố công gom góp những giai thoại, những nhận định của mọi người
từng có dịp quan sát vị lãnh đạo, lãnh tụ này, để có một cái nhìn biện chứng về
“ông cụ”, về “bác Hồ”.
-
Vậy theo bác, “ông cụ”, “bác Hồ” ấy là người thế nào? Có gì là đặc biệt khác
thường không?
-
Có lẽ sẽ chẳng có ai có thể đưa ra một lời giải đáp giản dị về một nhân vật vô
cùng phức tạp, vô cùng ẩn hiện với quá nhiều huyền thoại đã được thêu dệt nên
này. Những lời kể của mấy người có trình độ, từng có kinh nghiệm về “ông cụ” mà
tôi đã gặp và tôi thấy tin được, thì đều nhấn mạnh rằng đấy là một nhà chính
trị “hư hư, thực thực” rất khó hiểu! Người thì định nghĩa vị lãnh đạo này là
“bốn chục phần trăm sự thật và sáu chục phần trăm huyền thoại”. Người thì giải
thích sở dĩ không thể có một cái nhìn chính xác, cụ thể về “bác Hồ” là vì hành
tung, hành trình của “người” thì đầy hoả mù, đầy mâu thuẫn. Chi tiết này phản
bác chi tiết kia. Cuộc đời ấy là một hành trình thành đạt rất gập ghềnh, đầy bí
mật, khác lệ thường! Phải biết thật rõ từng bước thành đạt ấy, thì mới hiểu
được những quyết định lịch sử của “ông cụ”. Đó là cả một ý chí cương quyết vươn
lên đỉnh cao quyền lực bằng bất cứ giá nào, với bất cứ phương tiện nào, với
quyết tâm thoát ra khỏi số phận một con người bình thường. Từ ý định rất thực
tiễn của lá đơn xin vào học trường Hành chính Thuộc địa, là trường dạy
ra để làm quan phục vụ phong kiến, thực dân, nhưng lá đơn ấy đã không được chấp
thuận. Rồi sau là những bước lưu lạc muôn nơi, muôn nẻo, phải thay tên đổi họ
cả trăm lần, từ bước sinh hoạt trong đảng xã hội Pháp để rồi tham gia vào việc
thành lập đảng cộng sản Pháp, nhưng cũng đã không mang lại lợi lộc gì… Sau thì
ngả hẳn sang phía Đệ Tam Quốc tế… nhưng rồi cũng tới những lúc bị bỏ rơi, bị
nghi kỵ, bị tống khứ khỏi Liên Xô… Biết bao đoạn đường khó khăn, bao lần thất
bại, bị ruồng bỏ, bị lên án, bị khai trừ… Tất cả những chướng ngại ấy cuối cùng
đã tác thành một con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa nghi, có phản
xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt kịp thời mọi cơ hội, dù là mâu thuẫn
với lý tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng điều cốt yếu là
để đạt tới mục tiêu. Với những kinh nghiệm của cuộc sống muôn mặt, muôn
hướng, lúc thì vịn vào bên này, lúc bám vào bên kia, cuối cùng “ông cụ” đã đạt
tới vị thế tột đỉnh của quyền lực! Và những bước tiến thân khác thường ấy đã
tạc ra một vóc dáng chính trị ly kỳ, muôn mặt, muôn vẻ….
-
Nhưng về mặt tư tưởng thì bác thấy cụ Hồ mang nặng những ảnh hưởng nào? “Ông
cụ” có đúng là một nhà vô địch về tư tưởng mác-xít không?
-
Bản thân “ông cụ” lúc thiếu thời thì đã chứng tỏ ảnh hưởng rất sâu sắc của giáo
lý Khổng, Mạnh như một nhà nho… Trái lại, dù đã dấn thân vào con đường cách
mạng, rất ít khi nào ông cụ đi sâu vào lý luận, giảng giải về tư tưởng Mác-Lê.
“Ông cụ” vẫn thường có những liên tưởng hồn nhiên tới đạo đức Khổng, Mạnh khi
răn dậy cán bộ, khi làm thơ, làm vè. Làm thơ không phải do ngẫu hứng vì hoàn
cảnh để giết thời giờ, mà luôn luôn là do cuồng vọng và mục tiêu chính trị, để
ca ngợi mình, để tuyên truyền cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, ca ngợi
thế giới đại đồng và nhất là để hô hào quyết chiến… Không thấy khi nào “ông cụ”
đi sâu vào học thuyết, vào tư tưởng của Mác. Có lẽ “ông cụ” chỉ chú ý tới cách
khai triển chủ nghĩa Mác của Lẻnine, của Stalin, của Mao nhiều hơn. Tôi không
thấy có luận chứng chỉ rõ “ông cụ” là một người mác-xít. Nêu nói về tư tưởng
cách mạng thì “ông cụ” đã chịu nhiều ảnh hưởng của Lenin, của Stalin, của Mao,
nhất là Mao. Phải nói thẳng ra là Mao đã như trực tiếp bẻ lái “ông cụ”. Cái
mảng tối nên tìm hiểu là lúc được bố trí vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của
đảng cộng sản Tàu, với quân hàm thiếu tả thì “ông cụ” đã tuyên thệ gia nhập
đảng cộng sản Trung Quốc vào lúc nào, do ai đỡ đầu? Tuyên thệ như thế thì có
phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam hay không? Ngay sau khi vào tiếp thu Hà Nội, tôi
đã được nghe kể nhiễu về “sự ưu ái của Mao chủ tịch vĩ đại” đối với “bác Hồ”.
Một cán bộ từng là đảng viên kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc, sau cũng về
theo phục vụ “bác Hồ đã khoe rằng Mao chủ tịch có con mắt tinh đời nên đã nhận
ra tài lãnh đạo của “đồng chí Lý Thuỵ”, lúc đó vừa bị Đệ Tam Quốc tế đuổi khéo
về lại Viễn Đông. Chính Mao chủ tịch đã thu xếp, đề bạt để “bác” gia nhập đảng
cộng sản Trung Quốc và đưa vào làm việc trong Bát Lộ Quân, rồi chỉ đạo “bác”
đứng ra thành lập đảng cộng sản Việt nam để kết nghĩa anh em với đảng cộng sản
Trung Quốc. Và sau này chuẩn bị về cướp chính quyền ở Việt Nam… Câu chuyện này
tôi đã có dịp hỏi đồng chí Hoàng Văn Hoan, từng được coi như là “gạch nối giữa
“bác Hồ với Mao chủ tịch”, thì được trả lời gián tìêp rất mơ hồ rằng “bác Hồ là
đảng viên của đảng cộng sản Trung Quốc từ lúc đầu, ngày nay Mao chủ tịch và bác
Hồ, tuy là hai nhà lãnh đạo hai đảng, nhưng cả hai chỉ là một, vì cùng một lý
tưởng, một mục tiêu”! Bởi thế nên mới xảy ra vụ quân Tưởng xét giấy và khám
thấy trong người “ông cụ” mang quá nhiều đô-la, khiến “ông cụ đi bị bắt…”.
Những ràng buộc giữa “ông cụ” với đảng cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn này
cho ta hiểu về sau tại sao đảng cộng sản Việt Nam đã được đảng cộng sản Trung
Quốc tận tình trợ giúp đến như vậy. Và tại sao “đảng” đã chấp nhận phát động
chính sách cải cách ruộng đất y hệt chính sách “thổ cải” của Mao ở Trung Quốc,
mặc dù lúc đó chiến tranh bắt đầu bước vào giai đoạn quyết liệt, cần tới sự hi
sinh của mọi thành phần dân tộc. Ai cũng biết “sự hi sinh là không phân biệt
giai cấp”, tại sao lại phát động “phân biệt giai cấp” vào lúc ấy? Tại sao có sự
tuân phục tuyệt đối đến mức ấy? Vì nhu cầu xin súng đạn? Vì lòng khâm phục tư
tưởng Mao Trạch Đông? Khi được hỏi tại sao “bác” không viết sách tư tưởng, thì
“bác” trả lời “…Tại vì bác Stalin, bác Mao đã viết cả rồi”! Chẳng những thế,
“ông cụ” còn khoe khéo rằng ngoài tư tưởng của Stalin, của Mao, “bác” còn am
hiểu cả tư tưởng của Chúa, của Phật và cả của Mahomet nữa.. Nhưng lúc khuyên
răn cán bộ, đảng viên, thì “ông cụ” thường quen miệng nhắc đi nhắc lại những
đức tính của đạo nho như “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư… “ông cụ” tỏ
vẻ thấm nhuần đạo lý Khổng, Mạnh vì biết xã hội ta chịu ảnh hưởng ấy. Theo tôi
chiêm nghiệm thì ông cụ không đọc kỹ sách vở của Marx, nhưng đã đọc cuốn “Le
Prince “ (Ông Hoàng tử) của Machiavel… Vì cách “cầm quyền tuỳ cơ ứng biến”
của ông cụ là đúng theo Machiavel, tức là tận dùng mọi cơ hội, mọi thứ quyền
lực có thể có, lợi dụng mọi thứ có thể lợi dụng, để tỏ ra là kẻ có uy lực khiến
người ta nể và sợ, để người ta phải sùng bái…
-
Nhưng trong đời tư thì “ông cụ” là người có tính tình, tình cảm thế nào?
-
Về mặt tình cảm, theo tôi nghe kể, thì “ông cụ” tỏ ra kín đáo khó hiểu. Các nhà
nghiên cứu hàn lâm khi nghiên cứu vị lãnh tụ này, thường nhìn “ông cụ” qua
những Văn bản tuyên truyền của “đảng”. Các văn bản trong hành chính thì chỉ
mang tính giai đoạn. Mà văn bản chính thức của “đảng” thì đã tô hồng nhiều,
không mấy tôn trọng sự thật. Vì thế nên không thể hiểu nổi tính tình, cách hành
xử trong đời tư của “ông cụ”. Vì thế nên rất khó mà có thể hiểu rõ được con
người “ông cụ” về mặt chính trị, nhấi là về nhũng chọn lựa quyết định có tính
cơ hội, giai đoạn vào những lúc dầu sôi lửa bỏng…
-
Về mặt đời tư thì chẳng hề thấy tư liệu nào dám đề cập tới một cách trung thực,
thấu đáo. Bới về mặt tình cảm, gia đình thì đã có nhiều điều bị che giấu!
-
Thật ra thì ông cụ luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài khô khan, sắt thép, nặng lý
trí đến vô cảm. Một cán bộ từng phục vụ gần cụ Hồ kể rằng “ông cụ” rất xa cách,
lạnh nhạt với gia đình họ hàng thân thích, không mấy khi nhắc tới nơi chôn rau,
cắt rốn của mình, muốn giấu kỹ gốc gác, chỉ vì cái gốc của ông cụ không phải là
họ Nguyễn…. Lúc đã thành danh, “ông cụ” cũng không tỏ ra thiết tha với những
ràng buộc thân thiết với ông anh Nguyễn Sinh Khiêm và bà chị Nguyễn nhị Thanh…
“ông cụ” chỉ miễn cưỡng vài lần chính thức về thăm lại quê cũ. Những lần gặp lại
ông anh và bà chị cũng chỉ diễn ra kín đáo, rất ngắn ngủi như gặp những người
dưng.
Những
giai thoại về “cụ Hồ” thì cũng đều chứng tỏ sự khô khan về mặt tình cảm gia
đình. Về mặt đối tác, cộng tác cũng vậy, trong những việc lớn hay nhỏ, ngoài
ảnh hưởng tối cao của Marx, của Mao ra, chưa một lần “ông cụ” chứng tỏ đã nghe,
đã chấp nhận ý kiến của một ai. Nói chi tới tình cảm, tình thương, tình nghĩa
đối với một đứa con của tổ quốc, vừa từ bên kia địa cầu trở về, như trường hợp
của tôi! Vì thế mà cho tới nay, chưa có ai đã khám phá ra hết mặt thật, hết
những hậu ý của những quyết định mà “ông cụ” đã thực hiện trong bước đường tiến
thân, trong chiến tranh, trong cách mạng!
Ch12: Giải mã lãnh tụ
Bác Thảo thú nhận là minh lúc đầu vì còn trẻ, quá ngây
thơ, nên đã kỳ vọng nhiều vào tình cảm của “ông cụ”. Cứ tưởng đấy là một con
người bình thường, dễ kết thân, mà không hiểu được là trong thực tại cách mạng,
đã có một khoảng cách khó vượt qua để tới gần được lãnh tụ! Bởi chung quanh
lãnh tụ là cả một thành luỹ bè phái vây quanh, bao phủ, với những con mắt,
nhũng cái tai, những bàn tay của những thế lục nghỉ kỵ nhau, kình chống nhau
rất phức tạp. Trong chế độ tương tự, trong đường lối hành động và tổ chức cứ
như vậy, ngay từ thời Lénỉne, cho tới Stalin, cho tới Mao và nay tới thời “bác
Hồ”, đã hình thành cả một truyền thống đối xử rất nghiệt ngã giữa các “đồng
chí” ở cấp lãnh đạo, ở cấp Trung ương. Họ đã từng hạ bệ nhau, từng chèn ép nhau
không chút nương tay, không chút thương hại, để qua mặt nhau, để gạt bỏ nhau! Nói
chi tới những kẻ bị xếp vào loại “đối thủ tiềm ẩn”, loại “có vấn đề”, loại phản
động, kẻ thù…
-
Vì thế càng về sau này, tôi càng khám phá ra rằng mọi cuộc gặp với “ông cụ” đều
đã được chuẩn bị rất máy móc, đã qua sàng lọc kỹ lưỡng, trong quy trình làm việc
của lãnh tụ. Vì bắt buộc phải giữ khoảng cách như thế, mà những lần gặp đã
không tạo ra một cởi mở tự nhiên, cũng không thì có một quan hệ hay trao đổi gì
về mặt tư tưởng, cũng không có một xúc động tình cảm nào, ngoài sự xa cách, sợ
sệt “đến lạnh cả thân thể”! Sau này thì tôi mới hiểu rằng hi vọng đạt tới một
sự thân cận, thân mật nào đó với lãnh đạo là một điều không tưởng, không thể
nào có!
Rồi
bác Thảo phần trần:
-
Tôi về nước với mộng ước được tham gia làm cách mạng, góp ý giúp dân, giúp
nước, chứ không mưu tìm một địa vị trong quyền lực. Tôi nghĩ mình phải giữ sao
cho cái đầu và con tim như của mọi người, để có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn
của mọi người! Nhưng “ông cụ” thì khác. Bởi “ông cụ” có cuồng vọng làm lãnh tụ,
muốn tận tay mình dẫn dắt dân tộc từ thân phận nhược tiểu đi lên thế giới đại
đồng. Muốn vậy, thì phải nắm cho bằng được uy thế tột đỉnh, quyền lực trong
tay, để chung quanh phải kính nể, kính phục mà tuân lệnh, mà sùng bái. Làm lãnh
tụ không thể là một người bình thường, càng không thể tỏ ra là tầm thường. Nay
nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch
diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Đấy là tôi chưa bàn tới
những bàn tay của bao phe phái quỷ quái, của cả ngoại bang… đang bao vây lãnh
tụ!
-
Nhưng lần tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ là thế nào?
-
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi
chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với Pháp, vì sự
bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vã chạy tới
nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ
chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động,
nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình…
Cuối
bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, thì
tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.
Tôi
còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đã bỏ
công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga…
Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng
tốt đẹp… tại quê hương ta”!
-
Nghe vậy, thì cụ Hồ đã có phản ứng như thế nào?
-
Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi.
Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi thì
“ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:
-
Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris
thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn.
Tôi
hơi bị bất ngờ trước lời khước từ đột ngột như thế. Tôi đã kể lại lần gặp gỡ
này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm
thấy.
Nghe
kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
-
Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì tìm cách
lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin
đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ
ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi đấy!
-
Sao mà anh sợ hãi, hốt hoảng quá vậy? Chuyện ấy xảy ra cũng đã lâu rồi, năm,
sáu năm rồi. Chứ có phải mới hôm qua đâu. Mà có gì khiến anh hoảng sợ quá vậy?
Đa
lại lắc đầu nói:
-
Vậy là anh chẳng hiểu gì về “ông cụ” và đám người chung quanh “ông cụ” cả sống
ở gần “trung ương” mà không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm lắm đấy! Vì
trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho
tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với
“Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”.
Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
-
Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
-
Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức mình
là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một
thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”…
Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ mình là
ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An
Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và
biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ
ngang hàng như thế. Tất cả đều đã bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn.
Người ta ưa kể cho nhau nghe rằng Tạ Thu Thầu đã chết mất xác vì cầu nói:
“Ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”!
Rồi
bác Thảo giải thích thêm:
-
“Ông cụ” có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi
tới thế giới đại đồng. Phải hiểu ý chí ấy, cuồng vọng ấy của “ông cụ;” Dù khó
khăn mấy, hao tổn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng được. Vì thế nên “ông
cụ” quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực bằng
mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri của đạo lý… cứ như theo sách vở
của Machiavel mà tôi nghĩ ông cụ đã đọc, và đã thuộc lòng! Vì thế “ông cụ” thấy
con dường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các
nhà nghiên nước ngoài đã không chú ý nhiều tới “cuồng vọng lãnh tụ” ấy khi họ
tìm hiểu “ông cụ”! Họ thấy phong cách lãnh đạo của “ông cụ” như thế là do bản
năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy đã mang sẵn trong đầu những định kiến
chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói loà bởi những huyền thoại của bộ máy
tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng quả nhiều tư liệu là sản
phẩm chính thống của “đảng”. Họ đã không hiểu những hành động cực đoan của
cuồng vọng. Như vậy thì làm sao họ hiểu hết được mặt trái, mặt phải “ông cụ”.
Phải
biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của “bác Hồ” là tác phẩm của cả một
công trình nghệ thuật hoá trang cao độ, một công trình điểm tô, dàn dựng, để
công kênh “ông cụ” lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc
thần, bậc thành, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Tất cả phải bày
tỏ lòng lòng kính trọng; bằng tâm thức hãnh diện tự nguyện làm vật sở hữu của
lãnh tụ như một vinh dự, một mẫu mực giá trị… “Ông cụ” được tôn vinh làm bác,
làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng: cái gì có giá trị thì cũng
phải là của “bác Hồ”, của “cụ Hồ!” Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, cây vú sữa “bác
Hồ”, “nhà sàn bác Hồ” cho tới anh “bộ đội cụ Hồ”! Từ đó đã biến thể ra thành
cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị… thì cái đó
phải là của “bác”, của “đảng”. Trong tuyên truyền có cả một “huyền thoại về quả
cam” của bác Hồ: có cán bộ thơ, cán bộ chính trị, quan lại triều Nguyễn đã kể
về thành tích được “bác Hồ” tặng một quả cam! Quả cam ấy đã được trân trọng đón
nhận như một “ơn thánh thiêng liêng”, được mang ra chia sẻ cho cả gia đình…
Giai thoại “quả cam” được coi như biểu tượng cuồng tín của một “thứ phong kiến
cộng sản”!
Trong
tuyên truyền, người dân được dạy bảo phải một lòng kính cẩn những gì liên quan
tới đòi sống “bác Hồ”, nhưng thực tế thành công thì trong hành động, người dân
lại hiểu rõ kinh nghiệm linh động muôn mặt, muôn hướng, muôn phương cũng như
hành tung bí mật, phức tạp của “bác Hồ”!
Đau
đớn cho một nhà văn, khi vừa hoàn thành một tác phẩm, một bài báo ưng ý, hí
hửng tới đưa cho chủ nhiệm đọc thì bị chê: “Bài này thiếu tính bác, tính đảng,
chỉ vì trong tác phẩm, trong bài báo thiếu vắng cái phần không thể thiếu là
phần công thức ca ngợi công ơn của “bác Hồ”. Tại sao một đảng cách mạng, lấy
việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành
sở hữu của ỉãnh tụ, của đảng cầm quyền? Đấy không phải là tâm thức của con
người đã được giải phóng, mà đấy là tâm thức của con người đã bị dụng cụ hoá,
nghĩa là đã mất tự do. Bởi phải tỏ ý nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tế, cho
nhóm quyền lực “lãnh đạo”! Đấy là do tình trạng đã của kẻ đã quá sùng bái, đã
quá tin. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa “ngu tín”, chủ nghĩa “cuồng tín”. Phải
giải mã cho cặn kẽ những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ
thì mới mong thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Khi
muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải tìm hiểu tất cả những công việc bố trí
của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời sống công và tư, tuỳ
thuộc tính tình, tuỳ cách xử sự trong gia đình… tới cả các biện pháp tổ chức
phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn dựng lên những giai thoại, tạo ra
những khung cảnh huyền bí chung quanh ”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn
sùng, thờ kính, phục tùng lãnh tụ như thế, thì mới có thể tương đối hiểu phần
nào cung cách hoạt động, ý hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của
lãnh tụ. Tất cả phải là tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ.
Từ những quyết định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng
phương pháp tâm lý tinh vi tôn sùng lãnh tụ. Chính vì sự sùng bái tuyệt đối này
mà đã đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và tích
cực của lịch sử. Vì khi khen quá, hay chê quá, thì phải chối bỏ cái phần tiêu
cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế thì không còn gì là sự thật lịch sử nữa,
mà chỉ còn là… huyền thoại đã đượt thêu dệt theo hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi
đã thêu dệt huyền thoại thì không còn giá trị khoa học của nghiên cứu nữa. Lịch
sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có
xấu thôi thì không được. Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét
vấn đề công, tội. Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. Vì dễ sa vào thái độ
cực đoan! Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.
-
Cứ theo thực tại mà xét, thì “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc
cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để hở ra cái
áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài hết khuy áo
sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những cách thức phô diễn
đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy tạo ra một thứ vương bào
siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô sản! Vương miện của “Người” chính
là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính
khỉnh mạt, bất chấp thời trang quyền quý, quan cách, như thách thức cái lối ăn
mặc sang trọng, hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự
phỉ báng những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến. Lối ăn mặc cố ý tạo vẻ
“bình dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách
tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh lùng,
khinh bạc, cách nhìn thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức, cách hỏi han
đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những dáng điệu, cử chỉ trong
mỗi tấm hình, trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp… đều có cùng một mục
đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng đỉnh của một vị lãnh tụ tối cao sáng
ngời, phi thường! Tất cả chi tiết ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đã được
gạn lọc, đã được nghiên cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để hình ảnh “Người” không
bị chìm lẫn trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một
thần tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử!
“Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một cách nhầm
lẫn, không để một mưu toan tìm tòi khám phá nào có thể thẩm thấu vào những suy
tư, vào những hậu ý, vào tư tưởng của “Người”!
-
Đấy là bác nghiên cứu về mặt tư tưởng, của lãnh tụ, thế còn về đòi tư trong
vòng bạn bè tri âm, tri kỷ thì sao? Tại sao chẳng thấy có tư liệu nào, chẳng
thấy ai nói rõ về khía cạnh ấy?
-
Thực ra thì “ông cụ” chọn lựa rất kỹ những “bạn hữu” như là đối tác của mình.
Những người được chọn, được giới thiệu ấy đều là những nhân vật có ảnh hưởng,
có chút uy thế chính trị. Họ sẽ là những người được sử dụng như những bậc
thang, để ”Người” đẫm lên đó mà đi tới đỉnh vinh quang. Thật sự là, khi đã đạt
tới đỉnh quyển lực, thì ông cụ đã phải sống trên đỉnh tháp ngà, không có bạn
hữu thân tình, tri âm, tri kỷ nào cả. Không người thân thương để tâm sự, không
người chân thành để đối thoại vui vẻ trong tóc nhàn rỗi, bông đùa khi trà dư,
tửu hậu. Không bạn thơ, không bạn rượu; không cả bạn đời tâm tình thẩm kín
riêng tư. Tất cả chỉ là những dụng cụ, cuộc đời khô khan của lãnh tụ lịch sử,
không có chỗ cho bạn tâm giao, tâm tình… mà cũng chẳng hề có đồng môn, đồng
chí! Chỉ có những kẻ tỏ ra sự trung thành của đám bầy tôi, khúm núm chờ lệnh
dưới ngai vàng của quyền lực, chỉ có những đối tác officiel (chính thức)
trong chốn cung đình, chính trường… Đa số những người được chọn đều là mấy nhà
văn, nhà thơ, mấy nhân vật chính trị, mấy nhà văn hoá nước ngoài đã được guồng
máy tuyên, truyền ca ngợi… Điển hình cho sự đề cao, đề bạt; một cách phi thường
là trường hợp của nhà thơ Tổ Hữu, một cán bộ không có thành tích chính trị hay cách
mạng gì xuất sắc nào ngoài, mấy bài thơ ca ngợi lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt là
một bài thơ đã được đưa vào chương trình giáo dục vì nó hết lòng ca ngợi, tôn
thờ “bác Hồ”! Và vì vậy mà “đụng tới Tố Hữu” là đáng tội phản động cách mạng.
-
Nhưng khi đã ông cụ lên tới đỉnh vinh quang như thế thì tại sao không thấy lưu
lại một tác phẩm nào về mặt tư tưởng hay lý luận nào của “ông cụ”?
-
“Ông cụ” đã giải thích rằng “vì bác Stalin, bác Mao… đã viết cả rồi!”. Sự khiêm
tốn của lời tuyên bố ấy đã làm cho máy tay trí thức có xu hướng sùng bái hiểu
lầm. Với lời tuyên bố ấy, thật ra là ông cụ muốn nói rằng tư tưởng của “Người”
là bao hàm, là gom thâu tất cả tư duy của các nhà tư tưởng lớn của cách mạng.
Chẳng nhũng thế mà còn là của cả nhân loại, qua tất cả mọi thời đại của sử
sách. Đã hơn một lần “Người” khoe khéo tư tưởng của Người là cả một kho tàng tư
tưởng của các bậc tổ tiên, của các nền văn hoá xuất phát từ Khổng Tử, Trang Tử
của Trung Quốc, cho tới Phật Thích Ca của Ấn Độ, cho tới Chúa Ki-tô của nền văn
minh phương Tây! Rồi còn là tư tưởng của nền văn minh Ả Rập với đấng Tiên tri
Mahomet, đấng đã hứa mang vào thiên đàng, những ai dám hi sinh ôm bom lao vào
kẻ thù… Bởi các đặc công của “Người” cũng thường hi sinh, ôm bom lao vào… kẻ
thù trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, ở nông thôn cũng như ở thành thị
như thế! Tự tôn là một căn bệnh tâm lý thường thấy nơi các lãnh tụ độc tài
trong lịch sử. Lãnh tụ luôn luôn chứng tỏ mình là đỉnh cao chót vót trong thiên
thu lịch sử của tất cả các nhà tư tưởng cổ kim! Sự khiêm tốn, sự bình dân của
lãnh tụ chỉ là sự dàn dựng của một thứ mặc cảm tự tôn siêu đẳng! Nên nhớ là có
khả nhiều tác phẩm đã hết lời ca tụng “ông cụ”, mà tác già cũng chính là “ông
cụ”! Chính ông cụ đã tự xưng tụng minh là “Ái Quốc” là “Vương”, là “Chí Minh”
cơ mà!
Sau
khi dài dòng nêu ra những đặc tính của lãnh tụ như thế, bác Thảo nhấn mạnh:
-
Thực tế mà nói thì “ông cụ” biết rằng về trình độ tư tưởng, lý luận cách mạng,
thì mình làm sao so được với những Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn
Văn Cừ là những người đã được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng
vậy… Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thù ấy. Phải cố nêu gương, nêu phong
cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách
mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương,
muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của “cụ Hồ”, lúc “xuất quỷ”, lúc “nhập
thần” như thế nên không ai có thể sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng
dạy dân “Phải sống và làm việc theo gương bác Hồ”. Nhưng làm sao một
người bình thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn,
với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như “bác Hồ”
được! Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại
của một cuộc đời phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau,
làm nhiều nghề sang, hèn khác nhau… Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của ”bác
Hồ” thì khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một
cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan Thiết, từ
một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thuỷ, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris,
từ một kẻ mượn danh một nhóm ái quốc “An-nam” viết báo, viết kiến nghị gửi hội
nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai
lại là một cán bộ ở bên Tầu, nay bị Đệ Tam Quốc tế loại trừ vì có đầu óc “quốc
gia chủ nghĩa hẹp hòi”, mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung Quốc, ở Xiêm… rồi
sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại
hội thứ V của Đệ Tam Quốc tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu
chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương… Rồi sau lại thấy “bác” xuất hiện
với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi là trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi
được nhận vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc
thì sống y như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh,
Côn Minh… Sau biết bao truân chuyên, thì rồi bỗng “bác” nổi bật như một nhà
chính trị của mọi cơ hội, một lãnh tụ của cách mạng! Một con người đa năng,
muôn mặt, muôn ý, muôn hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm
gương ấy được!
Kể
tới đó, bác Thảo thú nhận:
-
Nhiều lúc cứ nhớ lại lúc ở Paris, với đầu óc non nớt bạch diện thư sinh, mà dám
ăn nói lỗ mãng như đã thân quen với “ông cụ” ngay lần đầu gặp gỡ! Nay nghĩ lại
mà thấm thía ý nghĩa câu ngạn ngữ của Pháp: “có những lời nói đã tuyên án tử
hình ngay kẻ vừa phát ngôn ra nó!” Sao mà đã dám hỗn xược, láo lếu, phạm thượng
coi trời bằng vung đến thế! Vì cái tội phạm thượng ấy, mà hồi đó tôi đã bị bỏ
lại Paris! Rồi sau này, khi về tới quê hương, thì đã bị xếp ngay vào diện “có
vấn đề”, nên cuộc sống đã gặp đầy khó khăn, vất vả như thế… Tất cả là do cái
tội “đã đọc nhiều sách vở ở bên tây”! Rồi là kèm theo một lời dạy bảo như một
mệnh lệnh “Phải… gắng mà học tập nhân dân!” Thật không có một đòn “chỉnh huấn”
nào, không có một sự hạ tầng công tác hào nặng nề hơn cái lời nghiêm khắc ấy. “Gắng
mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”.
Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng
mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi!
-
Lời dạy bảo ấy đã như một tia sét cực mạnh đã đánh cháy tâm can, đến độ đã để
lại vết hằn hối hận sâu hoắm trong ký ức của tôi… Rồi từ đó tôi mang nặng mặc
cảm như đã phạm một thứ tội tổ tông không báo giờ gột rửa được nữa:
-
Nghe bác tâm sự như vậy, tôi vẫn có cảm tưởng rằng bác oán hận “ông cụ” nhiều
lắm, phải không?
-
Anh vẫn lại hiểu lầm tôi rồi. Tôi không phải là kẻ ưa nói xấu, đổ ác cho ai.
Với đầu óc một kẻ có học, có ý thức trách nhiệm, thì mọi sự kiện xấu xảy ra cho
mình, trước mắt minh đều có lý do khách quan, chủ quan của nó, đều có lô-gích
của nó… Trong chính trị cũng như trong chiến tranh, tác ứng dĩ nhiên gây phản
ứng. Đẩy một kẻ, một phe vào thế thù địch, thì dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng của kẻ
thù ấy. Dùng thể du kích đại trà, chuyển quân như kiến, như muỗi vào rừng núi
Trường Sơn thì sẽ gặp chiến tranh “hoá học trừ kiến, trừ muỗi” đó lả hoá chất “da
cam”!… Chiến tranh của hoá học, của điện tử, của “bom tinh quái”, của mìn “ngửi
hơi người”… Đấy là tương tác của chiến tranh của ta, của địch. Dùng du kích đại
trà của ta thì sẽ gặp phản ứng chống chiến tranh du kích đại trà của Mỹ! Biết
quy luật, lô gích của chiến tranh là như thế thì chẳng thể đổ riêng tội, riêng
lỗi cho riêng một bên. Bên này tác ứng như thế thì, dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng
như thế của bên kia, có gì là lạ đâu. Việc của tôi làm là lý giải, là chỉ ra
cốt lõi, nhân quả của vấn đề. Nay già rồi mới thấy, mới hiểu thẩu hết những sự
kiện, những di sản của nó, nên tôi muốn nói ra với mọi người, về những trải
nghiệm đã giải độc, đã giải thoát chính tôi khỏi tình trạng bế tắc của oán thù.
Bởi những sự kiện, nhất là những sự kiện xấu, thì luôn luôn ám ảnh con người là
tự nhiên. Riêng với dân ta, với cái đầu đã nhiễm thói quen cúi đầu, thụ động
tiếp thu ý chí thù hận, với phản xạ hung bạo quyết tâm “giết thù”, như một giáo
điều cuồng tín… Tất cả ảnh hưởng của những sự kiện ấy đều kích thích tội ác, đều
là do mê muội, do ngu tín… Vì thế mà có kẻ không dám nghe tôi phân tích sự thật
về cuộc đời ly kì, về những hành động khủng khiếp của “ông cụ”, vì sợ bị liên
luỵ. Sự thật là tôi chỉ muốn lý giải cái gốc của tội ác trong hoàn cảnh của con
người. Phải tạo ra ý thức tỉnh ngộ, giác ngộ để giải phóng con người khỏi căn
bệnh cuồng tín, ngu tín như thế, Phải nêu ra cái gốc của thảm kịch, cái căn
nguyên nhân quả của bao nỗi vui, buồn, đau của dân tộc, và dĩ nhiên cũng là của
chĩnh tôi. Tôi nghĩ phải làm sao cho dân mình hiểu rằng “ông cụ” đã từ một cán
bộ cấp thấp cho tới khi trở thành lãnh tụ, thì cũng có lúc đã có phản ứng của
tội ác, đã vấp ngã. Ông thánh cũng có lúc phạm tội, nhưng hơn người ở chỗ sớm
biết sám hối, biết hành động để chuộc tội… Chứ cứ quen thói hung bạo, quen thói
cúi đầu sùng bái, rồi quy cho hoàn cảnh, cho số phận, đổ lỗi, đổ tội cho khách
quan… thì không được. Cứ suy tư, đổ tội như thế thì xã hội rồi sẽ suy đồi, đất
nước sẽ không trong sáng lên được. Thời cách mạng là thời có quá nhiều vấp váp,
tội lỗi, quá nhiều “mảng” u tối, đa gây ra cái xấu, cái ác nên nó về lâu, về
dài, đã gây tai hoạ cho cả dân tộc…. Đã sống trong thời đó, thì nay mỗi người
phải tự giải độc cái đầu minh trước khi giải phóng thân xác, thân phận mình.
Làm con người tự do là khó lắm: vì con người luôn luôn phải gánh chịu những lời
chỉ dậy đam mê, bị dẫn dắt tới ngu tín, cuồng tín, làm cho nó mất tự do!
-
Vậy là bác muốn trút tất cả trách nhiệm vả tội lỗi lên những đam mê, cuồng vọng
của “ông cụ” sao?
-
Về vấn đề này thì tôi phải nói rõ, phải giải thích cái cách nhìn của tôi. Thật
sự là tôi muốn giải mã hoàn cảnh của “ông cụ” để tháo gỡ, để làm nhẹ một phần
trách nhiệm, làm giảm một phần cả công lẫn tội của “ông cụ”, cũng như của chính
tôi! Người ta thường cho rằng mỗi người đều có một định mệnh, một thân phận đã
cố định. Quậy mấy cũng không thoát ra khỏi định mệnh, khỏi số phận mà ông trời
đã dành cho. Tôi phủ nhận cách nhìn u mê thụ động của “số phận” như vậy. Tối
nghiệm ra, và môn tâm lý xã hội cũng nhìn nhận như vậy, là mỗi con người sinh
ra và lớn lên, thì đương nhiên phải tiếp cận và tiếp nhận nhiều ảnh hưởng nặng
nề của môi trường ấy… Ta có thể tạm gọi cái môi trường bao quanh, đè nặng lên,
thẩm thấu vào mỗi con người như thế là một hoàn cảnh. Cái hoàn cảnh mà chung
quanh đã tạo ra và đã tác động, đã tác thành nó. Đấy chính là cách nhìn của
tôi. Nhìn như thế để thấy rõ hoàn cảnh của mỗi con người, để thấy bên trên, bên
ngoài, mỗi con người, nhất là mỗi lãnh tụ chính trị, đều có một bóng ma uy
quyền lớn trùm kín lên nó, đè lên nó. Đấy là cách suy nghĩ của tôi. Khi gặp một
trở ngại, gặp một điều không vừa ý, thì phải dừng lại, để phân tích tìm hiểu,
để nhận ra cái vòng cương toả mãnh liệt đang bao quanh hoàn cảnh… phải tìm cho
ra cái bóng ma quái đang chi phối mỗi thân phận, như vậy mới có thể biết cách
giải quyết, tìm ra lối vượt qua trở ngại, để thoát ra khỏi bế tắc… Nếu không
thì là tự minh cam chịu bị cầm tù trong bế tắc, để rồi còn chỉ biết oán hận,
oán thù… Không biết các anh có hiếu hết ý tôi không? Phải giải độc, giải tà quá
khứ của mình, để giải phóng chính mình, rồi từ đó giải phóng hiện tại, giải
phóng tương lai…
-
Bác nói như vậy là những việc làm, những ảnh hưởng xấu đều có một bóng ma quái
đã đè lên thân phận của “ông cụ”, của bác, của cả dân tộc trong thời gian qua…
phải không?
-
Tầm nhìn như thế là để thấy toàn thể hoàn cảnh, vượt lên trên mỗi thân phận. Vì
nhìn gần thì tất cả đều như là tử “ông cụ” mà ra, mà có. Nhưng như đã nói, đó
chỉ là một tầm nhìn hạn hẹp, nên chỉ thấy uy quyền trước mắt. Phải đưa tầm nhìn
vượt lên trên, vượt ra rộng hơn, xa hơn, để tìm hiểu tại sao con người, tại sao
từ dân tới lãnh tụ cứ u mê cam chịu ngụp lặn trong bế tắc, tại sao cứ phải sống
để gieo oán, gieo thù? Tại sao phải chấp nhận để oán thù làm động lực của hành
động cách mạng? Ai, học thuyết, lý thuyết nào đã gợi ý, ai đã dạy ta phải biến
oán thù thành động lực như thế? Xét như thế, thì thấy tất cả đều phát xuất từ
một học thuyết, từ một ý thức “đấu tranh giai cấp” mà ra… Và chính học thuyết
ấy, giáo điều ấy đã tạo ra cái bóng ma quyền uy của Lenin của Stalin, của Mao
và cả của Pol Pot nữa… Nhưng trên tất cả các lãnh tụ ấy, lại là tư tưởng Marx!
Thủ phạm gốc chính là Marx! Vì thế mà tôi phải phân tách những khía cạnh thực
tế của con người “ông cụ”, để tìm hiểu cội nguồn, của những ảnh hưởng, những
lập trường, những quyết định trầm trọng có tính lịch sử của “ông cụ”. Đối với
những gì mà ta nhìn thấy, thì những quyết định ấy, bắt nguồn từ tham vọng quyện
lực, từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được… Tới lúc vui mừng gập được
tía sáng của học thuyết “giai cấp đấu tranh”! Rồi chấp nhận học thuyết ấy lấm
kim chỉ nam để đi tới… Tất cả những bước đi theo hướng ấy đều tạo cợ hội để
thành danh, thành lãnh tụ. Để nắm bắt cơ hội ấy, thì phải suy tư vô cảm, coi
những đau khổ của con người là những hi sinh cần thiết. Những bước “cơ hội” vô
cảm ấy chó phép tung hoành muôn mặt, muôn hướng, không biết thế nào mà lường.
Chính “ông cụ” cũng biết, có những điều ông cụ làm, là điều không hay, nên “ông
cụ” vẫn thường bảo những “đồng chí” chung quanh, những kẻ thân cận rằng “Bác
làm gì kệ bác”
-
Như vậy thì tại sao bây giờ lại có phong trào kêu gọi noi theo gương “bác Hồ”?
-
Xét rộng ra mối thấy tầng lớp lãnh đạo sau này chỉ là cái đuôi… của tuyên
truyền giáo điều máy móc, thiếu biện chứng, phản biện chứng! Vấn đề là không
thể bắt buộc noi gương “bác Hồ”. Bởi cách sống muôn mặt, muôn phương, đa nguyên
của “bác” đâu có phải là gương sáng! Bởi những điều “bác” đã làm nó rất khác,
rất trái ngược với những lời “bác” dạy. Bởi đảng, nhà nước đã hành động muôn
mặt như “bác” nên xã hội đã loạn! Trong thực tế đâu có ai sống theo lời dạy của
“bác”! Tôi còn được biết rõ mỗi lần sắp xếp những ai được tháp tùng bác đi gặp
các nhân vật nước ngoài, thì bác thân chinh dặn dò thật là chi tiết, từ cách ăn
mặc, cách nói năng, cách ứng xử phải như thế này, thế nọ. Và lời dặn dò luôn
luôn được kết thúc bằng câu: “Các chú phải ăn mặc, nói năng, ứng xử thật đúng
cách, còn bác ăn mặc ra sao, “bác làm gì kệ bác”. Thật sự là “ông cụ” biết việc
mình làm, thái độ giai đoạn, các quyết định cơ hội của mình thường là không
trong sáng, nên không muốn bất cứ ai được phép hành xử như… mình, được phép bắt
chước mình! Khi gặp khách nước ngoài, đặc biệt là khi gặp người Pháp, thì “ông
cụ” ra lệnh đoàn tuỳ tùng phải ráng ăn mặc văn minh, sạch sẽ, hợp thời… Còn
“ông cụ” thì mặc theo kiểu lãnh tụ cách mạng Trung Quốc. Thư ký riêng Vũ Đình
Huỳnh trước khi được tháp tùng đi Pháp, thì “ông cụ” đã bảo ông cứ mặc
“complet”, thắt “cravate” cho thật đàng hoàng! Còn “ông cụ” thì vẫn cứ mặc theo
kiểu cách mạng! Khi qua Trung Quốc thăm Mao chủ tịch, thì “ông cụ” lại mặc một
cách hơi khác đi một chút, với cái áo khoác pardessus bên ngoài cho có vẻ Tây
phương, khác hẳn lối mặc của “bác Mao”. Khi sang Pháp để gặp các nhà lãnh đạo
Pháp, “ông cụ” còn phong ông Vũ Đình Huỳnh làm đại tá “vì ở bên tây, lãnh đạo
luôn luôn có aide de camp (sĩ quan tuỳ tùng) đi hầu cận!” Và từ đó ông
Huỳnh cũng phải chịu khó tập chào cho đúng kiểu “bộ đội cụ Hồ”!
Về
cách “bác” nể nang và bênh vực ông Vũ Đình Huỳnh, có giai thoại do chính đương
sự đã khoe ra rằng khi bị mấy uỷ viên trong bộ chính trị mách rằng “ông Huỳnh
vẫn giữ thói ngông tiểu tư sản, lúc nào cũng quần áo ủi là thật thẳng, lúc nào
cũng xức nước hoa “Rêve d’Or”, thì ông cụ bênh ngay: “Ông ấy thích vậy
thì kệ ông ấy”. Việc Vũ Đình Huỳnh được gọi bằng “ông” tức là đa có sự phân
cách để cho thấy Vũ Đình Huỳnh không phải là một “đồng chí”, nghĩa là không
phải người của cách mạng, nên sẽ có ngày bị hất xuống vực thẳm một cách không
thương tiếc. Và sau này thì sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Phải chi được “ông
cụ” coi như con cháu, như gia nhân trong nhà thì tương li, hậu vận mới khá
được.
Những
người thân cận còn kể rằng “ông cụ” rất chú ý cả tới cách nói năng, ăn mặc của
cánh phục vụ. Mỗi trường hợp tháp tùng, đi ra bên ngoài, là cả một sự dặn dò,
chỉ bảo thật kỹ từng chi tiết, vấn đề là cả một dàn cảnh làm nổi trội hình ảnh
một lãnh tụ giữa đám quần chúng bình dân bao quanh! Nghĩa là phải làm sao cho
thật là nổi bật vóc dáng một lãnh tụ, thật uy nghi, nhưng lại thật là hoà đồng,
mà không bị hoà lẫn trong cảnh quan! Đây là một minh hoạ cho ngạn ngữ “chiếc áo
đã làm nên thày tu”! Chính phong cách nói năng, ăn mặc của “ông cụ”, đã tạo ra
một phong cách “lãnh tụ cách mạng”, chứ không phải trình độ lý thuyết, phương
pháp lý luận! Không diễn thuyết, không viết sách để “đảng” và dân học tập,
nhưng rất chú ý tới kỹ thuật dàn dựng bề ngoài: mỗi bức hình, mỗi ký sự phải là
một “kiểu ảnh” để hậu thế chiêm ngưỡng! Phải chọn cận cảnh, viễn cảnh nổi nhất,
phải cân nhắc đưa đẩy máy ảnh, máy quay tới lui nhiều lần để sao cho có một
“thế đứng, thế ngồi” được “bác” chấp nhận, để lưu lại cho hậu thế!
Vì
“ông cụ” là một nhà dàn cảnh chiến lược có tài, rất tỉ mỉ và khó tính. Bởi đối
tượng trong hình, ở mọi tình huống, chính là “bác”, một lãnh tụ luôn luôn muốn
minh nắm độc quyền quyền lực.
Những
ai đã trải qua, đã sống sót sau cuộc cách mạng, rồi thì cũng đều có cái kinh
nghiệm của “cụ Hồ” là phải biết vượt qua mọi trở ngại, trong mọi hoàn cánh khó
khăn, để nắm bắt mọí cơ hội để vươn lên, để thành đạt, dù có phải đụng tới
lương tri, đạo lý!
-
Khi đã biết lãnh tụ là như vậy, ai ai cũng phải chấp nhận là như vậy, thì tôi
đã có phản ứng đối phó. Một là cố gắng đổi dạng, học cách sống theo cách mạng,
nghĩa là cũng áo quần nâu sồng, cũng ăn uống đạm bạc, cố tạo ra cái vỏ ngoài
sống lam lũ như một nông dân bần cố. Cứ sống trong những điều kiện “vô sản”, để
cố xoá đi những phô trương lỗ mãng thời trẻ. Phải bằng cách này, cách khác,
biết “cải thiện” mình trước cái nhìn của đối tác, đối phương cực kỳ sắt thép,
đối phương tức là “ông cụ”. Nhưng thật ra tất cả đều là vô ích. Bởi “ông cụ” đã
có cái nhìn phân biệt, cái nhìn định kiến đối với tôi ngay từ lúc đầu như thế
mất rồi. “Ông cụ” đã sắp hạng con người tôi như thế, tức là đã mặc nhiên tuyên
một bản án bất thành văn, vô phương kháng cáo. Cách nhìn như thế không phải là
của trí tuệ. Thật là đáng tiếc đối với một lãnh tụ. Vì nó quá hẹp hòi. Bởi cách
mạng đã quen nếp hành động “chẳng thà bắt lầm chín đứa, để không cho một đứa
chạy thoát”. Khổ thế đầy! Pascal, một nhà tư tưởng Pháp có viết: “Con người vừa
là thiên thần, vừa là thú vật. Kẻ muốn làm thiên thần, thì lại là làm thú vật”.
Cách mạng muốn làm ông thành giải phóng con người, thì lại là làm con quỷ bạo
lực của hận thù để nô dịch con người. Lối hành động ấy là phản thần thánh, vì
là phạm tội ác!
Không
giấu được phẫn nộ khi kể ra những kỷ niệm cay đắng về hai lần gặp gỡ đầy ấn
tượng1 bế tắc với “cụ Hố” hồi ấy, bác Thảo nhái giọng Sài Gòn, nói với chúng
tôi y như tự chế nhạo mình:
-
Hồi năm 1946, ở Paris, với vị thế từng được bầu làm “Đại diện cho kiều dân Đông
Dương”, tưởng thế là mình “ngon lành” lắm, sau lại còn dám to ra ngang hàng với
lãnh tụ, rồi có lúc còn ngoan cố toan tính đấu lý với đám cố vấn Tàu… Bây giờ
nghĩ lại mới thấy “nói zậy” mà chưa mất mạng là may lắm!
-
Theo bác thì tại sao bác không bị thanh toán như những kẻ đã dám tỏ ra mình
ngang hàng, là đối trọng với “bác Hồ”?
-
Cái đó là do tôi đã sớm đề phòng; Vì thế mà tôi mới sống sót cho tới ngày nay.
Thứ nhất là tôi giữ ý, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu tìm một vai về chính trị
nào, tuyệt đối không mưu tìm gặp gỡ, kết thân với những trí thức, để tránh bị
coi là có ý gây phe phái ở chung quanh. Bởi chung quanh ông cụ đã có quá nhiều
phe phái rình rập nhau. Lúc nào tôi cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. Vì tôi
biết quanh tôi toàn là những con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác…
của các cục “bảo vệ A này, A nọ”. Sống trong một xã hội ngu tín, của thời cuồng
tín như thế không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!
-
Lúc có dịp nêu những ý kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, thì tôi luôn luôn
phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng đảng”. Đã nhiều
lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi chỉ ước ao được học
tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng tỏ một sự đầu hàng “lãnh
tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót… Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn
tới một thế lực đã bảo vệ tôi, đó là sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức
Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ đã tận tình tỏ ra chăm sóc, theo dõi hoàn cảnh và
sức khỏe của tôi khi họ biết tôi đang bị kìm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm
hỏi và đôi khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ còn đòi qua tận Việt Nam để
thăm tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng ông và
đám bạn bè của ông rất quý trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. Vì thế, tuy bị cánh
tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể của trí thức của
thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đã có sự e nể đối với tôi. Lúc tôi lâm nguy tới
tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu
với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ cực đoan đã chụp lên đầu tôi cái tội
đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản cách mạng của bọn đệ tứ”! Nhưng vì “bên trên”
chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi
sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem
nó còn ra những trò gì”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho
nó chết hẳn. Hơn nữa, những nhận xét phê bình của tôi, chính “ông cụ” và mấy
tay lý thuyết của đảng cũng không bắt bẻ được, nhưng vì địa vị thượng đỉnh của
“ông cụ”, vì cố giữ “chuyên chính vô sản”, nên họ không thể chấp nhận ý kiến
phản biện có tính dân chủ của tôi. Ngay trong lúc có cải cách ruộng đất, dân
kêu than, khóc lóc quá thì “ông cụ” cũng biết đấy. Vì thế mà “ông cụ” đã khôn
khéo ra chỉ thị “không được dùng nhục hình”, nhưng chỉ thị ấy đã bị cất xó, để
sau này làm sử liệu, chứ nó không hề được phổ biến, rộng rãi. Bởi còn ý kiến có
tính mệnh lệnh của Ban cố vấn, là phải thẳng tay “phát động đấu tố để tạo khí
thế cách mạng”…
-
Khổ thế đấy! Và vì vậy mà tôi muốn nhấn mạnh tới hoàn cảnh phải chịu sức ép
cũng không mấy vinh quang của “cụ Hồ” trong suốt thời gian phát động chiến
tranh! Muốn qua sông phải luỵ đò! Muốn có vũ khí làm chiến tranh thì phải nghe
người ta, phải kiêng nể cố vấn, nên cũng đành phải hi sinh một phần uy quyền,
chủ quyền. Chứ mình có tự chủ hoàn toàn như mình muốn đâu. Lúc đó lãnh đạo đang
bận tâm vì chiến tranh, không ai nghĩ tới chuyện phát động cải cách ruộng đất
dã man như thế. Nhưng, như tôi đã nói, trên mỗi thân phận đều có một bỏng quyền
lực ma quái hơn nó bao trùm, nó ép, nó đè… Trên thân phận. Trần Đức Thảo là cái
bóng ma quyền lực Hồ Chí Minh, nhưng trên thân phận Hồ chí Minh lại là cái bóng
ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao! Nhưng xét cho cùng,
thì trên tất cả những thân phận lãnh tụ cộng sản, đều có cái bóng ma vô cùng vĩ
đại, vô cùng áp đảo của Marxí Nhưng mà riêng đối với tôi, thì trên tất cả và
tận cùng, qua bao tiếp cận thực tại tàn nhẫn của cách mạng trong một thời gian
dài, thì nay tôi mới nhận ra là còn có một quyền lực lớn lao vô cùng, vô tận
của sự thật, của lương tri… nó đè nặng lên đầu óc Trần Đức Thảo, nó phát xuất
từ sự đau khổ của dân tộc Việt trong cuộc cách mạng này. Đó cũng là những đau
khổ vô cùng của con người trong các cuộc cách mạng bằng bạo lực của hận thù ở
Nga, ở Trung Quốc, ở ta, ở Campuchia… Chính vì đã đẩy tầm nhìn lên thượng tầng
của tư tưởng, đưa lý luận, lý giải tới tận cùng của lương tri như vậy, thì phải
nhìn thấy rõ cái gốc của mọi sai lầm và tội ác của cách mạng và của chính mình!
Muốn phân tích rõ mọi sự thì phải là một cuốn sách vĩ đại… Bây giờ thì chỉ có
thể bàn trong giới hạn của một vài chi tiết, một vài khía cạnh mà thôi.
-
Như mọi người đã thấy đấy, chỉ vì ảnh hưởng của ý thức hệ mà chưa bao giờ ở đất
nước này lại thấy có một chính quyền, một đảng chính trị lại vâng lời, lại phục
tùng, lại sùng bái con đường hùng bạo của đáng cộng sản Trung Quốc đến mức đó.
Cứ như mình là con đẻ của đảng cộng sản Trung Quốc. Mà sự thực là như thế! Dĩ
vãng ngàn năm Bắc thuộc đâu dễ gì xoá đi được. Rồi với hàng vận cán bộ của
“đảng ta” đo Trung Quốc đào tạo về mặt ý thức hệ nữa… Vì hiểu rõ tình trạng ấy,
nên tôi cố gắng tìm luận chứng phản biện thật sáng tỏ, để thuyết phục lãnh đạo,
để tránh những bước mù quáng quá trớn tai hại trong giai đoạn bị thôi thúc phải
chuẩn bị mở lại chiến tranh. Vì làm chiến tranh thì phải nhờ vả, quỵ luỵ bên
ngoài, tức là phải sùng bái anh cả đỏ Trung Quốc, chứ tay không thì đánh ai
được. “Ông cụ” cứ tưởng có thể làm chủ tình hình trên đất nước của mình, cứ
tưởng có thể tung hoành áp đảo dư luận quốc tế… nhưng kỳ thực là trên bàn cờ
quốc tế, ở thời nào cũng vậy, một lãnh tụ nước nhỏ luôn luôn hứng chịu sự
khuynh đảo tàn nhẫn của các thế lực nước lớn. Đang lúc chiến tranh sôi động
trên đất nước, mà phải chấp nhận khuyến cáo của Trung Quốc phát động cải cách
ruộng đất theo y như lối “thổ cải” dã man của Mao ở Trung Quốc như thế, thì đó
là một nỗi nhục, nỗi đau của “ông cụ”. Khi phải mang bà Nguyễn Thị Năm, một ân
nhân của cách mạng ra mà bắn như thế, mà chính “ông cụ” đã nhìn nhận là mình
không muốn như vậy, thì đấy là một thú nhận nỗi bất lực, một mối nhục lớn của
“ông cụ”! Chung quy chính “ông cụ” cũng bị chi phối bởi những thế lực luôn luôn
có cái nhìn quyền lợi, cái nhìn chiến lược toàn cảnh, toàn cầu, cái nhìn “ảnh
hưởng”, “thế lực” của họ. Trung Quốc nó muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ
đậm của Trung Quốc. Tôi đã hơn một lần nhắn nhủ, cảnh giác cấp lãnh đạo cách
mạng rằng trong lịch sử thế giới, chưa hề thấy có trường hợp một nước lớn nào
có chính sách chịu hi sinh, để mà giúp đỡ vô tư, để chi viện vô vụ lợi cho một
nước nhỏ bao giờ đâu. Các nước lớn không bao giờ quên quyền và lợi của họ…
Trong lịch sử nước ta từ trước tới nay, và cả về sau này, Trung Quốc đã, đang
và vẫn sẽ là cái bóng ma quái vĩ đại, mãi mãi đè nặng lên đất nước, lên lãnh
đạo, lên lãnh thổ của chính chúng ta!
Bác
Thảo lắc đầu ỉm lặng một hồi rồi nói tiếp:
-
Bởi có cái nhìn như thế nên tôi bị ganh ghét, tuy chưa bị tiêu diệt, nhưng cứ
bị trừng phạt bằng cách để cho sống dở, chết dở, lúc nào cũng như có thanh kiếm
treo lơ lửng trên đầu. Dù bị canh chừng, bị đe doạ, nhưng tôi vẫn kiên trl lập
trường, để tiếp tục là tôi, thế nên phải sống khổ. Cứ như mình muốn khổ chứ
không muốn sung sướng, không muốn được ưu đãi! Bi hài là như thế!
Bác
Thảo kể tới đó rồi bỗng cười rũ đến chảy nước mắt làm chúng tôi ngạc nhiên. Bác
kể ra những gian nan khổ cực của bác với một niềm kiêu hãnh, tự đắc. Cứ như là
những nỗi đau khổ ấy là những thành tích của mối tình lãng mạn giữa bác với
cách mạng, giữa triết học với chân lý. Lúc tâm sự, bác thường mỉm cười tê tái,
trong khi mắt ngấn lệ. Chúng tôi tuy cũng có lúc phải mỉm cười theo, nhưng rồi
cũng chảy nước mắt. Vì thấy nhà triết học của chúng tôi lấy tay áo chấm nước
mắt mà vẫn cứ cười như đứa trẻ! Thật là thê thảm!
Rồi
bác Thảo ôn lại tâm trạng mình ở Paris hồi ấy. Lúc thấy phái đoàn Hồ Chí Minh
về nước… cùng bốn trí thức Việt kiều, mà mình thì bị bỏ lại! Thật là mất mặt
cho kẻ cứ tưởng mình là một tay mác-xít có hạng, tràn trề hi vọng, tưởng mình
sẽ rất là tâm đầu ý hợp với nhà lãnh đạo kháng chiến và cách mạng ấy!1
Bác
Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay chuyến ấy là
ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, và bác sĩ Trần Hữu Tước.
Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có nhiều kiến thức về vũ khí
nên đã được tin dùng đặc biệt. Và đã được “cụ Hồ” đặt cho một tên mới là Trần
Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu
tiên của chiến khu, rồi sau được ca ngợi như là người đã sáng chế ra loại súng
chống tăng, mang tên SKZ (Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:
-
Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa.
Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế.
Kể
tới đó, bác Thảo lại mỉm cười tề tái! Trên mặt khô héo của nhà triết học luôn
toát ra nỗi buồn, nhưng vẫn cứ giấu nó sau nụ cười mỉm. Đấy không phải là thứ
cười vui, mà chỉ là một thứ cười đã phai bạc, đầy gian truân, đắng cay… muốn
khóc! Đấy là thứ cười cố hữu của con người khổ ải, thường để che giấu thân phận
tủi nhục, u buồn của mình. Nụ cười héo hắt ấy rất thường gặp trên môi mỗi con
người cùng khổ. Đến nỗi dân ta đã nổi tiếng là “cái gì cũng cười”, lúc đau khổ
cũng vẫn cứ… cười!
Rồi
bác Thảo còn thành thật thú nhận:
-
Hồi ấy, không được cùng về với phái đoàn “cụ Hồ”, tôi cảm thấy bị coi thường,
nên tự ải bị va chạm nặng. Vì vậy lại càng có quyết tâm mưu tính cho bằng được
sự trở về sau này! Nay nghĩ lại mới hiểu rõ vì sao lúc đó tôi đã bị bỏ lại, và
rồi không được tin dùng sau này: chỉ vì đã lỗ mãng phạm thượng, nhưng có lẽ
công và tội nặng nhất của tôi là đã có những suy nghĩ, nhận định nghiêm trọng
trước mấy vấn đề lớn. Vì thế mà đã vô tình đụng tới những tính toán của lãnh
đạo, của “đảng”! Đó là việc tối kỵ không ai dám làm. Nhưng vì tính nghiêm trọng
ấy mà tôi thấy phải nói ra. Chung quạnh ông cụ người ta chỉ quen khen nịnh
thôi. Tôi muốn thay đổi cách làm việc như vậy. Bởi đằng sau những vụ việc được
đề cao là những hậu quả nặng nề và lâu dài có những chọn lựa tưởng là tốt đẹp,
nhưng với thời gian, nó sẽ mang lại những tai hại lớn lao. Dù là chọn lựa hay
quyết định của lãnh đạo thì cũng có lúc sai. Tôi không thể giữ im lặng trước
những cái sai ấy. Vì thế người ta không muốn cho tôi tiếp cận lãnh đạo một cách
thân cận. Luôn luôn có một bức tường ngăn cách.
-
Thế thì bác chỉ được gặp “cụ Hồ” có hai lần ấy thôi à?
-
Còn nhiều lần gặp mặt sau này nữa chứ, nhưng những lần gặp ấy thì là sự tham dự
ở vòng ngoài, nghĩa là do sự sắp đặt, để trang trí theo ý muốn của quyền lực,
của cơ quan, cơ chế, chứ không phải là được mời để có tiếp xúc riêng, để tạo
quan hệ thân mật với lãnh tụ. Trong những lần gặp theo chương trình đã sắp xếp
của “tổ chức”, nên giữa “bác” và tôi, chúng tôi không hề trao đổi với nhau một
câu nào có tính thân tình, tâm sự về một sự cố hay vấn đề nào đó… Như tôi đã
được tập huấn ngay từ đầu, trước mặt “bác” tôi không được tự ý nói câu nào
“ngoài chương trình”, ngoài lễ tân!
-
Như vậy là những lần gặp gỡ ấy, thật ra cũng là vô ích!
Cũng
không hẳn là vô ích đâu. Bởi mỗi dịp nêu ra được một điều của lê phải, của sự
thật, để rồi nó lọt đến tai lãnh đạo hay ai đó thì cũng như mình gieo trồng
được một mầm tốt. Nhưng nếu cái hạt mà minh gieo đó bị coi là hạt xấu thì mình
sẽ phải trả giá. Tôi còn nhớ một lần gặp gỡ rất bí mật, không thể nào quên. Lúc
đó là cuối năm 1964, tức là hoà bình sau hiệp định Genève đã gần mười năm,
nhưng cả miền Bắc thì đang sôi sục ngầm chuẩn bị mở chiến tranh nổi dậy một
cách quy mô ở miền Nam. Bỗng một cán bộ Trung ương tên là Sông Trường, tới bảo
“bác” ngỏ ý muốn nghe tôi phát biểu về đề tài “chiến tranh và hoà bình”, tại
phủ chủ tịch. Và tôi được biết rõ là buổi thuyết trình này chỉ dành riêng cho
một số người rất hạn chế, rất thân cận của “bác”. Lệnh đó đã làm tôi suy nghĩ
rất kỹ. Bởi lúc đó trong dân chúng, nhất là tại nông thôn, nơi không có tai mắt
của quốc tế, đang dấy lên phong trào hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân
sự. Các địa phương đang thi đua thành tích “giao quân”. Khắp nơi tràn đầy bích
chương, pa-nô kêu gọi “vì yêu nước, yêu xã hội chủ nghĩa, phải hăng hái lên
đường làm nghĩa vụ quân sự”!
Thật
tế là lúc ấy, trong mỗi gia đình dân chúng, đang rạo rực mối lo “đảng” chuẩn bị
mờ lại chiến tranh quy mô xuống miền Nam. Bởi trong dân chúng những tin tức
Trung Quốc đang ùn ùn chở vũ khí nặng vượt qua biên giới vào cho ta, rồi lệnh
gấp rút thu gom thanh niên đi làm “nghĩa vụ”… Do đó tôi cố tìm hiểu tại sao
“bác”, là người chẳng ưa gì tôi, mà nay lại muốn nghe tôi thuyết trình về một
đề tài đang làm cho dân chúng lo âu, đang được bàn tán, tuy âm thầm nhưng rất
là sôi nổi, trong thời sự.
Cán
bộ phủ chủ tịch cho biết “bên trên” ra lệnh cho tôi phải chuẩn bị kỹ bài nói
chuyện, và yêu cầu tôi đưa trình bài đã soạn để “trên” duyệt trước. Thế nhưng
tôi cố ý chỉ đưa trước một dàn bài tóm lược đại cương với hai phần chính. “Một
lá cách đánh giá nhu cầu và di sản của chiến tranh. Hai là cách đánh giá nhu
cầu và di sản của hoà bình, Và phần kết luận: cách đánh giá thắng và bại qua những
di sản của chiến tranh và của hoà bình”. Tôi không đi sâu vào chi tiết trong
dàn bài đưa trình, là có ý để không gặp cấm cản những điều mà tôi muốn nói, mà
có lẽ “bác” và những người chung quanh cũng không muốn tôi nêu ra. Trong bài
thuyết trình, tôi đã cố phân tích thật sâu sự kiện “chiến tranh” và sự kiện
“hoà bình”, qua quá trình lịch sử đương đại, với cách nhìn triết học phê phán
đối với ỉịch sử. Tôi ôn lại những bài học của lịch sử, để nhấn mạnh tới sự độc
hại không thể nào kể xiết của chiến tranh. Bởi nhu cầu chiến tranh đòi hỏi thật
nhiều mưu trí, thủ đoạn. Còn hoà bình bền vững đòi hỏi phải có trí tuệ thật là
trong sáng, minh bạch. So sánh con người của chiến tranh với con người của hoà
bình về mặt lương tri đạo đức thì sẽ thấy rõ đâu là giá trị đích thực của chiến
tranh, của hoà bình. Hơn nữa, hai cuộc đại chiến tranh thế giới đã kết thúc với
thắng lợi của phe cắc nước dân chủ tư bản ở châu Âu, đã để lại những bài học
đắt giá.
Bởi
sự thật là sau mỗi lần chiến thắng, châu Âu đã thụt lùi một bước về mặt uy thế
đối với thế giới, vì suy yếu, vì đã kiệt sức đến phải nhờ vả, phải vịn vào Mỹ
để đứng dậy! Từ đó, nhất là từ sau đệ nhị thế chiến, Mỹ đã trở thành cường quốc
số một, một cách không thể chối cãi, còn châu Âu thì đã vĩnh viễn mất hẳn vị
trí đứng đầu thế giới. Các nhà sử học và xã hội học còn ghi nhận, về mặt văn
hoá, nhân văn, về mặt trật tự, kỷ cương và đạo lý, thì còn người thời hậu chiến
đã bị suy thoái về tất cả các mặt ấy. Hai nước chiến bại là Đức và Nhật đã vươn
lên thành hai cường quốc kinh tế nhờ họ là nước thua trận, không có quyền thành
lập quân đội. Do đó dân của họ không bị gánh vác nặng nề những chi phí quốc
phòng trong một thời gian dài. Nghiên cứu về hiện tượng ấy cho phép đánh giá
cái hại lâu dài của chiến tranh, dù là đã đại thắng. Bởi cái giá phải trả sau
khi chiến thắng thì rất là đắt. Những chiến công hiển hách, có thể mang ra ca
ngợi trong hàng ngàn trang sách.. Nhưng nỗi đau, nỗi khổ mà các dân tộc phải
chịu do hậu quả chiến tranh thì lâu dài, không có giầy bút nào có thể kể ra cho
hết. Cụ thể cho thấy cái lọi về cách sử dụng hoà bình một cách tuyệt đối, nghĩa
là không phải dồn nỗ lực vào guồng máy chiến tranh đã cho phép các dân tộc
quanh ta tránh được bao đau khổ, không bị trong tình trạng thua kém, tụt hậu
như nước ta, dân ta. Vả lại nhờ chính sách tận dụng hoà bình mà Đức và Nhật đã
qua mặt những nước chiến thắng như Anh, như Pháp. Kinh nghiệm ấy là một bài học
quý cho nước ta.
Thực
tế là tình trạng miền Bắc ta, cho tới lúc này (1964), cũng chưa xoá bỏ được
nghèo khổ, dù là việc ký kết hiệp định hoà bình ở Genève đã mười năm. Đời sống
nhân dân ta còn vô cùng tối tăm về mọi mặt. Thế mà nay ta lại phải lo mở lại
chiến tranh trong những ngày sắp tới đây. Mà nước ta vẫn chưa làm ra được súng
đạn, thì dĩ nhiên phải nhờ vả trầm trọng vào nước ngoài, về mặt vũ khí, về
lương thực… Sự nhờ vả ấy sẽ là món nợ vô cùng nặng nề. Nó sẽ là một di sản lâu
dài của chiến tranh. Bởi chiến tranh, đối với loài người, là một độc dược với
muôn vàn “hậu quả độc hại từ bên trong”, về lâu về dài. Chiến thắng chỉ mang
lại phần thưởng vinh quang cho một thời gian nhất định. Nhưng di sản tai hại
trầm trọng của nó, ngoài những thiệt hại về nhân mạng, về đổ vỡ trên lãnh thổ,
còn là sự đổ vỡ thấm sâu trong tinh thần, trong nếp sống, trong nếp suy nghĩ,
trong đầu óc con người. Bởi chiến tranh lâu dài sẽ tồn đọng trong đầu óc, thành
một thứ văn hoá chiến tranh. Nó làm cho con người trở thành hung bạo hơn, gian
xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, trong hành động, trong nếp sống hằng
ngày. Bởi con người chiến thắng sẽ khoe khoang, sẽ thành kiêu binh, sẽ tin
tưởng vào những xảo trá, quỷ quyệt đã dùng để đánh gục quân thù! Nhưng rồi nó
tồn đọng như những món nợ vật chất và tinh thần, trong thể xác và đầu óc con
người và xã hội. Đó là những món nợ văn hoá trong lối sống… lối suy nghĩ, mà
các thế hệ mai sau không thể nào thanh toán cho hết được. Vì thế mà người xưa,
sau chiến thắng, thì đã phải vội ra chính sách “an dân”, để cố tẩy xoá ngay lối
sống, lối suy nghĩ của chiến tranh, để cho người dân an tâm mà làm ăn… Ta thì
sau khi thắng xong, là lại lo áp đảo tinh thần đề huy động dân chúng, để phát
triển “xã hội chủ nghĩa”, rồi tiếp tục cổ vũ hận thù triệt để, để chuẩn bị mở
lại chiến tranh!
(Cũng
nhân đây, phải lưu ý rằng ở châu Âu, có hai nước đã coi nhau như kẻ thù truyền
kiếp, quyết không đội trời chung là Đức và Pháp. Nhưng những lãnh đạo có trỉ
tuệ, biết nhìn xa, đã hoá giải được moi thù truyền kiếp ấy bằng hoà giải, để
rồi Pháp và Đức ngày nay đã trở thành cột trụ của nền hoà bình và thịnh vượng
của châu Âu, do châu Âu chứ không còn là do Mỹ cho châu Âu! Đấy là một kinh
nghiệm, là một bài học hoà bình và thịnh vượng, mà chìa khoả là sự công nhận
giá trị của nhau, kính trọng nhau để cộng tác với nhau mà đi tới).
-
Vì thế, khi đã có hoà bình mà không cấp bách và tích cực xoá bỏ cho nhanh, cho
hết nếp suy tư, nếp ứng xử quá khích, xảo trá thời chiến trong xã hội, xoá sạch
hậu quả của những thói quen quá trớn của chiến tranh, để cho dân thay đổi cách
nghĩ, cách sống, để cho cuộc sống trở lại lương thiện bình thường, thì rồi sẽ
khó tránh được, những hậu hoạ xã hội suy tàn là di sản lâu dài của chiến tranh.
Sau chiến tranh mà vẫn duy trì nếp sinh hoạt của thời chiến, vẫn phát triển các
chính sách của bạo lực, vẫn quen dùng thủ đoạn tuyên truyền dối gạt của chiến
tranh, thì xã hội sẽ mãi mãi sống trong căng thẳng, trong những phản xạ tàn
bạo… như vậy là độc tố chiến tranh đã nhiễm sâu vào con người, vào xã hội. Như
vậy là di sản chiến tranh vẫn tác hại trong thời bình, giữa chúng ta với nhau.
Vậy là những chiến thắng cuối cùng đã đưa tới toàn là tai hoạ. Chiến thắng như
thế cuối cùng là một thất bại. Vì không phải là thắng, và cũng chẳng phải là
lợi. Chúng ta cũng nên chú ý rằng nhờ bao tổn thất và hi sinh của ta trong
chiến thắng Điện Biên, mà Trung Quốc đã có cơ hội lên mặt kẻ cả của một đại
cường quốc ở hội nghị Genève khi bàn về ngưng bắn ở Việt Nam. Bởi Trung Quốc đã
từng bị mất mặt khi phải ký kết chấp nhận đình chiến ở Triều Tiên… Thế nên
Trung Quốc đã có ý đồ phục thù trong chính sách giúp ta đánh đuổi Pháp, để gỡ danh
dự. Cứ xem như việc Mao chủ tịch, vừa mới thắng Tưởng Giới Thạch, vừa mới nắm
được chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, thì đã vội xua quân qua chiếm Tây Tạng
năm 1950! Rồi sau đổ đã thúc Bắc Triều Tiên mở chiến tranh để xoá ảnh hưởng Mỹ
ở Nam Triều Tiên. Nhưng rồi Trung Quốc đã thất bại sau khi phải xua quân qua
cứu Bắc Triều Tiên, và rồi đã phải ký một cách khiêm tốn hiệp định đình chiến
tại Bàn Môn Điếm, phải chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài ở Nam Triều. Tiên… Mà
Nam Triều Tiên đứng vững không chỉ do Mỹ, mà còn là do dân ở đó không ưa “cộng
sản”. Đó là những điều ta phải suy nghĩ cho kỹ để rút kinh nghiệm cho tương lai
của ta. Ta phải cân nhắc kỹ lại về việc ký kết và thi hành hiệp định Genève mà
ta đã ký năm 1954. Tôi muốn gợi ý ở phần kết luận bài thuyết trình với kinh
nghiệm của vùng Đông Nam Á này: chiến tranh không phải là một giải pháp tốt. Mà
những hậu quả tai hại của chiến, tranh thì không thể lường hết được, mà cũng
không thể nào thanh toán hết được.
Vì
đã ý thức nỗi lo sợ của dân chúng trước viễn ảnh và nguy cơ mở lại chiến tranh,
nên tôi buộc lòng phải nhấn mạnh tới hậu quả tai hại, với hi vọng mỏng manh là
nếu không thể ngăn chặn, thì ít ra cũng trì hoãn được thêm một thời gian nữa dự
tính mở lại chiến tranh xuống miền Nam. Vì đứng trên quan điểm của con người
trong lịch sử mà xét, những tiếng gào khóc của hàng triệu sinh linh trong chiến
tranh và sau chiến tranh, dù cho có bao nhiêu bia tượng, đền đài miếu mạo ghi
công, tưởng nhớ đến muôn đời sau, thì cũng không thể nào an ủi được những nỗi đau,
không thể nào đền bù được những mất mát và tàn phá do chiến tranh gây ra, mà
dân chúng đã phải gánh chịu mãi mãi cho tới sau này.
Để
chấm dứt bài thuyết trình, tôi đã chậm rãi nói dằn từng chữ:
-
Có một sự thật có thể gây tranh cãi, nhưng không thể nào chối cãi được, là
chiến tranh luôn mang theo những hậu quả vô cùng tai hại. Vì nó làm băng hoại
xã hội, vì nó phá hoại hạnh phúc con người… Chỉ có hoà bình mới tạo cơ hội xây
dựng được no ấm và hạnh phúc, tạo ra được một xã hội có căn bản luân thường đạo
đức, trật tự kỷ cương.
Nghe
tới câu ấy, “bác” thay đổi thái độ: đang ngồi nghe một cách vô cảm, với dấu
hiệu mệt mỏi, bỗng cau mặt, đứng phắt dậy, mím môi, chau mày, có vẻ không vui
ra mặt, rồi vỗ tay sơ sài, lẹt đẹt, làm như thế “bác” chỉ chờ cho tôi chấm dứt.
Gần chục người chung quanh, hình như đa số là của “bộ chính trị”, cũng phải vội
vã đứng đậy vỗ tay hời hợt theo cho phải phép. Rồi “bác” vừa đi ra, vừa ngoảnh
mặt nói vọng lại với tôi:
-
Chú Thảo nói hay lắm. Cám ơn chú! Bây giờ bác phải về làm việc.
Tôi
đã cố quan sát thật kỹ thái độ, dáng điệu lúc bác ngồi nghe. “Bác” đã giữ vẻ
mặt trầm tĩnh cho tới lúc đứng dậy, đổi ra mặt cau có, rồi vứt lại một lời cảm
ơn, như miễn cưỡng, để vội vã đi ra, bước thật nhanh, không vui chút nào khi
rời phòng hội. Những người chung quanh cũng phải vội vã chạy theo. Chỉ có một
người bước lại gần, tươi cười nói khẽ và vội một câu, như để an ủi tôi, đó là
tướng Giáp:
-
Được “bác” khen như thế là tốt lắm. Thế là thành công đấy!
Nhưng
tôi thì đứng lại đó, bơ vơ, lo âu, suy nghĩ về câu khen “nói hay lắm” mà “bác”
vứt lại khi bước ra khỏi nơi họp. Tối cứ bãn khoăn ngẫm nghĩ về thái độ của
lãnh tụ với câu “khen” ngắn ngủi ấy. Chờ mãi hồi lâu, cho tới khi một cán bộ
của phủ chủ tịch bước tới để dẫn tôi ra về bằng cổng sau…
Đấy
là thêm một lần, tôi đã có dịp tìm hiểu cách ứng xử của “ông cụ” đối với tôi.
Thật sự là cuộc gặp gỡ, buổi thuyết trình ấy đã không làm “ông cụ” vui. Vì nội
đung bài thuyết trình đã nhấn mạnh tới nhũng hậu quả vô cùng tai hại của lá bài
chiến tranh! Và rồi tôi cũng không vui với lời khen mỉa mai “nói hay lắm!”
(nhưng ý không hay?) ấy. Bởi tôi biết việc ký và thi hành hiệp định Genève như
thế, là để chuẩn bị mở lại chiến tranh, tức là vĩnh viễn xé bỏ hiệp định! Bởi
trong hiệp định, có các khoản cam kết của các nước chù trì hội nghị dùng đế bảo
vệ cách thi hành, nhưng chẳng thấy ta dùng tới những cam kết ấy. Ngoài ra, tôi
còn nhắc khéo tới ý đồ bành trướng của Trung Quốc trong vụ vội vã “giải phóng”
Tây Tạng… Nhất là trong lúc toàn miền Bắc ta còn nghèo khổ mà đã lăm le mở lại,
mở rộng chiến tranh xuống miền Nam! “Ông cụ”, với nét mặt nghiêm trang, lạnh
lùng, có vẻ đã mỏi mệt, nên đã không giấu được thái độ bực bội, như là vừa làm
một thử nghiệm không vừa ý, với một kẻ “có vấn đề”, nên nét mặt đã chuyển ngay
sang cau có, khó chịu vào phút chót ấy. Và câu “Chủ Thảo nói hay lắm!” đã như
một gáo nước lạnh hắt vào mặt tôi. Bởi nếu thật sự đồng ý với tôi, dù là chỉ
một phần nhỏ thôi, thì ít ra cũng lại gần tôi mà trao đổi vài câu, và bắt tay
để nói lời khen ấy. Nhưng đây lại là một câu nói miễn cưỡng vứt lại phía sau,
trong khi vội vã bước ra khỏi phòng hội. Chung quanh tưởng đấy là một lời khen,
nhưng kỳ thực chỉ có tôi hiểu đấy là một lời phê phán nặng nề: “Nói thì hay
lắm, nhưng ý tứ thì không hay chút nào”! Chỉ có tôi là người trong cuộc, đang
sống trong vòng cương toả của “Người”, mới cảm nhận, mới hiểu rõ ý nghĩa thâm
thuý của từng câu, từng chữ của “Người”! Rồi tôi lại nghĩ cho dù “ông cụ” có
muốn kéo dài thêm thời gian hoà bình để kiến thiết xử sở, nhưng còn có uy lực
của Mao nó ép phải mở lại chiến tranh thì sao? Vấn đề nó thâm sâu, tàn nhẫn và
phúc tạp vô cùng!
-
Thế sau lần gặp đặc biệt ấy, bác còn được gặp lại cụ Hồ nữa không?
-
Cũng còn, nhưng những lần gặp sau này thì thật ra là chỉ thấy “ông cụ” thôi chứ
không được tới gần. Bởi những lúc đó, tôi chỉ là kẻ tháp tùng ở vòng ngoài, như
một cán bộ tới góp mặt trong một buổi tiếp tân, chứ không phải là tới để có thể
trao đổi vài câu với “ông cụ”. Vả lại, vì tôi không biết a dua, tâng bốc, nịnh
nọt như mọi người, nên không khi nào được bố trí để “ông cụ” tỏ vẻ thân thiện,
nói chuyện với tôi. Nhưng tôi cũng đã biết, trong nhiều buổi tiếp tân, lễ hội,
lúc “ông cụ” xuất hiện, tươi cười đảo mắt nhìn nhanh mọi người, nhưng cái nhìn
ấy bỗng trở thành nghiêm nghị, ngập ngừng, dừng lại đôi chút, rồi quay quá chỗ
khác khi thấy tôi: Có lẽ lúc đó “ông cụ” nhận ngay ra “kẻ có vấn đề” là
tôi cũng có mặt ở đây. Cảm nhận do kinh nghiệm đã trải qua, tôi biết đối với
ban lãnh đạo sau này, do nhận định tôi vẫn là “kẻ có vấn đề”, nên các
lãnh đạo khác cũng dị ứng, luôn luôn giữ khoảng cách, tránh không tới gần tôi
để trở chuyện, dù chỉ là xã giao, khi họ nhận ra tôi ngay trong đám đông. Sở dĩ
tôi thường được mời tới dự các buổi họp mặt có tính tuyên truyền và ngoại giao,
như vài trí thức khác, vì Trung ương có ý dùng sự có mặt của chúng tôi như một
yếu tố trang trí, ra điều có đông đủ các thành phần trí thức. Trong những dịp
đó, chỉ có vài vị khách nước ngoài là muốn lại nói chuyện với tôi, vì họ đã
biết tôi từ trước…
Đã
hơn một lần, tôi được nghe mấy trí thức khoa bảng than rằng “ông cụ” rất cảnh
giác với những kẻ có bằng cấp. Chỉ những kẻ khiêm tốn, tạng khúm núm vâng lệnh,
ngoan ngoãn đi theo phục vụ “bác” từ thủa hàn vi, thì sau này mới được tin
dùng, và được đề bạt cất nhắc lên. “Ông cụ” là một mẫu lãnh đạo còn mang nặng
tâm thức thời phong kiến phương Đông cổ xưa, cũng y như Mao Trạch Đông, rất tự
tin vào tài đa mưu, túc trí của mình, nên coi đám học thức “không bằng một cục
phân”. Hơn nữa, “ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận “ông cụ”,
không hề có một chuyên viên tri thức nào cố bằng cấp tốt nghiệp Đại học cả. Chỉ
toàn là những hầu cận, cận vệ ít học được “ông cụ” đào tạo, để phục tùng, thì
sau đều được “ông cụ” đề bạt lên thành tướng, thành giám đốc, thành bí thư v v…
Còn giới học thức chỉ được làm việc ở vòng xa bên ngoài. Bởi “tổ chức” muốn bố
trí để “ông cụ” nổi bật trong đám người ít học, y như một đại bàng chúa tể, bày
lượn trên đỉnh Thái Sơn của quyền, lực, ngó xuống chốn sơn lâm chính trị thấp
kém bên dưới với con mắt nghi kỵ, khinh mạn, với cái nhìn vô cùng sắc bén, thấu
hiểu đầu óc từng người… để dễ phân biệt kẻ cận thần, với những đối thủ tiềm ẩn.
“Ông cụ” có tâm thức cảnh giác của một lãnh tụ cách mạng như Stalin, như Mao…
Khốn nạn cho kẻ nào bị “tổ chức” đánh giá như là một địch thủ tiềm năng đối với
“ông cụ”! Tôi nhận thấy các nhà sử học khi nghiên cứu về “bác Hồ”, đã chỉ căn
cứ trên những tư liệu của đảng cộng sản, nên không thể nào nhìn rõ sự thật;
không thể nào hiểu rõ cái biện chứng duy tâm, duy ý chí của lãnh tụ, nên họ
không thể hiểu nổi “ông cụ”. Bởi họ chỉ nhìn thấy “lãnh tụ” qua lăng kính đẹp
đẽ, sáng chói của bộ máy tuyên truyền. Không biết nên đánh giá như thế nào đối
với nhũng bộ óc thông thái, uyên bác “kinh điển” mà cứ trích tư liệu tuyên truyền
của đảng cộng sản như là trích ra từ một thử thánh kinh! Họ chỉ là những ông
thầy bói mù được sờ vào, không phải là một con voi, mà là một con khủng long ba
đầu, chín đuôi!
Có
một điều rất đảng tiếc là các nhà sử học khi tìm hiểu về “cụ Hồ” đã bỏ qua một
thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực do chính đương sự là tác
giả… Đó là ý nghĩa của những biệt hiệu hay những tên giả mà chính “cụ Hồ” đã tự
đặt cho minh qua từng giai đoạn mưu tìm con đường hoạt động, lúc thiếu thời,
khao khát tìm cách tiến thân, tìm đường hoạt động chính trị. Có những cái tên
theo tiếng nước ngoài khá ngộ nghĩnh! Nhưng đáng cầu ý là từ khi tự đổi tên là Tất
Thành (1911) (với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ hành đạt…), rồi cho tới,
sau này thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái
tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh! (1945). Nói chung là với
cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế đã phản ánh một cách
chân thực, những bước chuyển biến trong đầu óc của “ông cụ”. Mỗi lần thay tên,
đổi họ là một bước, có ý nghĩa trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành
lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân
tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc
chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để
đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu
nước chân chính (“Ái Quốc”), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ
(Chí Minh)! Thật ra thì trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể
là do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử mà được người đời sau
công nhận là xuất sắc, là xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng đây lại là
do chính “đương sự” ngay trong hiện tại đầy vấp váp, mà đã tự mình “tặng” cho
chính mình! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu ốc tinh táo, có liêm sỉ,
một bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình là “Vướng”, là “Ái
Quốc”, là “Chí Minh”… như thế. Thật khó mà giải thích một kẻ tự coi minh là
“ông vua”, là bậc “quân tử” siêu phàm, mà lại có hoài bão làm một nhả cách
mạng, một chiến sỹ vô sản, cộng sản! Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách
quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh…!
Đây chỉ là những biểu hiện của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh
tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lí trí, liêm sỉ, đạo lý… Khi tự xưng
tụng minh một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có thể là vì đã quá
khao khát danh vọng. Đấy rõ ràng là một khát khao hành động của một cuồng vọng.
Ngoài ra còn có thể tìm hiểu nội tâm, chỉ hướng của nhân vật lịch sử này qua
một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng cầu mang
nặng một khát vọng trong hai tập sách tuyên truyền “Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” để thấy
rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào học Trưởng Thuộc
Địa của “mẫu quốc Pháp” với hi vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở
thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ mãng của cuồng vọng như
thế, mà “ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo, một
thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để ”cướp quyền”,
để thành công, để chiến thắng! Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi
hài kịch của lịch sử! Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình
như thế, chúng ta có thể hiểu “lãnh tụ” là người cố đầu óc, có tâm trí, có đạo
lý như thế nào! Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự
cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tinh quái như thế! Bởi họ còn thua
“bác Hồ” ở chỗ họ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình! Thật
tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương
thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông
cuồng lộ liễu như vậy. Không ít người bênh vực nói “nhờ vậy mà “ông cụ” đã làm
nên lịch sử”. Xét tới tận cùng lý luận trên những cơ sở như thế, cho phép ta
giải thích những điều đã định hướng cho những hành động, những chọn lựa “khó
hiểu, khó chấp nhận” của “bác Hồ”! Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng,
một mưu trí tột đỉnh tự tôn như thế. Hậu thế, phải đặt trên cơ sở phân tích
thực tại đó, để mà có thể hiểu rõ vấn đề công tội, đạo đức của ”ông cụ”…
-
Cứu xét như thế, thì bác thấy những chọn lựa nào, những phán quyết định nào của
“ông cụ” là thuộc về công, phần nào là thuộc về tội?
-
Không thể dễ dàng đưa ngay ra một lời đáp thoả đáng cho câu hỏi rất quan trọng
này. Có lẽ; phải nhiều thế hệ sau, có khi phải hàng trăm năm sau, qua những
công trình nghiên cứu tập thể nghiêm túc, khách quan thì may ra mời có thể đưa
ra một kết luận có giá trị. Nhưng tôi nêu ra vấn đề là muốn mỗi người chúng ta,
tự xét xem dân tộc đất nước đã thự hưởng những gì, đã chịu đựng như thế nào
những di sản, những hậu quả mà sự chọn lựa lịch sử của “cụ Hồ” đã mang lại… rồi
từ đó mà tự đưa ra lời giải đáp chân thực cho riêng mình. Khi cân nhắc những
chọn lựa, những quyết định có tính lịch sử của “cụ Hồ” thì, về lâu, về dài, sẽ
thấy phần lợi, phần hại là như thế nào. Tôi tin chắc rằng mỗi người dân, từng
trải nghiệm đầy đủ những hậu quả của những chọn lựa hay quyết định ấy, sẽ có
thể rút ra một kết luận công bằng để mà luận công tội cho “ông cụ” mà sẽ không
cần phải tranh cãi với ai… Cái đó là tuỳ mỗi trải nghiệm của mỗi người, tuỳ
theo những vui sướng, những đau khổ hôm qua và hôm nay, của mỗi người.
-
Nhưng bác có thể nêu ra chọn lựa nào, quyết định nào đã mang tính lịch sử trọng
đại của cụ Hồ được không?
-
Thú thật là tôi đã từng có nhận xét phê phán về những chọn lựa và quyết định
tốt và xấu có tính lịch sử của “ông cụ” trước vài cán bộ cao cấp trong “đảng”,
khi nêu ra những thắc mắc lớn như dựa vào ý thức hệ cộng sản để giành dộc lập
thì là tốt hay xấu, nhất là khi so sánh với những nước đã giành được độc lập
quanh ta mà họ đã không dùng tới ý thức hệ ấy… Nhưng chung quanh đã can tôi, đã
khuyên tôi không nên đụng tới những điều nguy hiểm nhậy cảm, có thể bị mất mạng
đó. Có người đã bỏ chạy không dám ngồi nghe tôi phân tích vì sợ liên luỵ… Kể
lại chuyện này để cho các anh thấy việc đánh giá công tội ông cụ là việc làm vô
cùng nguy hiểm, vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh hiện nay ở trong nước, đó là
điều không thể nào làm được…
-
Nhưng ít ra thì bác cũng có thể nêu ra vài thí đụ chứ?
-
Như tôi đã nói, đánh giá sự chọn lựa này là tuỳ theo người, tuỳ theo hoàn cảnh.
Những cán bộ đảng viên nhờ “đảng” mà đã có cuộc sống giàu sang, có và địa vị
thì dĩ nhiên họ sẽ nói tốt cho “bác Hồ”. Những người phải gánh chịu phần thiệt
thời và đau khổ vì những chính sách của “bác và đảng” thì họ sẽ nói là xấu.
Riêng trường hợp của tôi thì lúc đầu tôi cho đó là một chọn lựa tốt, là đúng,
nhưng rồi càng về sau, tôi càng nhận ra rằng chọn lựa ấy đã đưa tới tình trạng
không thể sửa đổi, không thể thích nghi với xã hội ta, với văn hoá của tổ tiên
ta, vì cứ dập khuôn theo đúng mô hình nước ngoài, nhất là của Mao, thì đó thật
sự là một chọn lựa xấu, rất xấu, vì nó hoàn toàn sai, sai từ cái gốc học
thuyết, sai từ lý luận… Tôi chỉ mới hé mở, nêu ra sơ sơ như thế mà đã bị vĩnh
viễn đẩy ra bên lề chính trị. Nhưng vì thế mà “ông cụ” vẫn muốn theo dõi đầu óc
tư tưởng, lý luận của tôi… Nếu cứ bảo lưu cái ý thức hệ “duy nhất đúng” này thì
dĩ nhiên sẽ có ngày nó bị đào thải bẵng sự đổ vỡ thảm khốc! Và cho tới nay, ở
vài nơi, ta đã thay nhiều lần xảy ra những đổ vỡ như vậy.
-
Thế còn các lãnh đạo khác, sau “bác Hồ”, thì họ có chú ý tội tư tưởng của Trần
Đức Thảo không?
-
Vẫn có chứ! Vì họ lúc nào cũng e ngại, nghi ngờ tôi. Vì tôi lúc nào cũng cố bắc
cầu, bắn tiếng, tìm cách truyền đạt những điều hay, lẽ phải của sự thật, Thế
nên lúc náo họ cũng muốn theo dõi xem ý kiến của tôi là như thế nào, tuy họ rất
e ngại và không ưa những ý kiến ấy. Vì những góp ý của tôi luôn luôn hướng về
chân thiện mỹ, nên đôi khi họ cũng đồng ý cho tôi gặp một cách miễn cưỡng.. Tôi
còn nhớ lần gặp gay go với tổng bí thư Trưởng Chính, sau cái vụ tôi vùng lên
muốn đấu lý với cố vấn Trung Quốc. Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thì rất gờm
tôi, vì biết tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. Còn một lần gặp riêng ông Lê
Duẩn thì rồi ông ấy cũng không ưa tôi, vì lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư,
ông ta muốn tôi chấp bút viết hồi ký cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả tiếng
đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả lời thẳng là
tôi nghe ông nói mà không hiểu gì cả! Vì thế sau này ông ấy cũng cay ghét tôi,
đến nỗi không muốn sự có mặt của tôi ở những nơi ông đi qua… Lúc tôi vào Sài
Gòn thì được nghe những câu chuyện ly kỳ của phe chủ chiến đến cùng, mà đứng đầu
là cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ… Phe này đã gây bè phái, rồi nắm được đa số trong
bộ chính trị, đến mức đã chèn ép, cô lập được chính cả “cụ Hồ” trong giờ phút
nghiêm trọng. Bởi lúc ấy “ông cụ” hình như muốn xây dựng một miền Bắc xã hội
chủ nghĩa cho thật là ấm no trước đã. Võ Nguyên Giáp là người “nhất trí” với
“ông cụ”. Vì thế mà cánh Lê Duẩn đã phê phán, phao ra lập luận là “Giáp sợ Mỹ”.
Chính cánh này còn tìm cách triết hạ uy tín của Giáp bằng cách tung tư liệu
chứng minh Giáp là con nuôi tên trùm mật thám Marty, Giáp thắng trận Điện Biên
là nhờ mấy tướng Trung Quốc “bày binh bố trận”. Trong giới đảng viên cao cấp có
cả một giai thoại ly kỳ về “âm mưu cất cái mũ phớt”, vì Giáp là đảng viên duy
nhất vẫn ưa đội mũ phớt kiểu công tử Hà Nội khi đi tìm cách mạng! Giai thoại
này chứng tỏ chung quanh “ông cụ” có nhiều phe cánh lình chống nhau, ngầm hạ uy
tín của nhau rất là tản nhẫn: Vả điều đó cho thấy “ông cụ” lúc lên tới đỉnh cao
quyền lực thì đã lâm vào hoàn cảnh của một phù thuỷ không còn điều khiển được đám
âm binh hung bạo, tuỳ tiện, hỗn xược đo chính mình đã tạo
Ch13: Thân phận những con rối
Rồi bỗng bác Thảo tự gỉễu chính mình:
-
Lúc ấy tôi tự mắng tôi: “Mày muốn làm cái anh vô sản chính cống nên bây giờ
túng quẫn, còn than khổ, than đói nỗi gì nữa?” Thật sự là cảm thấy chính mình
đang là thẳng ngớ ngẩn. Bị mấy ông nhà văn, nhà thơ chế giễu là tên ngớ ngẩn!
Vì hắn không biết noi gương “bác Hồ”, nên bị thằng lớn nó đì, thằng nhỏ nõ giỡn
mặt. Thế là nổi lên tiếng tăm của anh gàn, anh bướng, anh khùng. Lức nào cũng
sống như một anh hề ngơ ngác để chung quanh giễu cợt. Nhưng khổ nỗi là không
được no đủ như anh hề trong gánh hát mà chỉ là anh hề đói khổ trong cuộc đời!
Bỗng thấy anh hề Trần Đức Thảo sống sao mà ngu si, đần độn quá, nên nhịn cười
không được. Phải bật phá lên cười, cứ cười như người… điên. Mà điên thật! Cười
đến phát khóc! Ha! Ha! Hà! Bố mẹ nuôi nấng, cho sang Tây ăn học, nay trở thành
thằng điên, thằng khùng trong xã hội! Ha! Ha! Ha!
Kể
tới đó, bác Thảo ngưng cười, thở dài, lắc đầu, nhưng rồi bỗng lại bật tiếng
cười rũ rượi, hồn nhiên, cười đến chảy nước mắt, phải lấy tay áo chấm mắt mà
vẫn còn cười sặc sụa! Chúng tôi kinh ngạc, đầy thắc mắc vì cơn cười lạ lùng ấy.
Đấy là cơn cười đậm nét cay đắng, đau khổ, chứ không phải vì vui. Nhưng bác lại
có vẻ tự đắc vì chính nỗi gian truân, khổ ải của mình. Bác hãnh diện giãi bày
cái khốn khổ ấy như nêu một thành tích của một trí thức Chúng tôi nhìn cảnh ấy
mà không cười theo được, vì thấy thảm quá.
Đã
hơn một lần chúng tôi ngồi bàn với nhau về nụ cười Trần Đức Thảo! Bởi thật sự
là trong những lời tâm sự ấy, chẳng có gì vui để cười. Cảm tưởng là con người
này không phải sinh ra để vui sống, để làm một thẳng hề, mà chỉ có thể là một
thân phận bị lưu đầy, trong một đại bi kịch.
-
Tại sao bác lại có thể bật cười như vậy? Bác không thấy sống như thế là bi thảm
sao?
-
Tai tôi bỗng nhớ lại một mẩu chuyện cười, nó khơi dậy cả một giai đoạn bi hài
trong cuộc chiến tranh được gọi là “chống Mỹ cứu nước”.
Lúc
đó dân chúng đã kể cho nhau nghe để mà cười cay đắng với nhau, Đó là vào đầu
năm 1973, khi vừa ký kết hiệp định Paris để kết thúc việc Mỹ tham chiến ở Việt
Nam. “Đảng” rầm rộ tuyên truyền là ta đã buộc được Mỹ phải ký kết hiệp định để
rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đảng nói đấy là cuộc đấu trí “thần kỳ”
giữa hai bộ óc được coi là mưu trí nhất của thời đại! Phe ta là đồng chí Lê Đức
Thọ, phe Mỹ là Henry Kissinger. Tại Hà Nội, một số trí thức bên ngoài “đảng” và
tôi đã hết sức tò mò, theo dõi, tìm hiểu các điều khoản bí mật đã được thoả
thuận ngầm với nhau của hiệp định tái lập hoà bình tại Việt Nam đã được ký kết
ở Paris năm 1973 có một số bí mật của phía ta, thì rồi chúng tôi cũng đã biết
phần lớn về phía Mỹ thì dĩ nhiên là phải dựa trên những tiết lộ rất phong phú
của báo chí Mỹ và thế giới. Chúng tôi có hai thắc mắc lớn trong chính sách của
Mỹ lúc ấy. Một là tại sao cuộc tổng tấn công nổi dậy do ta bí mật phát động
thật là bất ngờ, hồi Tết Mậu Thân 1968, ở miền Nam, nhưng ta đã hoàn toàn thất
bại, lực lượng của ta tại miền Nam bị kiệt quệ, bị tổn thất nặng nề vì nhân dân
miền Nam không nổi dậy tiếp tay với ta như ta đã trù liệu. Vậy mà Mỹ lại nhương
bộ, chấp nhận các điều kiện của ta, đặc biệt là điều kiện phải để cho Mặt trận
Dân tộc Giải phóng do ta chủ động ở miền Nam được tham dự hội nghị ngang hàng với
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, gọi là Việt Nam Cộng Hoà. Thắc mắc lớn thứ nhì là
cuộc oanh tạc của Mỹ vào miền Bắc năm 1972, lúc đó ta vô cùng bối rối, đến mức
nếu nó đánh bom kéo dài thêm vài tháng nữa thì ta sẽ phải nhượng bộ trong bất
cứ điều kiện nào. Vậy mà bỗng Mỹ ngưng ném bom, để cho cuộc thương thảo ở Paris
bước vào giai đoạn kết thúc, mà cả thế giới đều thấy là có lợi cho ta. Phía ta
thì khoe đó là do tài trí của trưởng đoàn Lê Đúc Thọ.
Bác
Thảo kể thêm:
-
Trong dân gian lúc đó, có giai thoại được phổ biến rất rộng rãi, rằng đồng chí
Lê Đức Thọ đã tiết lộ với vài nhà báo thân cận một thành tích đấu trí với
Kissinger, khiến hắn từ đó phải nể mặt đồng chí Thọ. Mẩu chuyện đấu trí vui ấy
đã được phổ biến trong các tầng lớp nhân dân, như một thành tích “thắng lợi vẻ
vang” của “ta”!
Chuyện
kể rằng lần đầu tiên bí mật gặp riêng Kissinger ở vùng ngoại ô Paris, Lê Đức
Thọ chìa tay trước để bắt tay Kissinger, tên này cũng vui vẻ chìa tay ra và hai
bên xiết tay nhau. Sau đó, Kissinger chơi trò khinh bỉ ta, y thò tay vào túi
lấy khăn “mù-xoa” lau bàn tay vừa bắt tay Lê Đức Thọ, rồi bỏ lại khăn tay vào
túi quần! Đồng chí Lê Đức Thọ liền có phản ứng tức thì, đồng chí cũng rút khăn
ra lau tay, nhưng sau đó vứt bỏ luôn khăn tay xuống đất chứ không bỏ lại vào
túi! “Kissinger từ đấy về sau không dám giở trò gì nữa”.
Kể
xong câu chuyện “đấu trí” kiểu trẻ con ấy, bác Thảo nói:
-
Sự khoe thành tích đấu trí như vậy, đã làm anh em trí thức Hà Nội nực cười. Trí
tuệ gì, ngoại giao quốc tế gì cái trò láu cá vặt đó. Vì sự thật, ở bên lề hội
nghị, toàn là những nhân nhượng quan trọng rất bí mật trong cuộc thương thảo
giữa hai bên, mà phần quyết định trọng điểm là do thoả hiệp giữa Trung Quốc với
Mỹ! Sau này có lần gặp riêng nhà báo cộng sản người Úc Winfred Burchett, ông
này giải thích tận tình cho tôi hiểu về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của
Mỹ trong việc giải quyết “vấn đề” Việt Nam! Theo Burchett thì Mỹ nhúng tay vào
miền Nam Việt Nam vì coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bế
quyết tâm bảo vệ Nam Việt Nam, vì đấy là một “tiến đồn của thế giới tự do”.
Điều này có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng này không để nó lọt vào trong bức màn sắt
của khối cộng sản. Nhưng Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt “Bắc Việt Cộng sản”
để tiến tới thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh
đối với Mỹ luôn luôn nằm trong sách lược của kinh tế thị trường toàn cầu.
Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém và bị
dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ, đứng đầu là Kissinger,
đã đề xa một giải pháp khác. Vì đã không bảo vệ được thị trường miền Nam Việt
Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua giải pháp tìm thị trường thay thế bằng
con đường hoà bình: cách này ít tốn kém mà bền vững hơn. Bởi Mỹ, trên nguyên
tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy
cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đã làm cho “cộng sản” kiệt
sức, thì đó là lúc tốt nhất để đưa “địch” ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi
thấy cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam hồi 1972, đã đủ cho Hà Nội thấm đòn, thì
Mỹ liền ngừng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện, thuận lợi cụ thể, để Hà Nội
chịu kỷ kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Tất
cả là dùng lá bài hoà bình thay thế cho lá bài chiến tranh. Cũng để tỏ rõ chính
sách của Mỹ như thế, liên hạm đội 7 rất hùng hậu quả Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo
ở ngoài khơi Việt Nam, vậy mà lực lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân
Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa (Paracels) của Nam Việt, hồi 1974. Sự án
binh bất động này có nghĩa rõ là Mỹ không coi Nam Việt Nam là tiền đồn nữa.
Ngay từ khi đại quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng
để giữ đất, để dung hoà chứ không hề có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra miền
Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở miền Bắc. Dù là đã oanh tạc miền Bắc, nhưng
chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hoà bình, nhằm
đánh địch băng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài đó sau này đã làm cho Hà
Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội, tuy đạt chiến thắng,
nhưng lại phải chấp nhận mọi điều kiện để Mỹ nó bỏ cấm vận. Rồi sau đó là Hà
Nội lại trải thảm đỏ long trọng đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại. Từ đó, chính thức
mở cửa cho vốn của khối tư bản tràn vào tự do tung hoành trên toàn bộ nước Việt
Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ này không chấp nhận
các cuộc đình công đòi quyền lợi của các công đoàn thợ thuyền. Một chế độ như
thế thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn
dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Bây giờ thì kết cuộc đã rõ rệt
của ván bài “ai thắng ai” trong cuộc đấu trí ấy. Bây giờ đã lộ rõ ai là mưu
trí, ai là trí tuệ. Nực cười và bi thảm là như thế.
Kể
tới đó, tâm sự tới đó, bác Thảo bật cười, nhưng rồi lại nghiêm nét mặt, thở dài
chán nản:
-
Công cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại đồng…
như vậy là đã hoàn toàn tan vỡ, sau khi đã hi sinh tính mạng của hàng bao nhiêu
vạn bộ đội! Bây giờ thì không còn phải chống Mỹ cứu nước nữa. Giờ đầy là phải
tìm lối thoát ra khỏi chế độ bao cấp, dẹp bỏ mục tiêu tự tức tự cường, phải bám
theo Mỹ để cứu nước. Cả một nền kinh tế toàn cầu dưới sự áp đảo của đồng đô-la
Mỹ, cả một nền văn hoá sống cuồng, sống vội, hừng hực sinh lực thực dụng của
văn hoá Mỹ, nay nó tự do tràn vào như thác đổ, nhậu một xứ sở đã bị kiệt quệ
đến xương tuỷ vì chiến tranh và cách mạng. Một nền văn hoá nông nghiệp rệu rạo
đã bị kiệt sức đến trống rỗng, sau bao năm chiến đấu “tự lực tự cường”, chỉ
biết hỉ sinh và chịu đựng, nay làm sao cưỡng lại lối sống no nê, phè phỡn kiểu
Mỹ như thế! Tương quan lực lượng giữa một nền kinh tế lạc hậu với nền văn hoá
nghèo túng và kìm kẹp như vậy thì làm sao cưỡng lại trước sức tràn ngập của nền
kinh tế dư thừa và của nền văn hoá tự do sống cuồng, sống vội của Mỹ! Tới đây
ta, sẽ thấy tuổi trẻ nông thôn cũng thì đua “quần bò, áo phông”, cũng son, cũng
phấn lòe loẹt như ở bên Mỹ thôi!
Giờ
đây cả nước đều “phấn khởi hồ hởi” vì được “hoà nhập”! Cửa đã rộng mở để cho
vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào! Giờ đây, trước mắt mọi người, tên Thảo
này bỗng chỉ còn là thân phận của một con rối, đã lỗi thời về tư tưởng, đã quá
cổ hủ vì không biết làm “con phe, con phẩy” để “kinh doanh”. Tôi nay chỉ mang
thân phận một con rối đau đớn. Bởi đã thấy rõ trước tất cả nguy cơ tai hại của
sự phát triển quá trớn, không giới hạn của khối tư bản. Giờ đây quê hương ta
đang cuồng nhiệt lao vào đà phát triển xổi thì theo ý hướng của đồng USD, của
những thế lực siêu đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Sự thật là đằng sau các
đại công ty mang danh hiệu là của Đài Loan, của Đại Hàn, của Singapore thì đều
là của đồng đô-la Mỹ! Thế là thiên nhiên giàu, đẹp của ta đã và đang bị tàn phá
không thương tiếc. Tôi rất đau lòng đứng nhìn sức mạnh tung hoành của đô-la Mỹ trên
đất nước ta. Dân ta nay mừng rỡ được hội nhập kinh tế tư bản. Các nước quanh
ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thể chiến thứ hai cùng với ta,
nhưng do họ không có thứ “lãnh đạo thần thánh”, nên họ không phải hi sinh như
ta, không phải đổ ra nhiều xương máu như ta. Và họ đã giành được độc lập và ấm
no trước ta cả nửa thế kỳ… Như vậy cái công lao, cái tài lãnh đạo thần thánh
ấy, sự thật chúng là công hay là tội? Rốt cuộc nay thì đã phải trải thảm đỏ đón
mời Mỹ trở lại! Trong khi đó Tàu đang ức hiếp ta, đang gậm nhấm vùng đất, vủng
biển của ta, vẫn đang công khai tiếp tục trắng trợn lấn chiếm một số hải đảo ở
vùng Trường Sa, Hoàng Sa của ta! Và ta vẫn cứ kiêu hãnh hát vang bài ca “đại
thắng”! Đại thẳng gì mà giang sơn gấm vóc tổ tiên để lại nay đã bị tiêu hao vào
tay mấy “đồng chí vĩ đại” như thế? Đau lòng lắm! Đau lòng lắm!
-
Con một thắc mắc này nữa muốn hỏi bác, có phải Mỹ vẫn đang duy trỉ ván bài lá
cờ vàng ở Mỹ để sau này tìm cách đánh phá, lật đổ ta phải không?
-
Tôi tin chắc là không phải vậy. Vì nước ta nay hoàn toàn là một thị trường vững
chắc của phe tư bản rồi, thì nó tính đánh phá ta làm gì cho phí công sức, cho
xáo trộn thị trường của nó. Vấn đề lá cờ Vàng là một phản ứng hoàn toàn do ta
gây ra. Phải nhớ rằng lúc đầu, cuộc cách mạng tháng tám đã thành công hoàn
toàn, thì lúc đó đã làm gì có lá cờ vàng. Lúc đó cả nừớc đều vui mừng trung lên
cờ đỏ sao vàng: Đó là giai đoạn cả nước đồng lòng đứng lên cướp chính quyền để
giành độc lập… Nhưng sau đó là giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
bắt đầu trưng cờ đỏ búa liềm tràn lan ra ở khắp nơi. Bắt đầu chính sách loại
trừ thành phần “con đẻ của thực dân phong kiến”, loại trừ “các đảng phái phản
động”. Chính từ lúc này là bắt đầu triệt để phân loại, phân chia dân tộc ra làm
nhiều thành phần… vì cuồng tín chủ nghĩa đã đẩy ra bên ngoài xã hội một số đông
người yêu nước nhưng không yêu xã hội chủ nghĩá! Và là cờ vàng đã phát sinh ra
từ đó, rồi đã trở thành một biểu tượng “quốc gia” để đối đầu với lá cờ đỏ sao
vảng “của cộng sản”! Sự chia rẽ dân tộc, sự đối đầu ấy là do đâu? Tại ai? Ngày
nay vấn đề nhậy cảm này, thực chất là rất dễ thấy và rất dễ hiểu. Việc cả triệu
người di tản vào miền Nam năm 1954, rồi sau ngày 30 tháng tư, 1975 là cuộc tháo
chạy của cả triệu người liều chết lao ra biển, và đã trở thành phong trào
“thuyền nhân” đã làm cả thế giới xúc động. Những hình ảnh cho thấy đấy là một
thảm hoạ của dân tộc mà mỗi người chúng ta trực tiếp có trách nhiệm. Nói rõ ra
thì đau đớn lắm… Vấn đề lá cờ vàng này không ai có thể giải quyết ngoài những
người Việt chúng ta với nhau. Nhưng là phải giải quyết hết sức trí tuệ, chứ
không thể dùng mưu kế dối gạt, cũng không thể giải quyết bằng bạo lực và hận
thù. Phức tạp và khổ tâm lắm! Đau lòng lắm!
-
Bác nói ngoài chúng ta ra không ai có thể giải quyết vấn đề lá cờ vàng, là sao?
-
Thì như tôi đã nói, chỉ có chúng ta mới hiểu rõ vấn đề ấy. Vì thế mà đã tới
chính sách “hoà giải, hoà hợp dân tộc”… Nhưng chỉ là nói thôi chứ chưa hề làm,
thực tế là chưa hề có nỗ lực hành động “hoà giải” nào cả! “Hoà hợp” thì lại
càng không có. Chỉ toàn là những cú phá hoà giải, phá hoà hợp thôi. Hoà giải là
phải nhìn nhận nhau, tôn trọng nhau. Ngay sau tháng tư 1975, cách mạng đã khẳng
định bằng lời tuyên truyền rằng trong cuộc chiến tranh giành độc lập, thống
nhất đất nước của đại gia đình dân tộc ta, giữa chúng ta không có kẻ thắng,
người thua, chỉ có nước Mỹ thua thôi. Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam đã
ra lệnh cho quân lính của miền Nam buông súng, để tiết kiệm xương máu. Tuy vậy
trong thực tế cho tới nay, người của chế độ cũ ở miền Nam vẫn bị đối xử như là
địch, là thù, là nguỵ… với biện pháp giam giữ hàng loạt, trong một chính sách
trả thù đại trà, với kế hoạch ”học tập cải tạo tập trung”. Bao nỉiiêu vạn công
chức và sĩ quan của miền Nam đã bị giam giữ vô hạn định rất tàn nhẫn, trong
nhiều năm, trong các trại tập trung bị che giấu trong các vùng rừng sâu, nước
độc như vậy thì làm sao coi đó là hòã giải hay là hoà hợp được!
Tây
Đức đã thống nhất với Đông Đức, có xảy ra cảnh tù đày hàng loạt như thế đâu!
Gần ta hơn thì việc Trung Quốc, sau khi cố dùng sức ép của vũ lực để đánh phá
triệt hạ Đài Loan, làm mãi mà không được, nay thì họ đành có chính sách thật sự
hoà giải, hoà hợp với Đài Loan bằng sự công nhận, sự tôn trọng Đài Loan rồi đó!
Cờ ”thanh thiên bạch nhật” trên các phi cơ thương mại Đải Loan đã tự do bay vào
Trung Quốc đấy! Bài học tốt đẹp ấy, sao chúng ta không học hỏi? Tại sao ta cứ
cố duy trì tình trạng thù hận, rất trái với tinh thần thống nhất dân tộc như
vậy? Đây là thảm kịch nan giải của người Việt Nam chúng ta! Mà tôi coi đó như
là thảm kịch của riêng những người ưa suy tư như tôi và dĩ nhiên là của cả đám
môn đệ “bác Hồ”!
Nói
tới đó, rồi bác Thảo im lặng hồi lâu. Lúc này chúng tôi thấy bác Thảo nổi bật
như một người, lúc cuối đời, đầu óc trĩu nặng tâm tư, đầy ân hận, hối hận rất u
buồn, đau đớn, và đang tìm cách gì đó để giải toả thảm kịch của chính mình!
Mà
bác Thảo khi nói tới bi kịch Việt Nam, thảm kịch Việt Nam thì thường liên tưởng
tới “bác Hồ”. Thấy cứ nhắc hoài tới “bác Hồ”, nên tôi hỏi:
-
Nghe bác nói thế, tối vẫn có cảm tưởng là bác mang tâm tư oán trách “cụ Hồ” và
đảm đàn em lắm phải không?
-
Tôi đã nói rồi. Nêu ra thảm kịch này không phải là để gây thêm oán, thêm thù.
Khi kể ra những trải nghiệm vui, buồn của của dân tộc, của hôm qua và hôm nay,
thì không thể không nhắc tới “ông cụ”. Khi nhắc tới nhũng “thắng lợi vẻ vang”,
không thể quên được những mất mát những đau đớn mà nhân dân vẫn còn phải gánh
chịu dài dài như không bao giờ kết thúc. Rõ ràng là trong bi kịch của đất nước
ta, chiến thắng là công, nhưng chiến tranh là tội. Công và tội gắn liền với
nhau. Đối với một thời đau khổ, đối với một lãnh tụ có trách nhiệm, thì nói tới
công lao của lãnh tụ, thì đương nhiên cũng phải nhắc tới tội lỗi của lãnh tụ.
Vì vậy mà phải phân tích, tìm hiểu cho cặn kẽ đâu là công, đâu là tội đích thực
của lãnh tụ, để tìm hiểu giới hạn trách nhiệm của những quyết định nặng nể hậu
quả nghiêm trọng trong lịch sử cận đại. Vì thế nên phải tìm hiểu cặn kẽ “ông
cụ”, phải nghiên cứu, phân tách những chuyển biến tư tưởng qua từng bước thay
đổi, từ những giai đoạn đổi tên, đổi họ, từ những tính toán khởi nghiệp, từ lúc
đã tự chọn cho mình những cái tên như “Tất Thành”, rồi là “Vương”, rồi là “Ái
Quốc”, chót hết là “Chí Minh”…! Nội việc bỏ họ Nguyễn, lấy lại họ gốc là Hồ cũng
là cả một chứng nghiệm tâm lý chính trị cần được nghiên cứu. Phải chỉ ra cho
dân, cho chế độ, cho cả “đảng”, thấy rõ, hiểu rõ “ông cụ” là người thế nào, đã
bị tham vọng đam mê chi phối từ trong nội tâm, tới ở bề ngoài ra sao.., để từ
đó nhận ra những giá trị tương đối, hiểu rõ trách nhiệm hạn chế của “ông cụ”…
-
Như thế là bác muốn đả phá tham vọng của “bác Hồ “ phải không?
-
Tôi không đả phá, nhưng tôi chỉ ra đấy là do tham vọng, do cuồng vọng không gì
lay chuyển nổi của “ông cụ”. Bởi đã sống trong nỗi đau của dân tộc, đã có trăn
trở của con người triết học trong triển khai bạo lực cách mạng, nhất là sau
kinh nghiệm tàn nhẫn của cải cách ruộng đất, nên tôi đã ý thức được rằng chính
“ông cụ” đã phải cố ý sa vào sai lầm lớn khi tuyệt đối tuân theo sự thúc đẩy
của Mao, nên tôi thấy phải can đảm, phải thẳng thắn, phải có tham vọng nêu
ra tất cả sự thật lịch sử rất tàn nhẫn liên quan tới “ông cụ”!
-
Trời đất! Bác mà cũng có tham vọng, thật sao? Tham vọng ấy có lớn không? Có
sánh được với tham vọng của “bác Hồ” không?
-
Nói về tham vọng của tôi thì thật sự là tham vọng của “bác Hồ” không tham vào
đâu cả!
-
Bác giỡn đùa hay lắm. Như vậy là bác cũng là bậc tổ sư kiêu ngạo đấy!
-
Tôi không giỡn, tôi không kiêu ngạo, nhưng sự thật là tôi có tham vọng cao hơn
của “bác Hô” nhiều lắm!
-
Bác giễu còn hay hơn cả chú hề trong rạp xiếc rồi đấy!
-
Tôi không giễu! Đây là tôi nói thật. Mà thằng hề cũng có tham vọng của nó chứ.
-
Thế tham vọng của bác là cái gì? Là bác sẽ làm gì?
-
Là tôi sẽ xây dựng tại Việt Nam một lâu đài.
-
Lâu đài ấy bao lớn?
-
Phải nói đó là một lâu đài vô cùng vĩ đại sống ở đâu cũng thấy nó.
-
Ai sẽ sống trong lâu đài ấy?
-
Ai cũng có quyền, sống trong lâu đài ấy. Cả nhân loại đều có thể tới sống trong
lâu đài ấy. Tham vọng của tôi là lo tìm hạnh phúc đích thực cho toàn thể nhân
loại!
-
Trời đất! Bác định xây lâu đài ấy ở đâu?
-
Ở ngay trong đầu mỗi con người. Đó là một lâu đài tư tưởng. Cho tới nay, không
một người Việt Nam nào đã có một tham vọng toàn diện như vậy, kể cả “bác Hồ”.
Mưu đồ phát triển một cuộc cách mạng mà cả nhân loại mong chờ thì đấy không
phải là một tham vọng vĩ đại sao? Cuộc sống gian khổ của dân ta và của tôi đã
chuẩn bị vật liệu để tôi xây cất ngôi lâu đài ấy. Đấy là một lâu đài của tinh
thần và lý tưởng dân chủ, của một nền công bằng xã hội chân chính, nền móng của
lâu đài ấy là công lý nghiêm minh, thắp sáng bởi đạo lý. Lâu đài ấy sẽ không
chấp chứa những gì thuộc về xảo trá, hận thù, thủ đoạn ma quỷ. Sống trong lâu
đài ấy con người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lý tưởng bằng lương tri, trí
tuệ, bằng luật pháp nghiêm minh, với sức mạnh của công lý, công bằng, chứ không
phải bằng bạo lực của hận thù. Trong lịch sử loài người, chưa có ai xây được
một lâu đài như vậy. Đã có vài nhà lãnh đạo nỗ lực xây dựng một vài lâu đài
kiểu ấy. Nhưng khi xây, thì đã đúng tới những động lực của hận thù, dùng tới
phương pháp của sự độc ác, gian xảo, nên đã làm hư hỏng hết cả. Bởi trong một
xã hội lạc hậu, con người tốt thì hiếm, nhưng con người xấu xa, hư hỏng thì
nhiều. Những lâu đài kiểu ấy, khi xãy dựng xong thì luật pháp của nó đã bị biến
thành luật rừng, xã hội của nó chỉ là gian trá, quỷ quyệt… Những thứ lâu đài ấy
chỉ làm cho con người thêm khổ, xã hội thêm loạn. Lâu đài của Trần Đức Thảo sẽ
là thứ lâu đài trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của mình,
quyền dân chủ băng lá phiêu của mình… Một lâu đài như vậy không phải là vĩ đại
sao? Ha! Ha! Đấy không phải là một cuồng vọng cao hơn, lớn hơn, đẹp hơn, trong
sáng hơn là cuồng vọng của “bác Hồ” rất nhiều hay sao? Các anh thử trả lời tôi
đi!
-
Chi có thể hỏi lại bác là lâu đài ấy có phải là cũng không tưởng, cũng là quả
duy tâm, quá siêu hình hay không?
-
Không hể có gì là không tưởng hay duy tâm, siêu hình gì đâu. Nền tảng của lâu
đài ấy: toàn là những đòi hỏi của tình trạng thực tế xã hội đen tối, bế tắc của
cách mạng hiện nay. Những gì tôi quan sát hằng ngày, trong cái hiện thực đau
đớn của cuộc cách mạng trước mắt, thì tất cả những cái đó đã chất vấn tôi, đã
quy trách nhiệm cho tôi. Tôi không thể thờ ơ trước những nhức nhối của con
người, của xã hội, Những chất vấn ấy, những thôi thúc ấy bắt tôi phải hành động
theo khả năng lương tri và tri tuệ của tôi. Do đó lâu đài của tôi là do hiện
thực xã hội đòi hỏi và đặt nền tảng. Nghiệm sinh thực tại tàn nhẫn đã đặt nền
móng cho cuồng vọng của tôi, để cho lâu đài ấy thật sự là có nền tảng duy vật
sử quan. Còn tham vọng của “bác Hồ” thì khác hẳn. Tham vọng của “bác Hồ” thì
một phần do học thuyết sách vở chưa đọc kỹ, tư duy xổi thì chưa tiêu hoá được,
một phần còn là do mưu trí chính trị cực kỳ cơ hội mà ra… Đây là tôi nói và làm
sự thật. Không có lâu đài ấy thì loài người còn khổ, còn lâu mới tìm được hạnh
phúc… Tôi đã nghiền ngẫm, thiết kể cho ngôi lâu đài ấy từ lâu rồi. Bởi hàng
ngày trong đầu luôn luôn có cuộc xung đột giữa cái tôi khao khát hành động với
cái tôi lo sợ sẽ bị xử tiêu nếu lộ ra ý hướng phản biện. Một bên là quyết phải
làm một cái gì cho đất nước và dân tộc, chẳng lẽ cứ im lặng như đầu hàng… một
bên là sự khôn ngoan muốn bảo vệ tính mạng, nói thẳng ra là cái sự hèn vì sợ.
Trong suốt bốn chục năm qua, tôi không sợ sống vất vả về điều kiện vật chất, mà
tôi đã sống rất căng thẳng vì trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc xung đột với
chính tôi giữa cái tôi triết học với cái tôi khôn ngoan sống hèn trong chế độ
đầy sai trái này. Cuộc xung đột ấy đã bước tới phần kết thúc khi tôi được vào
sống ở Sài Gòn, chịu ảnh hưởng của người Sài Gòn…
-
Khi nhìn nhận có một cuộc xung đột như vậy, với mộng ước xây dựng một toà lâu
đài như vậy, thì có phải là bác đã quá không tưởng và kiêu ngạo không thua gì
Cụ Hồ hay không?
-
Tôi cũng xin thành thật trả lời rằng mỗi khi nghĩ tới công việc của một nhà
triết học, thì tầm cỡ của mộng ước là rất cao, rất sâu, rất rộng… nên nó dễ bị
hiểu lầm là một thứ kiêu ngạo, ngông cuồng không tưởng. Tôi vì triết học mà nghĩ,
mà làm, chứ không phải vì kiêu ngạo! Nếu kiêu ngạo thì đã không bị cái sợ chi
phối gần cả đời người!
-
Nhưng một lâu đài như thế thì nó có tính khả thì hay không?
-
Nó rất có tính khả thi!
-
Trong thực tế thì bác sẽ xây dựng nó bằng cách nào?
-
Bằng một cuốn sách. Và tôi đang hoàn thành cuốn sách ấy. Marx cũng đã xây dựng
một lâu đài như thế, và cũng bằng một cuốn sách, chỉ tiếc là có nhiều người từ
cuốn sách, từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra, thì họ đã trở thành ác
quỷ. Cuốn sách của tôi là một món nợ mà tôi phải trả cho triết học, cho nhân
loại, chẳng những thế mà còn là món nợ mà tôi phải trả cho dân tộc, vì cái mộng
về nước lúc đó của tôi của tôi là xây dựng một mẫu mực, một mô hình cách mạng
mà dân ta mong đợị. Bởi thế mà lâu đài của tôi, tức là cuốn sách của tôi, trong
đó, nhân dânh chân lý, tôi sẽ đặt nặng những vấn đề nhân bản, công lý và dân
chủ, bằng những cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền lực, với những cơ sở lý luận và
pháp lý, để những ai từ đó đi ra sẽ không thể trở thành ác quý. Chính vì lâu
đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra, những lãnh tụ đã đã thành những ác quỷ
tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng sản đã bị hi sinh
một cách oan uổng, vô ích… và ở nước ta đã có hàng triệu người bỏ làng mạc, bỏ
mồ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và rồi cũng đã có hàng triệu người đã
liều chết bỏ nhà bỏ của chạy ra biển gây thảm cảnh “thuyền nhân” sau năm 1975 …
làm cả thế giới rơi lệ. Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm
mùi lâu đài “thế giới đại đồng” của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ
muốn đi tìm nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự!
-
Bộ bác cũng băn khoăn với khát vọng đi tìm tự do và hạnh phúc sao?
-
Ai mà không có khát vọng đi tìm tự do và hạnh phúc! Khổ nỗi là con người không
biết làm sao tìm. Và đã có bao dân tộc, đã bị lãnh tụ, theo chỉ dẫn của Marx,
mà đã dẫn dân vào con đường bế tắc chứ khỡng tiến tới được thế giới đại đồng!
-
Theo bác thì có thể tìm tự do hạnh phúc ở đâu?
-
Tìm ở nơi không có con quỷ quyền lực và con quỷ chiến tranh nó ám. Tìm ở nơi có
nhà nước biết dùng phần lớn ngân sách để lo cho phúc lợi của nhân, dân, chứ
không dùng ngân sách nhà nước để củng cố đảng cầm quyền, để chuẩn bị những cuộc
chiến tranh phiêu lưu, để làm những điều không tường để củng cố cho một “đảng”
được vĩnh viễn cầm quyền, để phát triển triệt để guồng máy đàn áp để đảng tồn
tại, mà coi nhẹ việc tạo phúc lợi cho nhân dân! Người ta bỏ đi vì họ không muốn
bị hi sinh, mà là họ muốn tìm tự do hạnh phúc, ở nơi công an không canh chừng
dân chúng như canh tù, không làm khổ nhân dân vì thủ đoạn vu khống, chụp mũ.
Phải biết rằng: chỉ có quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con
người. Kẻ vênh váo, cảm thấy vui khi làm khổ, làm nhục con người thì không phải
là người mà là quỷ, là kẻ bị con quý quyền lực nó ám trong đấu. Mà quỷ ấy là
ai? Là gì? Quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung bạo của quyền lực. Quỷ
ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù, là
những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con người, nó thúc đẩy con ngườì
lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỷ kế,
để mưu đồ cùng cố cho chế độ độc tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc
đảng ấy đều là phù phiếm, vì chúng đã làm khổ con người! Xét như vậy là thấy rõ
là quỷ nó vẫn ở với người, vẫn ở trong trong con người lãnh đạo. Bàn sâu vào
thực tại của quỷ ở quanh mình thì bi thảm lắm! Vì chính trị và chiến tranh cách
mạng là cơ hội thao túng của quỷ. Quỷ nó quậy trong đầu những người nắm quyền
lực để làm chính trị, làm chiến tranh. Quỷ lộng hành vì không cơ chế nào kiểm
soát được nó! Nó bảo đảm với con người chính trị, con người chiến tranh là mau
trí của nó sẽ mang lại chiến thắng để tồn tại lâu dài. Bi kịch của ta là do nó
đã tạo ra niềm tin tất thắng khi tận dụng bạo lực và hận thủ! Chính cái niềm
tin tất thắng ấy đã đầy đoạ con người, đã xoá đi tính nhân bản trong chính
sách! có lúc phải mở chiến tranh, như để giành độc lập, là đúng. Nhưng dùng con
đường chiến tranh cách mạng một cách trường kỳ, vô hạn… để bành trướng chủ
nghĩa, để giải quyết các vấn đề, để mưu tìm thế độc quyền, độc tôn cho ý thức
hệ, tức là cho đảng nắm toàn quyền yêu nước, toàn quyền ban phát tự do hạnh
phúc cho con người là sai. Vì đó là con đường của thảm hoạ, của tội ác…,
Khi
thấy bác Thảo đang trong cơn phẫn uất, thao thao giải thích gay go, sôi nổi như
thế, tôi muốn lái qua những đề tài khác có tính bình tĩnh hơn, liên quan tới
bản thân bác hơn, nên tôi hỏi:
-
Bác nghĩ sao khi bị chung quanh chê bai, chế giễu bác là người khùng, cứ như kẻ
sống ngơ ngác trước cuộc đời?
-
Tôi đã nói rồi, chẳng thà làm thằng khùng hơn là làm thằng đểu, thằng ác, thằng
lưu manh, thằng gian dối. Tôi làm thằng hề ngơ ngác trước cuộc đời vì không
hiểu nổi tại sao có nhiều kẻ sống gian dối, lưu manh, độc ác, quỷ quyệt mà họ
cứ vênh váo tự đắc? Và tại sao chung quanh biết thế là sai, là ác, mà không dám
có phản ứng, lại còn hùa nhau vào nịnh nọt, tâng bốc cho cái ác, cái gian dối
cứ tiếp tục? Nịnh nọt như thế là đồng loã với cái gian ác. Tôi nghĩ đã không
thể làm thằng nịnh nọt, thì chẳng thà cứ làm thằng khùng, thằng hề thì ít tội
hơn… Vả lại thẳng khùng, thằng hề cũng dễ thoát chết hơn dưới bàn tay của kẻ
ác.
-
Nghe nói có lúc bác bị “đi thực tế” để cải tạo tư tưởng, bằng cách phải đi cắt
cỏ, đi chăn bò, rồi lại còn đánh mất bò nữa, phải không?
Nghe
câu hỏi, nét mặt bác Thảo biến sắc, má ửng đỏ lên, như bị nhắc tới một điều làm
bác xấu hổ! Có vẻ như bác không muốn nhắc tới những chuyện như thế. Ngẩn ngừ,
im lặng, như nhớ lại điều gì. Rồi bác đáp với giọng bực bội:
-
Hừ! Giai thoại Trần Đức Thảo bị đi chăn bò ở nông trường Ba Vì đã được loan
truyền rộng rãi. Đấy thật là một điều đáng xấu hô! Mà không phải là xấu hổ cho
Trần Đức Thảo đâu. Xấu hổ là xấu hổ cho cả nước ấy chứ! Làm nhục một trí thức
như thế, là lối hành xử của một nước man rợ, không có văn minh văn hoá! Đấy
chung quy chỉ là sự ganh tức của đám người, vì ít học, nên căm thù trí thức,
coi trí thức toàn là con đẻ của giai cấp bóc lột, của bất công xã hội… Họ đã
thuộc lòng câu “trí thức không băng một cục phân”, thì làm sao họ đối xử tốt
với tôi được! Mà một con bò lúc ấy là quý hiếm, đắt tiền lắm! Ai có bò mà dám
để cho Trần Đức Thảo chăn! Mà có nơi nào có nhiều bò đâu mà đánh mất dễ dàng
như thế được. Cứ y như cái anh ăn mày rêu rao bị mất của! Có thể là mấy ông cán
bộ báo cáo lên trên như vậy để có cơ hội mà ngả bò đánh chén với nhau thôi. Ha!
Ha! Ha! Các anh không thể ngờ rằng ở nông thôn lúc ấy, người ta chỉ rình trong
chăn nuôi của tập thề có dấu hiệu dịch gà, dịch heo để vội giết cả chuồng cho
không gây lây truyền. Thế là cả vùng bỗng vui lên vì có thịt mà ăn, mà lại rẻ!
Ha! Ha! Ha! Khốn khổ và vui thế đấy!
Vẫn
với một nụ cười nhạt nhẽo, bạc phếch, cay đắng, không chứa một chút gì vui.
Thật sự là mỗi lần thấy bác Thảo cười, tôi lại cảm thấy đau lòng, thấy bác thật
là đáng thương hại… Vì đấy chỉ là thứ cười đau đớn!
-
Còn chuyện này nữa: Phạm Huy Thông, hồi ở Pháp cũng là bạn thân của bác phải
không? Sao trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, ông ta đấu tố bác nặng quá vậy?
-
Anh chàng ấy hồi ở Pháp thì tôi có biết nhưng không thân có khi y còn ganh ghét
tôi nữa. Vì lúc tôi được bầu làm Đại diện Kiêu dân Đông Dương, để đọc diễn văn
bênh vực quyền lợi cho dân mình, thì có nhiều kẻ, nhiều phe ganh tị lắm. Có phe
cộng sản đệ tứ trốt-kít, có phe cộng sản đệ tam, có cả phe thân Đức, thân Nhật
nữa. Trong khi đó thì Thảo này không thuộc phe cánh nào, mà lai được bầu. Thế
nên sau này, nhân vụ đấu tố nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm) thì Phạm Huy Thông đã
ngả theo phe Tố Hữu để tố khỗ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ. Cách
thức tố cáo, buộc tội tôi như thế đã làm cho y sau này bị xấu mặt, chứ tôi thì
chẳng hề gì. Có thể nói là những lời lẽ đấu tố nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm đã làm
xấu mặt cả đám văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những gì mà mỗi trí thức đã viết
ra, thì đều phơi bày cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém của nó. Sau này
Thông còn bị khinh bi và bị chụp lên đầu tội làm gián điệp cho Nhật. Bởi bị quy
cho tội là đã viết bảo cáo tình hình cách mạng Việt Nam gửi qua Tòkyo, cho
thằng cháu ở bên ấy. Rồi thằng cháu ấy gửi tiền về cho. Nghe nói Nhật Bản nó
gửi nhiều tiền đến nỗi bị cướp vào nhà nên đã mất mạng…
-
Vậy là bác nói xấu Phạm Huy Thông rồi đấy!
-
Con người đã có hành động như thế thì làm sao nói tốt cho được, phải không?
-
Bây giờ xin lỗi bác để hỏi về một chuyện tế nhị và không vui, là tại sao gia
đình bác bị tan vỡ? Có phải là đã có sự bạc tình, phụ nghĩa bỏ nơi bị túng
quẫn, để về nơi có ấm no phải không?
-
Chuyện buồn đó cũng đã gây nhiều thắc mắc: Thật ra thì chúng tôi quen nhau và
đã hứa hôn với nhau từ hồi còn trẻ ở Paris. Đấy là mối tình trong sáng giữa
chúng tôi. Rồi khi có hoà bình ở miền Bắc, thì cô ấy tự động về, và cứ nằng nặc
đòi cưới ngay. Bất chấp điều kiện, sống của cả hai đứa lúc đó đang bị đối xử
rất miệt thị như là kẻ thân Pháp. Vì thế mà phải sống trong những hoàn cảnh rất
vất vả, chật chội, túng thiếu, khổ sở. Bởi lúc Nhất về thì trong xã hội vẫn
đang kỳ thị rất tồi tệ với những ai bị coi là kẻ dính líu đến Pháp, từ Pháp về,
do Pháp đào tạo! Lúc đó cái gì mang màu sắc của Pháp đều bị tẩy chay nặng.
Chính tôi lúc đó cũng đang bị xua đuổi, kiềm chế rất khốn khổ. Thể mà cô ta cứ
nằng nặc đòi làm đám cưới… Nên kết hôn với nhau xong là rất khó sống. Đến khi
Nhất xin đứa con nuôi về thì như giọt nước tràn li. Vì đã khó khăn, chung đụng,
chật chội, nay với đứa con nuôi ốm yếu khóc lóc cả đêm, nên lại càng khốn khổ.
Do vậy đã khiến Nhất phải mang con ra ở riêng. Rồi vì thương tôi mà đòi li dị.
-
Sao lạ vậy? Vì thương mà lại đòi li dị à?
-
Nhất đã phân trần, giải thích trong nức nở nghẹn ngào là do đã chia sẻ và đã
hiểu rố lý tưởng của tôi. Rằng sự trở về quê hương của tôi là vì tự do hạnh
phúc của dân tộc, của nhân loại, chứ không phải vì tự do hạnh phúc của riêng
tôi. Sự thật là Nhất ra đi và đòi li dị, là muốn trả tự do cho tôi, để tôi tiếp
tục đi cho trọn con đường lý tưởng của tôi, để tránh cho tôi cái gánh nặng gia
đình. Bị gia đình tan vỡ như vậy tôi rất buồn. Nhưng cuộc li hôn của chúng tôi
mang tính thần lý tưởng mà người bên ngoài không thể hiểu. Bởi chúng tôi đã
chia tay nhau không do phụ tình, phụ nghĩa gì cả, Sau này thì Người Khắc Viện ở
Pháp về, có điều kiện gia đình may mắn hơn tôi, nên đã tìm gặp lại Nhất. Và hai
người cũng đã từng biết nhau ở Paris. Khi hai người quyết định lấy nhau, thì
Viện có lại nói chuyện với tôi. Tôi đã cám ơn Viện là người có điều kiện để lo
cho Nhất. Và tôi chúc Viện và Nhất sẽ được hạnh phúc; Nếu phải quy trách nhiệm
về sự đổ vỡ này, thì hoàn toàn là do tôi. Tôi đã không có khả năng làm nhiệm vụ
một chủ gia đình… Đấy là một đổ vỡ, một thất bại lớn trong đời tôi. Do sự kém
cỏi không biết tháo vát, xoay sở trong cái xã hội này. Bởi khi đi hiến thân cho
một lý tưởng thì gánh nặng gia đình là một trở ngại lớn. Và biết vậy nên sau
này tôi vĩnh viễn chọn cảnh sống cô đơn. Trở ngại ấy thì chính “cụ Hồ” cũng đã
gặp, nhưng cách trút bỏ gánh nặng gia đình của “ông cụ” thì khác với trường hợp
của tôi…
-
Khác là như thế nào?
-
Thì mọi ngưồd đều dư biết là “ông cụ” đã lần lượt ăn ở với nhiều phụ nữ một
cách nghiêm túc, từng đã chính thức lập gia đình, từng đã có con ở Âu, ở Á,
nhưng “ông cụ” đã vì cuồng vọng chính trị, mà phải chứng tỏ mình là người thanh
khiết thanh cao, cộ đức độ “cách mạng” (cách mạng có cấm ai lấy vợ đâu!…) nên
“ông cụ” đã phải phủi tay từ bỏ tất cả vợ con! Dù vào lúc đỉnh cao quyền lực
cho phép, thì “ông cụ” cũng đã tử bỏ việc tìm kiếm, không muốn nhìn nhận lại
gia đình vợ con đã có. Do đấy mà đã sinh ra bi kịch của bản thân “ông cụ”. Vì
buộc phải chấp nhận thân phận sống cô đơn cho tới chết. Chỉ vì muốn tự tạo ra
huyền thoại của một lãnh tụ thần thánh, nên ”ông cụ” đã bị tai tiếng; vì đã
phạm ba tội: một là mạo nhận minh là bậc chân nhân chỉ biết nói thật và làm
thật, điều này không một nhà chính trị nào có thể giữ được. Hai là “ông cụ” đã
tự coi minh là một thứ quân tử của thời phong kiến, chứ không phải là một chiến
sĩ cách mạng vô sản thời hiện đại! Ba là muốn đội lôt một thánh nhận để nêu
gương sống thanh cao khắc khổ như tu hành, đã biết hi sinh hạnh phúc gia đình!
Những sự thận thánh hoá giả tạo đó là do tâm thức vẫn mang nặng ảnh hưởng của
thời phong kiến, nó vừa lạc hậu, vừa dối trá. Chính vì vậy mà “ông cụ” thường
dặn đám cán bộ thân cận rằng: “bác làm gì kệ bác!” Và do đó mà việc hô
hào “sống theo gurơng bác Hồ” là một việc làm sai trái rất ngớ ngẩn, vì cuộc
sống muôn mặt của “bác” không thể là một tấm gương. Nhưng sự thật là cả “đảng”
và cả dân, cho tới nay, chưa hề có ai sống thanh cao theo tấm gương giả tạo ấy.
Mà họ chỉ chọn cách sống như con người xoay sở muôn mặt, muôn hướng của ”bác
Hồ”!
-
Bác nói về cụ Hồ như vậy, thì là bác muốn bênh hay bác muốn chống?
-
Ấy đấy, các anh lại muốn hiểu lầm tôi! Thì tôi đã nói rõ nhiều lần rồi! Khổ
lắm! Tôi đã kể nhiều về ”ông cụ”, đấy chính là muốn phân tích khía cạnh số phận
bi thảm của lãnh tụ chính trị trong con người “ông cụ”. Dĩ nhiên là tôi không
nói nhiều thêm về những gì người ta đã nói quá mức để tâng bốc “ông cụ”. Còn
tôi thì muốn nhấn mạnh tới những khía cạnh bi thảm, tiêu cực đã bị che giấu
trong những quyết định, chọn lựa của “ông cụ”. Những khía cạnh ấy là thuộc về
mặt trái, lề trái. Khi nhắc lại những vụ việc huy hoàng, vĩ đại thì họ đều nói
“đấy là nhờ có công lao của “ông cụ”!” Tâm thức cuồng tín, ngu tín thường ưa
nghe kể về những huyền thoại đã thần thánh hoá “ông cụ”. Nhưng khi ôn lại bao
di sản, hậu quả tai hại, gian nan, khổ ải của chiến tranh mà nhân dân phải gánh
chịu, thì họ không dám chỉ ra rằng những cái ấy cũng đều phát xuất từ những
chọn lựa, những tính toán rất quỷ quái của “ông cụ”. Bởi đấy toàn là những hành
động trí trá, muôn mặt của “ông cụ”. Những sự chọn lựa ấy đã gây ra nhiều thống
khổ… Thế nên bây giờ mà bàn luận về công và tội của “cụ Hồ” thì sẽ dễ biến
thành tranh cãi, có thể đi tới xung đột. Tình trạng đó không phải là do lỗi của
bên bênh lẫn bên chống.
-
Vậy thì là lỗi do đâu?
-
Ta phải hiểu hoàn cảnh kẻ sùng bái cũng như kẻ oán hận. Vì cả hai đều là nạn
nhân đáng thương hại của những bài toán lịch sử, của sự chia cắt đất nước do
chính lãnh đạo đã ký kết với ngoại bang. Như tôi đã nói: là trên thân phận “bác
Thảo”, thì có cái bỏng ma của “bác Hồ”, nhưng trên thân phận “bác Hồ” lại có
bóng ma của các bác Lenin, bác Stalin, và nhất là của bác Mao. Mà trên thân
phận bác Mao, lại cỏn có cái bóng ma vĩ đại rất ám ảnh, rất thúc đẩy của cụ tổ
Marx…! Nói riêng về thân phận nước ta, thì ngoài bắc đã bị hai cái bóng ma bao
trùm, là hai anh cả đỏ Liên Xô và Trung Quốc, chúng thúc bách chế độ chuyên chế
phải tận lực phát triển xã hội chủ nghĩa để đi giải phóng miền Nam, dù là cả
miền Bắc còn đang chìm trong tình trạng nghèo đói! (Sự thật là khi bộ đội miền
Bắc ta đánh chiếm được miền Nam, thì là ta đã nuốt vào bụng “con ngựa thành
Troa” của khối tư bản… để rồi khi ta kiệt quệ nên lâm cảnh tự diễn biển thành
chư hầu của khối tư bản!) Còn ở miền Nam thì cũng bị cái bóng ma kinh khủng của
bàn tay lông lá Mỹ. Nó đã khuynh đảo toàn điện, nó giết lãnh tụ, nó liên tiếp
thay đổi lãnh đạo, gây ra hỗn loạn đến mức tan rã chính trị, rồi thì nó nản
chí, phủi tay, bỏ đi. Nhưng rồi ta đã phải khổ công điều đình xin “hội nhập”,
để mời nó quay lại làm ông chủ toản diện…! Đấy là thảm cảnh của ta, của cả hai
miên đất nước ta, của dân tộc ta. Tất cả đất nước ta nay đã trở thành con mồi
cho đế quốc nước lớn xúm vào cắn rỉa, gậm nhấm, trước thì bằng cách chia cắt
lãnh thồ ta chia rẽ dân tộc ta, nay thì bằng cách biến ta thành một thứ thuộc
địa của khối tu bản của các nước lớn. Suốt trong thời chúng ta đánh nhau, thì
mấy đế quốc lớn ấy đã trắng trợn họp mặt vui vẻ với nhau để mặc cả, để chia
vùng ảnh hưởng trên đầu chúng ta. Tựu trung thì chúng ta đã phải chịu toàn là
những giải pháp, những chọn lựa ngoài ý muốn của dân tộc ta, nhưng hoàn toàn là
theo ý muốn của mấy thế lực nước lớn! Nêu ra thảm kịch này, không phái là để
gây thêm thù oán nước lớn, mà là để hiểu rõ hoàn cảnh và vấn đề giữ vững chủ
quyền, bảo vệ quyền lợi của ta, một nước nhược tiểu, trước các thế lực nước
lớn. Bởi dĩ nhiên những nước lớn luôn luôn lo phát triển quyền lợi của họ.
Ngưng
lại, im lặng một hồi, như để dằn cơn xúc động xuống, bác Thảo lại tiếp:
-
Chúng ta phải hiểu rằng thời thế đã ép chúng ta phải chấp nhận như thế. Nhưng,
khi xét tội, thì tất cả những kẻ có trách nhiệm đều ẩn mặt. Cách làm việc, cách
sống, cách hành động của chế độ, kể cả của bàn tay tham lam các nước lớn đã
luôn luôn được hoá trang rất kín đảo, chúng chỉ phô ra bộ mặt thật hào phóng,
thật là tốt lành, đẹp đẽ… Cách hành xử của mấy đế quốc là như vậy. Tất cả những
trách nhiệm ẩn mặt đó đã tạo ra những hoàn cảnh lịch sử tàn nhẫn mà lãnh đạo đã
chấp nhận, để rồi chúng ta chỉ là những nạn nhân. Chính họ đã làm hỏng lịch sử
và đã làm khổ chúng ta. Có những nhà lãnh đạo chính trị, trong đó dĩ nhiên là
có cả “ông cụ”, cứ tưởng mình tài giỏi, cứ tưởng mình đã tạo ra những trang sử
oai hùng cho dân tộc, cứ tưởng mình có tài khuynh đảo các nước lớn, tưởng rằng
minh đã xoay vần được lịch sử… theo ý mình, nhưng cuối cùng mới nhận ra là nước
mình vẫn nằm trong vòng cương toả của mấy thế lực nước lớn. Và chính lãnh đạo
ta cũng chỉ là con rối trong tay các nước lớn ấy. Các nước lớn “đàn anh” đã
tuồn súng đạn cho chúng ta đánh nhau. Họ đã bố trí, dàn dựng cho mỗi phe một lý
tưởng, một chính nghĩa, để mỗi người chúng ta cứ nhắm mắt cầm súng để diệt kẻ
thù đối diện… quên hẳn kẻ thù ấy chỉ là anh em một nhà! Lãnh đạo ra lệnh “tất
cả phải là một đạo binh, toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến!” Cả nước
phải là một trại lính. Tất cả phải sẵn sàng chấp nhận hi sinh… vì tổ quốc xã
hội chủ nghĩa…! Bên đối diện cũng hô hào tất cả phải vì lý tưởng tự do dân chủ!
Rốt cuộc, mỗi người, mỗi bên đều tự giam mình trong mỗi lý tưởng, mỗi hoàn
cảnh. Hà Nội muốn là anh hùng của xã hội chủ nghĩa. Sài Gòn cũng muốn là anh
hùng của chính nghĩa quốc gia tự do! Đấy thật sự toàn là những anh hùng bi
thảm. Bởi với cái nhìn khách quan, thấu suốt những hoàn cảnh lịch sử như thế,
thì thấy rõ mình và “kẻ thù” đối diện, ở bên chiến tuyến, cũng chỉ là những nạn
nhân. Và những lãnh đạo tài giỏi rốt cuộc đều là kẻ đã làm hỏng lịch sử! Những
sự nghiệp, dù vinh quang, thì cũng chỉ nhất thời, nhưng thực ra di sản lâu dài
của sự nghiệp ấy chỉ là làm khổ dân… Sự nghiệp được coi là vĩ đại của Napoléon,
của Hitler, của Stalin, của Mao, của “bác Hồ”… trong thực chất đều là những sự
nghiệp đã mang lại muôn vàn đau khổ cho nhân dân, dù cho họ đã tạo ra những giờ
phút vinh quang huy hoàng. Thực chất đấy chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, nhất
thời, nhưng đau khổ thì lâu dài… Trường hợp tâm tư “ông cụ” thì cũng thê thảm
lắm chứ không vinh quang gì đâu. Tin tưởng mình là tay phù thuỷ thần thánh, mưu
trí vượt bậc, qua mặt được đám đàn ém, qua mặt và đánh thắng được những nước
lớn, nào ngờ rồi chính mình lại là tay phù thuỷ đã bị đám âm binh đàn em cô lập
trong thân phận ngồi trên đỉnh cao quyền lực mà bị tước mất quyền làm người có
hạnh phúc gia đình, có vợ con như mọi người! Cứ tưởng lợi dụng được các nước
lớn, nào ngờ các nước lớn đã dùng mình làm con bài để mặc cả, chia chác ảnh
hưởng và quyền lợi giữa chúng với nhau. Cuối cùng ngày nay để lại cho dân một
di sản phong kiến kiểu mới, một đảng độc tài tham nhũng, thối nát vô phương cứu
vãn. Vậy mà vẫn cứ có thái độ kiêu binh, tự đắc, tưởng mình là thần thánh, là
trí tuệ, là anh hùng! Thế nên khi nói tới lãnh đạo, tới chế độ, nếu chỉ bênh
hay chống thôi, thì đấy chỉ là cái nhìn nông cạn, một chiều. Lịch sử luôn luôn
là muôn mặt, muôn chiều, luôn luôn là một sự cộng sinh của nhiều xu hướng tốt -
xấu, thiện - ác. Lịch sử đã tạo ra thời cuộc, với những cá nhân lãnh đạo, với
những mưu đồ của những thế lực chính trị quốc tế, với những ctiọn lựa vị kỷ,
những tính toán tàn nhẫn.... Thật ra là tôi rất khiếp phục sự thông minh quá
sắc bén, tôi rất ngán ngẩm những “mưu thần chước quỷ”, rất cơ hội của “ông cụ”.
Vì thế mà nay về già rồi, qua bao trải nghiệm đau đớn, tôi đã thấy phải tự giải
thoát mình khỏi căn bệnh ngu tín, cuồng tín băng cách giải mã những mảng tối bí
ẩn của lịch sử, giải mã lãnh đạo với những hành động phức tạp, đã phá tan lương
tri và đạo lý. Xét cho cùng thì đằng sau những chiến thắng vang dội, là biết
bao nhiêu sai lầm và tội ác đã bị che giấu. Bởi thế, tôi thấy nay cần phải can
đàm, thẳng thắn giải mã chính “ông cụ”. Vì “ông cụ” là người luôn luôn ẩn mặt
sau những đường lối, chính sách, quyết định tai hại như chọn thể chế xã hội chủ
nghĩa Mác-Lê, như chọn lối cải cách ruộng đất của Mao, như quyết định dùng
chiến tranh xé bỏ cả hai hiệp định hoà bình… Ngay trong bản thân và trong cuộc
đời tư và đời công, “ông cụ” đã từng bước, qua mặt, loại bỏ được tất cả đối thủ
tiềm năng cạnh tranh, có thể đối đầu với “ông cụ”, để gạt ho ra khỏi địa bàn
chính trị ở quốc nội và quốc tế. “Ông cụ” đã từ vị trí lu mờ ở trong nước, từ
tình trạng đã bị Đệ Tam Quốc tế dứt khoát loại bỏ ra bên lề, không cho phép giữ
vai trò lãnh đạo trong phong trào cộng sản Đông Dương. Vậy mà “ông cụ” đã lật
ngược lại mọi tình huống, qua mặt tất cả những “trở ngại” trong đảng như Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, kể cả Trường Chính… để rồi vẻ vang
vươn lên làm tổng bí thư kiêm chủ tịch nước năm 1945! Đây là một sự kiện lịch
sử, cho tới nay, chưa có tư liệu nào làm sáng tỏ những phương cách mà ông cụ đã
dùng để qua mặt tất cả các đối thủ từng có hậu thuẫn của Đệ Tam Quốc tế… để
vươn lên đỉnh cao quyền lực như vậy. Có khá nhiều giai thoại về những quỷ kế
của ông cụ, để qua mặt những lãnh đạo các phong trào. Họ là kẻ đã cả đời vào tù
ra khám ở trong nước, đã từng được đào tạo chính quy, với hậu thuẫn của Đệ Tam
Quốc tế… vậy mà cuối cùng họ cũng bị đẩy vào hàng thứ yếu, chôn vùi vào quên
lãng, như trường hợp cay đắng của Trần Văn Giàu. Tôi đã gặp được vài cán bộ lão
thành đã từng sống và làm việc ở Trung Quốc lúc ấy. Và họ dã kể ra những điều
cạnh tranh, thanh toán bí ẩn này.
-
Bí ẩn là như thế nào?
- Đại
khái họ kể rằng khi biết mình đã bị Đệ Tam Quốc tế, tức là phía Liên Xô loại
ra, “ông cụ” đã khôn khéo mưu tìm sự tiến cử mình bằng cách khác, nghĩa là tạo
cơ hội cho mình được chính thức đưa về bởi một thế lực tại chỗ, tức là bởi “Mao
lãnh tụ”. Bởi ông cụ biết Mao có đầu óc muốn làm thủ lãnh các phong trào cộng
sản của châu Á. “Ông cụ” bắt đầu bằng bước nhẫn nhục vào làm việc cho Bát Lộ
Quân của đảng cộng sản Trung Quốc, để rồi từ đó tạo điều kiện được phong trào
cộng sản Trung Quốc tấn phong, ủng hộ đưa trở về, để ép các khu uỷ, xứ uỷ từ
trong nước ra, phải chấp nhận “ông cụ” làm lãnh đạo duy nhất của phong trào
cách mạng Việt Nam sau các đại hội ở Ma Cao và Hồng Kông… Cho dù bước tiến thân
thực tế này đã gặp phản ứng gay gắt từ phía “Đệ Tam”. Nhưng rồi do Mao dàn xếp,
nên đã qua mặt những sự phản đối này. Bởi các cấp lãnh đạo phong trào ở trong
nước thì đa số đều là những kẻ từng được đào tạo, từng sống trong một thời gian
dài nhờ sự nâng đỡ của đảng cộng sản Trung Quốc. Đấy là một bằng chứng cho thấy
“ông cụ” là một nhà chính trị “thần sầu, quỷ khốc” về mặt tư tưởng, thì do ảnh
hưởng của thời nho học lúc trẻ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, nên “ông cụ” luôn
luôn chứng tỏ phong cách, hành động, mang nặng tư tưởng phong kiến nho giáo
nhiều hơn là tư tưởng cách mạng Mác-Lê. “Ông cụ”, tuy ca ngợi tư tưởng Mác-Lê,
chưa bao giờ thấy “ông cụ” bàn sâu về lý luận và tư tưởng Mác-Lê. Vậy mà ông cụ
lại nổi danh và được sùng bái như một lãnh tụ cách mạng mác-xít! Bởi ông cụ
luôn luôn là người biết chụp bắt đúng cơ hội. Nhiêu người không hiểu được điều
này, nên họ cứ tưởng rằng “ông cụ” luôn luôn đi trên con đường chính đạo, chính
quy! vì thế mà họ đã tin vào cồng đức liêm khiết của “ông cụ”, để rồi phong
thánh, phong thần cho “ông cụ” Họ cứ lẫn lộn mưu kế, quỷ kế chính trị với trí
tuệ, với đạo lý. Họ còn cổ võ dân chúng lập đền thờ “bác Hồ” đế cúng bái, khói
hương cứ y như đối với một ông bụt! Việc thần thánh hoá này thật sự là một việc
làm có tính duy tầm phong kiến vừa ngu tín, vừa phản cách mạng. Phải lưu ý rằng
“ông cụ” là một nhà chính trị đã làm những điều mà không một người cộng sản nào
dám lám là đã dám chính thức xoá tên “Đảng Cộng Sản”, để đổi thành “Đảng Lao
Động”… không một nhà tranh đấu giành độc lập nào dám ký hiệp định “sơ bộ” chấp
nhận để cho binh lính Pháp chính thức được trở lại Bắc bộ, để êm thấm đuổi được
đám quân Tường ra khỏi Bắc bộ. Vì quân Tưởng lúc ấy là lực lượng của Đồng Minh
sang giải giới quân Nhật, nhưng có ý đồ hậu thuẫn cho cánh Nguyễn Hải Thần,
Nguyễn Tưởng Tam, Vũ Hồng Khanh của Việt Cách, Việt Quốc… Hành động này đã làm
cho nhân dân cả nước kinh ngạc. “Bác Hồ” còn mưu trí công khai cho lập thêm hai
đảng chính trị khác là đảng Xã Hội và đảng Dân chủ… Đấy chỉ là quỷ kế che mắt
dư luận íhé giới, đi tạo hình thức đa nguyên, đa đảng, cứ như thật sự có tự do
dân chủ. Thực tế thì khác. Vụ này đã làm cho chính Stalin bực minh sửng sốt,
nhưng nhờ đó mà đã lừa được một vài lãnh đạo của khối “Đồng Minh”, lừa được đám
trí thức, quan lại ngây thơ ở trong nước, làm cho họ lầm tưởng, rằng “cụ Hò”
chỉ mưu tính thành lập một chế độ dân chủ đa đảng thật sự như kiểu của phương
Tây!
Phải
ghi nhận rằng lãnh tụ Hồ Chí Minh là một nhà chính trị “mưu thần chước quỷ”,
chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo
trong cổ sử Trung Quốc! Một bậc chân nhân, quân tử không ai dám có những hành
động trái sự thật một cách nham hiểm như thếl Nhưng đấy lại là những thứ mưu
trí cao siêu về chính trị. Đạo đức không phải là vấn đề được đặt ra trong chính
trường. Nhưng những người cộng sản ít học thì không hiểu, nên lại muốn nêu giá
trị đạo đức ra: để thần thánh hoá “ông cụ”, nên họ đã làm “ông cụ” bị bêu xấu,
lật tẩy! Những ca ngợi thần thánh ấy đã gây ra hiểu lầm tai hại về di sản đạo
đức thuần hình thức “của ông cụ”. Bởi người dân ai cũng biết giá trị đạo đức
của “ông cụ” rất là hạn chế. Ai cũng nghĩ rằng những đòn chính trị muôn mặt độc
đáo của “bác Hồ” như thế là một như cầu để thành công! “Bác” từng đánh lừa được
dư luận Âu-Mỹ, khi chép lại câu mở đầu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, rồi ngay
sau khi cướp được chính quyền lúc đầu, thì đã cho thành lập một chính phủ đại
đoàn kết quốc gia rất đẹp mắt, gồm đại diện của phong kiến, của các đảng phái
đối lập và mời cựu hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn. Nhưng chính phủ đại đoàn kết ấy
chỉ là cái vỏ, và cũng chỉ tồn tại được có vài tháng. Bởi sau đó; thì đã có
lệnh ngầm cho bộ trưởng bộ nội vụ Võ Nguyên Giáp thẳng tay dẹp bỏ các đảng
phái, coi họ như những “đảng phản động”. Bảo Đại thì bị lừa đưa sang Côn Minh
rồi bị vứt lại ở đó v v… Tất cả những đòn chính trị xảo trá vô cùng nham hiểm
ấy, cuối cùng thì đã thu quyền lực vào trong tay một người, một đảng, khiến
thiên hạ phải khiếp phục. Nay thì “đảng” cứ gượng ép dạy dân về thứ “đạo đức Hồ
Chí Minh”. Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ hội, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút ra
bài học rằng muốn sống, muốn thành công như “bác Hồ” thì phải biết sống muôn
mặt: vừa nói đạo đức, vừa làm thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là lối “đạo đức” thực
tiễn của cách mạng, xu hướng ấy nay cũng vẫn còn rất phổ biến và rất phát triển
trong chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường! Kết quả là
người dân cũng nói năng, lý luận thật có vẻ là đạo đức cách mạng, nhưng đồng
thời lại cứ hành động với đủ thứ mưu mẹo gian xảo kiểu “tư bản man rợ”, trong
mọi ngành, đặc biệt là trong giáo dục, trong y tế, cả trong thoa học và xây
dụng…! Thế nên nay chỗ nào cũng “có vấn đề”, cũng hỏng! Vì thế mà ngày
nay mọi giá trị đều suy đồi. Phâiĩ tích kỹ về cách làm lịch sử của “bác Hồ” thì
thấy có sự hiểu lầm trầm trọng về bài học “đạo đức” của “bác”. Và từ đó mới
nhận ra do đâu mà có tình trạng nhân tình thế thái suy đồi tồi tệ như ngày nay.
Bởi “bác Hồ” chỉ có thể coi như một mẫu mực thành đạt về chính trị, chứ thật sự
là “bác” không thể nào là một mẫu mực về mặt đạo đức. Sự tôn sùng “ông cụ” như
thánh nhân đã tạo ra thứ đạo đức giả, rất tai hại cho hậu thế. Bởi “ông cụ” là
một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến
không thành có.
Với
cái nhìn của ý thức hệ, chúng ta đã quên hẳn rằng tiềm lực của mỗi quốc gia, là
ở trong ý thức thuộc về cùng một dân tộc, cùng một lịch sử, cùng một ngôn ngữ,
cùng một đất nước! Không thể quên rằng nội lực một dân tộc là nền tảng đạo lý
ngay thẳng do lổ tiên để lại. Nhưng lịch sử nước ta thì đã trải qua những giai
đoạn đau buồn dẹp bỏ di sản đạo đức của tổ tiên để đón nhận thứ “đạo đức cách
mạng mác-xít”. Chấp nhận việc chia cắt lãnh thổ dù chỉ là tạm thời, nhưng việc
đó thực sự đã chia rẽ dân tộc, đã tạo ra sự phân biệt đối xử vì khác “ý thức
hệ” mà coi nhau như kẻ thù. Rồi thời gian qua đi, ta mới nhận ra rằng cả hai
bên thù địch nhau ấy đều là cùng chung giống nòi, cùng chung một truyền thống
văn hoá. Xưa kia, theo Trịnh hay Nguyễn, theo đàng Trong hay đàng Ngoài, theo
Nguyễn Huệ hay Gia Long gì thì bây giờ cũng đều là cùng là con dân, đồng bào
đất Việt cả. Bây giờ ai cũng thấy xấu hổ vì những mâu thuẫn nhau, thù địch nhau
một cách ngu xuẩn, tồi tệ của thời ấy. Ai lại đào mả nhau, mang sọ nhau ra làm
bình nước tiểu để trả thù! Thật là thô bạo, thấp hèn, dã man quá. Kể ra những
hành động độc ác như thế thì chẳng khác nào tự tố giác sự thấp kém của dân tộc,
giống nòi của mình. Rồi thời nay thì cái sự chia cắt, chia rẽ do ý thức hệ xã
hội chủ nghĩa, nó còn ghê gớm hơn gấp bội thời phân tranh Trịnh Nguyễn khi xưa.
Thế nên, tuy nay đã hết chiến tranh rồi, đã có hoà bình rồi, những nước lớn thù
địch đã bắt tay nhau để cộng tác phát triển… vậy mà ta vẫn cứ luẩn quẩn trong
sự thù hận nhau, quyết không đội trời chung… Chế độ cách mạng, sau khi chiến
thắng, đã dung túng sự thẳng tay đập phá hết di sản có giá trị của “nguỵ quân
nguỵ quyền” của miền Nam trong mọi lãnh vực… Ta lại còn trả thù cả người chết
khi ra lệnh đập phá, nhục mạ cả những nghĩa trang của quân đội “nguỵ”, ta làm
vậy chính là ta tự sỉ nhục chính nghĩa và danh dự của ta, ta đã nêu gương thấp
hèn để dạy dân cách sống, cách nhìn như của lũ côn đồ thô bạo… Ta đã vẽ ra hình
ảnh “nguỵ” với nét mặt của ác quỷ. Ta đã quên hẳn rằng: “nguỵ” ấy là cùng một
chủng tộc, cũng là anh em trong huyết thống của một đại gia đình dân tộc! Sự
độc ác luôn luôn hiện diện trong thái độ thù địch, đối địch. Sự thật cho thấy
khi đã coi nhau là kẻ thù thì rất dễ phạm tội ác. Có lo-gích của chiến tranh
nào, của cách mạng nào mà không hề gây tội ác? Lén lút ném lựu đạn, ám sát nhau
ở thành thị và nông thôn không phải là tội ác sao? Đấu tố, chụp mũ những tội
danh mơ hồ như “tội phản cách mạng” không phải là tội ác sao? Vậy mà nay,
“đảng” đã công khai khoe thành tích ám sát, ném lựu đạn ở vùng địch, khoe lén
lút đưa đại quân, len lỏi rừng già Trường Sơn vào nam, để xé hiệp định Genève,
xé hiệp định Paris…. Để rồi bị mưa bom, trải chất độc da cam…! Hành động như
thế là gây hoạ lên đầu dân vậy mà coi đó là những thành tích vinh quang! Khi đã
chấp nhận, con đường chiến trành thì đừng oán than cái ác mà chính mình đã chọn
và dân đã phải gánh chịu. Người ta bảo chiến tranh cũng có những quy luật quốc
tế của nó. Chi có những kẻ dại khờ mới tin vào những quy luật ấy. Như khi
“đảng” ký hiệp định Genève, là biết sẽ chẳng thể tôn trọng nó. Vì thế “đảng”
chỉ rút ra bắc một phần lực lượng, phần còn lại, để mai phục, sẵn ở miền Nam,
chờ cơ hội ra tay mở lại… chiến tranh. Lúc ký hiệp định Paris cũng vậy, “đảng”
đã ra tay trước, bằng cách lén lút ngầm tuôn vũ khí và bộ đội vào Nam bằng mọi
cách. Hai hiệp định Genève và Paris theo định nghĩa là để chấm dứt chiến tranh,
là để duy trì hoà bình, nhưng “đảng” đã ký để dùng chúng chuẩn bị mở lại chiến
tranh cho rộng hơn, ác liệt hơn! Tôi đã nhìn thấy những bước mưu trí quá trớn
ấy rất là độc hại. Vì là quá tham lam nguy hiểm, nên tôi đã cố bám theo “bác”
và “đảng” để chỉ ra những hậu quả vô cùng tiêu cực của việc tái phát động chiến
tranh như thế. Chung quanh ta, ở khắp vùng Đông Nam Á, chẳng có một nước nào đi
theo con đường chiến tranh trường kỳ và triệt để như thế.. Họ đã cố tránh hiểm hoạ
của chiến tranh.
Chiến
tranh bao giờ cũng là giải pháp tồi tệ nhầt đế giải quyết vấn đề. Giải pháp
chiến tranh chỉ là cơ hội để thi thố mưu mẹo lừa gạt. Giải pháp hoà bình mới là
cơ hội để triển khai trí tuệ, xây dựng những cái tốt đẹp, vững bền. Hậu quả của
hai giải pháp chiến tranh và hoà bình là rất khác nhau. Lúc thay “bác và đảng”
quá kiêu căng tin vào chiến tranh, tin vào bạo lực, tôi đã tìm cách nói thẳng
rá rằng trong nhiều lãnh vực, do chiến tranh, chúng ta đã không thật sự làm chủ
tinh thế mà chỉ là những con rối, những thằng hề đáng thương hại trên bàn cờ
quốc tế.
-
Làm như vậy, là đã cản đường của “bác Hồ” mà không sợ bị trừ khử sao?
-
Tôi biết lúc ấy lãnh đạo rất hiếu thẳng, rất cuồng tín, vì đã nhiệt liệt cam
kết sẽ mang lại chiên thắng để kích thích tinh thần chiến đấu, để vận dụng lòng
yêu nước. Trong lúc ấy thì dân chúng đang rất lo ngại “đảng” sẽ mở lại chiến
tranh. Vì ai cũng đã thấy sức tàn phá của bom đạn Mỹ trong cuộc chiến tranh ở
Triều Tiên. Xứ sở ấy đã từng bị sự tham chiến của Mỹ san thành bình địa… Không
dân tộc nào muốn có chiến tranh, không muốn có những chiến thắng hao tổn xương
máu như thế. Chẳng có dân tộc nào muốn có chiến tranh để trở thành anh hùng.
Dân lúc ấy chỉ âm thầm cầu mong cho có hoà bình. Nhưng lãnh đạo cách mạng thì
tin tưởng rằng phải dửng bạo lực cách mạng để không chế, áp đảo tinh thần, để
ép cả nước phải chấp nhận chiến tranh, biến cả nước thành trại lính, cả trẻ
con, phụ nữ cũng phải là những tay súng. Trước nguy cơ sẽ mở lại chiến tranh ở
miền Nam, tức là sẽ phải nêm trải chiến tranh ở mức độ thảm khốc như đã thấy
bên Triều Tiên ấy, nên tôi đã liều mình chỉ cho giới trí thức và thành phần
đảng viên cao cấp thấy rằng phãi coi chừng lãnh đạo cũng có thể sai lầm vì tham
vọng. Mà mưu tính mở lại chiến tranh trong điều kiện phải nhờ vả hoàn toàn vào
Trung Quốc là một cuộc phiêu lưu vô cùng nguy hại… Chọn lựa tiếp tục đi theo
con đường chiến tranh như thế thì không thể lên án kẻ thù là độc ác. Bởi như
thế là không biết tự xét trách nhiệm của chính mình. Sự chọn lựa con đường
chiến tranh, mà lại là thứ chiến tranh trong mục đích bành trướng cách mạng, mà
mãi sau này tôi mới nhận ra là chính con đường đó đã đưa tới thảm hoạ! Đẩy
lý luận cho tới tận cùng của trải nghiệm, càng về lâu về dài, càng thấy rõ có
ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử: đối với đất nước và dân tộc, bởi nó
đã để lại di sản vô cùng trầm trọng, lợỉ bất cập hại. Đó là chọn chủ nghĩa xã
hội của Marx để xây dựng chế độ, chọn chiến tranh xoá hiệp định hoà bình để
bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao và đảng cộng sản
Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí… Vì nhận thấy như thế mà tôi nguyện sẽ
không tiếp tay để gây chiến tranh trường kỳ, để gây oán thù triền miên. Với
nguy cơ làm gẫy đổ nền tảng đạo đức và lương tri trong xã hội. Vì thế mà tôi
phải tỉnh táo để giữ vững bản chất trí tuệ. Khai triển sự thù hận để hành động
thì dễ, nhưng đấy là con đường đầy hậu quả bi thảm! Nêu ra tội lỗi, độc ác của
đối phương thì dễ, những nhìn ra tội lỗi, sai lầm của chính mình thì rất khó.
Vì thế mà tôi phải cố phân tích cái hại của chiến tranh, nhất là những hậu quả
trầm trọng khôn lường của thời hậu chiến là lúc phải đương đầu với tình trạng
mất lương tri, mất đức hạnh, mất nhân phẩm của con người. Cái đó mới là những
vấn đề nan giải, tác hại lâu dài. Vì như vậy là xã hội sẽ loạn! Bởi cho tới
nay, tổ quốc “đã sạch bóng quân thù”, nhưng cái nếp dùng thủ đoạn gian xảo độc
ác vẫn được duy trì, tồn tại trong sinh hoạt của xã hội vẫn dùng những thủ đoạn
gian xảo, trí trá để tiếp tục đàn áp, hành hạ anh em, chỉ vì bất đồng chính
kiến… Càng sống trong thứ hoà bình nuôi dưỡng căm thù và bạo lực với quá nhiều
thủ đoạn gian xảo như thế, “đảng”, ngày càng bị suy yếu đi, càng bị dân oán
ghét. Xã hội tiếp tục hỗn loạn, tiếp tục suy đồi đạo đức chính là vì thế. Còn
lâu ta mới rũ bỏ được nếp sống thủ đoạn gian xảo, trí trá mà ta đã tích cực
khai triển trong chiến tranh. Trong hoà bình, nếp sống đầy thủ đoạn ấy đã làm
xã hội ta loạn, dân ta điêu linh khốn khổ, nước ta bị tai tiếng là thiếu ngay
thẳng, thiếu đạo đức trước quốc tế là do vậy….
-
Bác suy nghĩ thế là có quá bi quan không?
-
Không có gì là quá bi quan cả! Đấy không phải, là những lời tiên tri của tôi.
Đây chỉ là những ghi nhận hiện tượng đã và đang diễn ra trước mắt. Sự thật là
ngày nay, ta đang thấy tình trạng suy vi tinh thần, đạo lý như thế. Từ hồi trở
về nước, tôi đã tâm nguyện làm cách mạng là sẽ phải tìm cách cố tránh những sai
lầm bi thảm của cuộc cách mạng ở Nga. Rồi khi Stalin chết, tội ác của ông ta bị
tố cáo, tôi lại càng kỉên trì với lập trường là phải làm sao cho cuộc cách mạng
ở nước la sạch sẽ hơn, lương thiện, khác hẳn với cuộc cách mạng cuạ Nga, khác
với cuộc cách mạng của Trung Quốc của Mao. Tôi đã không ngừng gợi ý là phải cố
tránh chiến tranh và củng cố hoà hình cho miền Bắc thật sự được có đỏi sống ổn
định, thật sự ấm no, hạnh phúc trước đã… Vì thế mà tôi lại càng bị phe cánh
hiếu chiến nghi ngờ, ghét bỏ!
-
Vậy là bác cũng là kẻ phản chiến hay sao?
-
Thực ra ai biết suy nghĩ sâu và xa thì rồi cũng sẽ phải là người phản chiến. Vì
biết rằng sau mỗi cuộc chiến tranh, tuy con người sẽ khôn hơn, nhưng chắc chắn là
nó cũng sẽ quỷ quyệt, gian xảo hơn. Nó sẽ coi nhẹ lương tri, đức hạnh, mà coi
nặng phần mưu trí, thủ đoạn. Vì mưu trí và thủ đoạn đã đưa tới chiến thắng. Xã
hội do tin vào mưu trí và thủ đoạn nên nó sẽ suy đồi. Đó là quỷ luật tâm lý xã
hội. Tôi muốn tránh việc gây thù, gây oán là vì vậy. Công việc của tôi phải là
công việc của trí tuệ, không thể dùng thủ đoạn, dùng mưu trí! Tôi không đi tìm
chiến thắng, tôi đi tìm con đường đưa tới gần sự thật và công lý. Triển khai
bạo lực thù hận lẫn nhau thì luôn luôn là một bi kịch. Đạt tới sự thật và công
lý mới là thắng lợi bền vững. Người ta làm công tác hồì tưởng những đau khổ của
chiến tranh là để tránh cho chiến tranh không tái diễn, chứ không phải để hâm
nóng lại tâm thức thù hận, để dùng nó làm ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh
khác, sẽ bùng lên ác liệt hơn, tàn nhẫn hơn. Ở ta tình hình thù hận cho tới nay
thì vẫn nặng nề lắm. Vẫn có nhiều người cứ như tin rằng chỉ có thể tồn tại, chỉ
có thể sống còn nhờ… thù hận, biết nhận diện kẻ thù. Họ luôn luôn thấy mình bị
bao vấy bởi đủ thứ kẻ thù! Họ tin rằng kẻ thù nào họ cũng có thể đánh thắng. Họ
tin rằng muốn tiến tới, thì phải đánh thắng những kẻ thù. Nhưng có một thứ kẻ
thù mà họ không bao giờ thắng nổi, đó là tâm thức tự giam chính mình trong vòng
thù hận, thù địch, cứ để con quỷ thù hận làm chủ trong đầu. Mý đã coi ý thức hệ
cộng sản là kẻ thù. Nhưng Mỹ đã biết ngưng những hành động tàn phá của chiến
tranh đúng lúc. Dù còn dư dã sức mạnh tàn phá để chiến thắng, nhưng Mỹ đá không
tìm thắng lợi bằng cách tận diệt chế độ cộng sản ở Việt Nam, mà Mỹ đã đổi chiến
lược là sẽ tìm thắng lợi trong hoà bình, khi nước ta bước tới giai đoạn kiệt
quệ về kinh tế. Rồi từ đó, sẽ ép ta phải mở cửa mời Mỹ trở lại… Mưu trí khác
với trí tuệ là ở chỗ đó. Khi ta xé hai hiệp định đã ký, thì ta khoe là đã dùng
sự mập mờ của chữ nghĩa, “phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam”, dùng
hiệp định để chuẩn bị mở rộng chiến tranh! Tôi thấy lối suy nghĩ ấy là trò choi
không thông minh chút nào, mà còn là rất có hại cho tương lai của đất nước và
dân tộc. Chơi trò nuôi oán, nuôi thù để lúc nào cũng thấy thù trong, giặc
ngoài… Tưởng đó là sự khôn ngoan, sáng suốt! Duy trì một tâm thức phản hoà bình
bằng chữ nghĩa là tự gieo hoạ trong đấu mình, tự phá hoại trong tâm hồn của
mình. Nguy hại là như vậy. Nay thì đất nước mang đầy thương tích, lãnh thổ bị
gậm nhấm một phần đảng kể, xã hội thì cứ ngày càng hỗn loạn vì kỷ cương, đạo
đức cứ suy đồi như tuột dốc! Dân nay thụ động trong nếp sống gian xảo, thấp
hèn, chỉ cố chạy theo đồng đô-la. Chính quyền thì luôn luôn hô hoán; phải cảnh
giác trước nỗi sợ “diễn biến hoà bình” mà Trung Quốc đã cài vào đầu ta! Rốt
cuộc là ta đã làm được một việc mà Trung Quốc muốn, nhưng Trung Quốc đã không
làm được ở Triều Tiên, đó là muốn đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương! Khi có ký hiệp
định Paris thì tôi biết rồi Trung Quốc nó sẽ tiếp thêm vũ khí để thúc ta tiếp
tục đánh để đẩy Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam để trả thù Mỹ như nó muốn…! Và ta đã
làm theo nó, nhưng rồi sau vì quá kiệt quệ nên ta đã phải mở cửa mời cả Pháp
lẫn Mỹ trở lại… Với bao máu xương đã đổ ra cho chiến thắng, rốt cuộc là ta chỉ
làm trò múa rối mang danh mang lợi về cho Trung Quốc! Giải quyết vấn đề bằng
chiến tranh như thế chỉ là mắc mưu, mắc bẫy của Trung Quốc! Các nước quanh ta
đã không chấp nhận chơi cái trò tai hại ấy của Trung Quốc. Và nay thì ta đang
cố chạy theo để bất kịp những thành tựu no ấm, thịnh vọng của các nước quanh
ta!
Nói
tới đó, bác Thảo, với nét mặt buồn thảm, lắc đầu nhìn chúng tôi, vẫn mỉm cười,
thật tê tái:
-
Bao nhiêu phân tích tình hình một cách sâu và xa của tôi đã không được lãnh đạo
lắng nghe. Bởi lãnh tụ và “đảng” chỉ đam mê tìm thắng lợi trước mắt, mà không
nghĩ tới những hậu quả của tình trạng đất nước bị tàn phá, con người bị tàn phế
vì bom đạn, bị nhiễm độc bởi thuốéc khai quang… Nêu ra những nguy cơ ấy, tôi bị
coi là kẻ bi quan vì đã “đọc nhiều sách vở của phương Tây”, đã chạy theo xu
hướng triết học của thực dân! Bởi lãnh tụ và “đảng” chỉ tin thờ, sùng bái mấy
cái ông thấy mác-xít như Stalin, như Mao… “ông cụ” không hiểu rằng giá trị căn
bản của con người nói chung, của chân lý nói chung, thì ở đâu cũng vậy, ở thời
nào cũng vậy. Thật ra thì những danh nhân triết học với cắc hệ tư tưởng chỉ là
đề tài để tôi nghiên cứu và giảng dạy. Kể cả đối với Marx cũng vậy. Đó là ngành
nghiên cứu của tôi. Còn tư tưởng của tôi, thì đã được hoàn cảnh thực tại của
đất nước, đã từng bước mở tâm, mở trí cho tôi, để tôi cải đổi tư tưởng ấy,
trong nỗ lực phân biệt đâu là mưu trí, đâu là trí tuệ. Tôi không mác-xít, tôi
không giáo điều, mà tôi cũng chẳng xét đi, xét lại gì cả. Bởi thực tại đã định
hướng, đã nung đúc tôi thành người có ý thức tôn trọng sự thật. Những gì tôi
nói ra với lãnh đạo chỉ là những tiếng nói của sự thật, của lương tri. Vậy mà
họ vẫn cứ kiêu căng khoe chiến thắng, nhưng trong thực tế, họ chưa hề biết xoa
dịu được những nỗi thống khổ của chiến tranh mà nhân dân phải gánh chịu. Thế mà
nay họ vẫn tiếp tục gây oán, nuôi thù và kể lể công lao chiến thắng! Cái tâm lý
trong xã hội ta bây giờ nó quá tàn nhẫn thế đấy! Vì sao? Vì chúng ta vẫn mang
nặng quá nhiều mặc cảm trong tâm trí. Mỗi người chúng ta đều đã bị giam hãm
trong những hoàn cảnh lịch sử riêng biệt của chính mình, vẫn chưa tìm ra lối
thoát khỏi tâm trạng bị giam hãm trong hoàn cảnh đó. Vì thế, kẻ nọ, người kia
vẫn cứ nhìn nhau như kẻ thù, như “cộng sản”, như “quốc gia”…! Mối nguy là kẻ
thù vô cùng tham lam độc ác đứng ngay trước mặt, mà chúng ta không thấy! Chỉ
thấy kẻ thù ngay trong đám anh em với nhau thôi. Khổ thế đấy! Ở trong nước hiện
nay, chính quyền, đặc biệt là cánh công an, vẫn là dùng thủ đoạn chụp mũ, vu
oan, để gây thêm kẻ thù trong dân. Thù hận là do đó. Tội ác là do đó! Tình
trạng nay là bế tắc hoàn toàn! Và chính tôi cũng đã từng là một đồng loã gây ra
sự bế tắc ấy. Làm sao gỡ bỏ được gông cùm của sự chia rẽ, chia cắt? Đấy là một
thử thách nan giải, vì chúng ta chưa hiểu rõ những uẩn khúc tàn nhẫn của thời
cuộc, của lịch sử và thân phận nhược tiểu của chính dân tộc ta. Vì thế mà tôi
đã không thể trốn mình trong những than thở, trăn trở vụn vặt như mọi người, mà
là tôi phải đứng dậy, phải phẫn nộ, mà là tôi phải phản đối, phản kháng, phải
tìm ra lối thoát. Trước những sai lầm quá trầm trọng, tôi không thể quên nhiệm
vụ sống còn của người trí thức. Ngay từ hồi ấy, chỉ có luật sư Nguyễn Mạnh
Tưởng và tôi là đã dám công khai lên án, đã dám phản đối lãnh đạo. Bởi thế, cái
đám cán bộ tuyên huấn, tuyên giáo lếu láo, bảo hoàng hơn vua, đã làm đủ cách để
đàn áp tinh thần tôi, và còn mưu tính sẵn sàng tiêu diệt tôi. Nhưng chủng còn
chờ lệnh.
Nghe
câu kết luận buồn thảm như vậy, chúng tôi không khỏi suy nghĩ về thân phận của
chính mình. Chúng tôi muốn đưa bác trở về sớm, vì hôm sau, bác còn phải chuẩn
bị thuyết trình tiếp một chương khác trong cuốn sách của bác. Nhưng không ngờ
rằng chiều thứ ba ấy lại là thêm một khúc rẽ vô cùng bi thảm trong cuộc đời của
bác.
Vào
buổi chiều thứ ba 12 tháng tư, năm 1993, bác Thảo mang bài thuyết trình đã in
bằng sao ảnh (photo-copie) tới nơi thuyết trình là Nhà Việt Nam, để bán. Ít ai
biết được ràng bác Thảo lúc ấy đang vô cùng lạc quan tin tưởng vào những gì bác
sắp sửa công bố qua các buổi thuyết trình này. Bác từng vui vẻ tâm sự với chúng
tôi rằng đây là những bước kết thúc cung hành trình đi tìm sự thật. Vì kể như
bác đã truy ra thủ phạm của cái sai, cái ác trong cách mạng, trong ý thức hệ.
Đấy “sẽ là một thành tựu trong cuộc đời và sự nghiệp triết học của Trần Đức
Thảo”.
Những
bất ngờ thay! Vừa bước tới trước “Nhà Việt Nam”, thì một nghịch cảnh quá tàn
nhẫn đang chờ đợi bác! Tại đây anh Dũng, người trực phiên, nhưng lại đứng ở
ngoài đường, chỉ vào hai cánh cửa cũ kỹ bị khoá bằng xích sắt để báo tin buồn:
sứ quán ra lệnh đóng cửa Nhà Việt Nam để từ nay không cho bác Thảo tổ chức diễn
thuyết ở đó nữa. Thính giả đành bỏ về. Nhưng một số bực tức đứng lại tranh
luận, như muốn gây gổ, đấu khẩu với anh Dũng. Rồi vợ chồng bà Bình và ông
Jaeques tới. Đây là hai thính giả Việt kiều trung thành mà cũng là có vai vế kỳ
cựu của Liên hiệp Việt kiều, khi thấy cửa khoá, đã nổi nóng bẻ khoái mở rộng
cửa, lớn tiếng mời mọi người vào:
-
Nhà Việí Nam này là của Liên hiệp Việt kiều, chứ có phải là của sứ quán đâu mà
sứ quán có quyền ra lệnh đóng cửa.
Bác
Thảo lắc đầu, chán nản rồi tỏ ra rất phẫn nộ. Bác cho biết vì đa số thính giả
đã bỏ về, nên bác không còn hứng để thuyết trình nữa. Bác mím môi, mặt tái mét,
trông rất bi thảm. Thấy vậy, anh Lê Tiến, một trong những người sáng lập hội
thân hữu Trần Đức Thảo, kéo bác và tôi vào ngồi cạnh chiếc bàn nhỏ, trong gian,
phòng nhỏ sau hội trường để tìm lời an ủi. Trong căn phòng nhỏ ấy, tất cả trăn
trở, nghiền ngẫm được giữ kín bấy lâu nay trong đầu, giờ đây, được bung trải ra
minh bạch và thẳng thắn. Rất may là tôi đã kịp thời ghi âm được một phần của
đoạn chót(1). Bác Thảo lúc thì nói gay gắt, lúc thì đập tay xuống
bàn để nhấn mạnh.
(1) Xin coi mục “Phụ lục” ở phần cuối, chép lại nguyên
văn, từ băng ghi âm, những lời tâm sự, cũng như những lời trăn trối của Trần
Đức Tháo, lúc phẫn nộ vì bỗng bị cấm không cho mượn nơi thuyết trình để giới
thiệu cuốn sách đang được hình thành để nói về sai lầm của Marx đã đưa tới sai
lầm và bế tắc của lý thuyết đấu tranh tranh giai cấp.
Ch14: Nêu đích danh thủ phạm
Bực bội nói ra những lời trăn trối, trong đó tóm gọn
sơ đồ cuốn sách đang trong nguy cơ không thể hoàn thành, bác Thảo giải thích:
-
Trong cuốn sách đó, tôi thẳng thắn đánh giá lại tư tưởng Marx khi soạn ra
phương pháp cách mạng đấu tranh giai cấp, dùng hận thù giai cấp đánh gục giai
cấp tư sản, để xây dựng thế giới đại đồng với một xã hội không cỏn giai cấp bóc
lột. Lenin, Stalin, Mao, rồi Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Fidel Castro cho tới
Pol Pot… mỗi con người ấy, ở vị trí lãnh đạo, đã tuỳ tiện khai triển cách mạng
theo lời dạy của Marx. Qua những kinh nghiệm lịch sử ấy, cùng những dì sản thảm
khốc của nó, tôi đã giải mã Marx, Lẻnine, Mao, Hồ, Kim, Pol… để chỉ ra rằng ý
thức cách mạng đã sai từ gốc, nghĩa là từ Marx. Đặc biệt là bác Thảo đã nhắc đi
nhắc lại câu “Chính ông Marx sai”!
-
Chính tôi, trong những bước đầu nghiên cứu, đã thấy giai đoạn mình tự nguyện
làm môn đệ của Marx, sùng bái Marx với tất cả lòng nhiệt thành của tuổi trẻ, là
giai đoạn cuồng tín, cứ nghĩ mình phải một lòng đi theo Marx như một tín đồ tin
theo vị chúa cứu thế trên con đường giải phóng con người khỏi sự bóc lột của
giai cấp tư sản, tư bản. Bởi cuộc cách mạng này đã dựng lên cả một hệ thống
chính trị chuyên quyển giam hãm, kim kẹp con người. Hệ thống chính trị ấy lại
còn bóc lột giai cấp lao động gấp bội phần so với sự bóc lột của giai cấp tư
sản, tư bản. Mà quyền lực chuyên chính lại không cho phép công nông phản đối sự
bóc lột ấy. Tạĩ sao kỳ lạ vậy?
-
Nay già rồi tôi mới nhận ra là tất cả những sai trái ấy đều là do sự cuồng tín
vào lý thuyết, vào ý thức hệ nên đã dẫn lối tới những bước quá trớn… Thế rồi
các lãnh tụ, từ Lenin trở đi, đều đã tuỳ tiện theo cảm hứng mà suy diễn, mà đề
ra nhưng chính sách, những phương pháp triệt để, những hành động tuyệt đối, để
rồi gây ra những tội ác của cách mạng!
Khởi
đầu, nhà tư tưởng đã tung ra một học thuyết thật hấp dẫn, thật là cuốn hút nhân
loại, nhất là thành phần nhân loại lao động nghèo khổ… Nhưng rồi học thuyết ấy,
ý thức hệ ấy đã làm khổ con người, đã nô dịch con người, đã phản bội con người
và đã không hề giải phóng con người!
-
Cuốn sách của tôi chứng minh rõ rằng chính cái phần xây dựng mô hình thế giới
đại đồng của Marx đã làm hỏng học thuyết. Trừ ra khi phê phán chủ nghĩa tư bản,
Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội
đương thời, để đả kích xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy
vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận căn bản để xây dựng
xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì
Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là
không có giai cấp, không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của
ý thức “đấu tranh giai cấp”. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề
có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong
tương lai! Làm như vậy trong lý luận, là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt
nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối
lý luận với một nền tảng siêu hình, đúng là thứ biện chứng của Hegel! Biện
chứng đó không còn có chút gì là duy vật sử quan nữa.
Từ
khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến
nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng
lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không còn giai cấp!
Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý niệm siêu hình của một thứ
thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất. Trong mô hình ảo ấy, giới công nông
được giải phóng, được làm chủ chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin
khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem
động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách
mạng tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với
một đảng cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng
sản”. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ
nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột người
vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập thể. Đặc điểm
là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công nông nào mà không mê.
Như
vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc một
cách sung sướng: vì mình sẽ không còn bị bóc lột, mình sẽ làm chủ! Con người từ
đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xã hội không còn giai
cấp “sẽ” thành hình trong tương lai! Lời hô hào “vô sản thế giới hãy đoàn kết
lại!” đã vang dậy khắp trái đất rồi vang lên khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở
thế gian”, đã thôi thúc giai cấp bị bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu
diệt giai cấp tư sản! Hoan hô con người mới xã hội chủ nghĩa, là con người vô
sản chân chính. Lúc đó, các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ
là một tổ quốc vô sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xã
hội mới trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu
cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu mọi giới
lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã náo nức ủng hộ; đã sùng bái Marx. Đây
là bình minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của giai cấp lao động!
Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi của cả nhân loại.
Cả
thế giới đã bị lung lạc vì luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm hi vọng
tràn trề của nhân dân lao động, với lòng cằm thù “giai cấp bóc lột” sôi sục
trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích của xã hội tư bản!
Rồi
bác Thảo lắc đầu giải thích, trong nước mắt;.
-
Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột thành ý thức
cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và
tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con
người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù!
Lý thuyết cách mạng hay hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt
giai cấp bóc lột làm vũ khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý
thuyết ấy, bất cứ người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là
sẽ thắng, sẽ là đại thắng!
Với
niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt đẹp… Để
rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý thức hệ ấy như là một thứ thánh kinh, “đảng”
trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là vị giáo hoàng! Khát
vọng phát triển cuộc cách mạng xã hội theo ý thức hệ ấy làm cho con người sẵn sàng
hi sinh tất cả cho nó! Vì nó!
Thế
nhưng cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách
mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động…
đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh “đảng của giai cấp công
nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền… Tất cả mọi người đã được
thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự vào công cuộc xây dựng “con người mới xã
hội chủ nghĩa” là như thế nào! Thực tế là tất cả đã nhận ra một cách khách quan
và đau đớn rằng việc xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá
nhiều tội ác, vì đã trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đã trói buộc,
giam hãm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp,
khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là trong thực
tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới này, thành phần
công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Kết
quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã hội chủ
nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy” đã lộ ra cái bản
chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý thức hệ ấy là đã dụng cụ
hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp, giam hãm, tuyên truyền xảo trá,
chứ chẳng phải là đã giải phóng con người! Con người lao động đã chẳng hề được
làm chủ, kể ca làm chủ bản thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!
Vì
trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó là giai
cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó là giai cấp tư
sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh cướp lại quyền lực
trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản vùng lên cướp đoạt chính
quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản của giai cấp tư sản để tự nó trở
thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất,
nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn
quyền lũng đoạn kinh tế! Trước mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền
bóc lột kiểu mới, mang danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là
“dân chủ gấp ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế
độ ấy, cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao
cấp”.
Đặc
biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp nơi, đều
tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp
đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân… làm của
riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích luỹ lâu dài mà có được, này đã
bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của
quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha
hồ bòn mót của công, cướp đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều,
vừa nhanh! Vì cái gì cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn
dân”, nên ai cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung
ấy! Bởi là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng.
Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới ấy phá
phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con người tham lam,
phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất kể luật pháp! Vì là
của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền xâm phạm, nhưng không thấy ai
có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong thực tế trước mắt, con người, vô sản có
quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của
xã hội, đã trở thành nhà tư sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng,
do hối mại quyền thế mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia
định, họ hàng, cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!
Khi
thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng quyết liệt
và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường của xã hội, và nay
đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự nhiên rằng “lấy của tập thể,
lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì đấy là của chung!
Marx
đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã hội xã hội chủ
nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một cách lộng hành, nó xâm
chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội lần thứ tư bản tư sản cổ
điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không thể ngờ là bởi tham lam quyền lực
và quyền lợi, chính các lãnh đạo trong “đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ
nhau, quy chụp cho nhau những tội lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa
vị, để được sống đế vương trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi,
truyền gia tài cho con cái!
Thực
tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản kình
chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc lột, thật là trái
ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây lại là những người
của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ vốn liếng, tư liệu sản xuất
và mọi hình thức sinh hoạt khác trong xã hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong
thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai cho đền con người, tất cả đều là “của
đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các thành viên của nhà nước, các định chế như toà
án, viện kiểm soát, các tổ chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với
“đảng”! Trong chế độ vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay
“đảng” là ông chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần!
“Đảng” đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và ”đảng” tự tuyên xưng “đảng”
là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là chống lại nhân dân! Cụm từ “nhân dân”
từ đây là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!
“Đàng”
còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”
Quan
sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là tại Sài
Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đã bị đánh gục
bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc trước hiện tượng phát
sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ thấy xuất hiện những đảng viên
cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh
đến thế. Những cơ ngơi bất động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản
đỏ”, nó thống trị một cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn,
lạc hậu này. Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá
hàng bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!
Đó
là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đã không hề tiên liệu.
Sai
lầm cơ bản của lối lý luận ấy là đã mang cái mô hình ảo của tương lai, đặt nó
lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là từ một học thuyết mơ hồ, siêu hình ấy, Lenin
muốn suy diễn ra sao cũng được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi
đến Pol Pot lại càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!
Rồi
bác Thảo nhấn mạnh:
-
Tôi ra đi kỳ này, là với dự tính qua Paris để công bố, trong cuốn sách, những
lý luận chứng minh sự sai lầm bất đầu từ lý luận siêu hình của Mars, rồi từ đó
bước tới sai lầm trong phương pháp hành động dùng hận thù làm đòn bẩy, để từ đó
tuỳ tiện xúc phạm quyền sống của con người.
Thế
nhưng trong sáu tháng vừa qua tại Paris, sau những trao đổi với vài nhà tư
tưởng tiến bộ hiện đại, trong đó đáng kể nhất là những góp ý của giáo sư
Boudareỉ, thì tôi đã đẩy lý luận truy lùng thù phạm gây ra “sai lầm và tội ác”
ấy tới điểm tột cùng: chẳng những sai lầm do lý luận, do phương pháp hành động,
mà trước cả những điểm đó là sai lầm của khái niệm, của học thuyết, của ý thức
“đấu tranh giai cấp”! Đó là cái gốc của mọi sai lầm, cái gốc của mọi hành động
quá trớn, cái gốc của bế tắc. Vì đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp bóc lột,
nhưng rồi lại nảy sinh một giai cấp bóc lột mới. Chính cái học thuyết; cái ý
thức “đấu tranh giai cấp” ấy đã dẫn tới tình trạng con người vẫn bị bóc lột. Và
con người không hề được “cách mạng” giải phóng.
Ỷ
thức đã sai vì nó kìm kẹp con người, dụng cụ hoá con người. Con người mới” ấy
đã bị chủ nghĩa cuồng tín (fenatisme) và chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme)
xỏ mũi lôi vào con đường của giáo điều, theo một thứ “tín ngưỡng cộng sản… Vì
thế trên đường đấu tranh giai cấp để đi tới tương lai và hạnh phúc, nhưng cứ đi
hoài mà không bao giờ tới đích! Đấy là thảm kịch lớn nhất của thế kỷ XX, tức là
của chính chúng ta. Tác giả của học thuyết, của ý thức hệ ấy chính là ông Marx.
Chính Marx là thủ phạm đã gây ra mọi sai lầm và tội ác!
Diễn
giải như vậy rồi bác Thảo than thở:
-
Tôi tính ít ra cũng phải bốn tháng nữa thì mới có thể hoàn thành cuỗn sách với
kết luận hoàn toàn mởi mẻ và khách quan về mặt triết học. Vì cũng phải lướt qua
những bước biến đổi của xã hội, thông qua các giai đoạn phát triển của vật
chất, của vũ trụ, trải nghiệm vấn đề môi trường bị tàn pha do phát triển… chứ
không thể nhảy ngay tới kết luận giản dị là mọi sự xấu xa đã xẩy đến là do học
thuyết sai lạc của Marx.
-
Thật là bi thảm cho một nhà triết học như tôi, khi đã quyết tâm cống hiến cả
đời mình cho lý tưởng cách mạng vô sản. Nhưng rồi cuối cuộc đời, tôi mới khám
phá ra rằng mình đã bị lạc hướng vào con đường cách mạng không tưởng, con đường
độc ác, không lối thoát, mà Marx đã vạch ra.
Để
gò ép con người phải chấp nhận cái phương pháp xây dựng không tưởng này, các
đảng cộng sản cầm quyền đã phải dung tới chính sách tuyên truyền dối trá: “cứ
nói hoài thì người ta phải tin!” Rồi dùng những phương pháp khùng bố tinh thần
bằng cái sợ trước bạo lực, trước những trừng trị, tù đày và tử hình hàng loạt
mà không cần xét xử bằng toà án… Vì “cái sợ sẽ chi phối cả suy tư lẫn hành
động”!
Xét
cho cùng thì thủ phạm, gây sai lầm cơ bản ấy không phải là Lenin, không phải
Stalihe, hay là Mao. Cũng không phải là Pol Pot… vì tất cả những nhà “lãnh đạo
dân tộc” ấy, đều do ý thức hệ mác-xít dẫn lối, do “đảng” nhào nặn ra… tất cả
đều do một “thiện ý”(!) muốn xây dựng một xã hội không giai cấp như Marx đã chỉ
ra, để cho loài người được hưởng thứ thiên đường không giai cấp của giới vô sản
trên trái đất!
Phải
thẳng thắn mà ghi nhận rằng cho tới nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đã
thực hiện được đúng một hình thức xã hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là
một chế độ vô sản, một xã hội không có tư hữu, không có tiền tệ để đừng làm
dụng cụ bóc lột. Đó chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đã xây dựng tại
Campuchia, sau năm 1970. Trong suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các
chế độ xã hội chủ nghĩa khác đã im lặng đồng tình, đồng ý, vì tin là trong chế
độ Pol Pot ấy thật sự là chỉ có giai cấp vô sản. Vì thế lúc ấy, không một nước
xã hội chủ nghĩa nào đã dám lên tiếng phê phán, bắt bẻ để phản biện lại cuộc
cách mạng của Pol Pot! Kể cả Liên Xô, Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc đã ủng
hộ nó triệt để, và cả Việt Nam cũng đã nhìn nhận chế độ ấy! Tất cả khối xã hội
chủ nghĩa và nhiều nước trên thế giới, kể cả Liên Hiệp Quốc, cũng đã nhìn nhận
chế độ của Pol Pot, trong suốt mấy năm nó tồn tậi! Đấy là một thử nghiệm cụ thể
cao nhất của tư lưởng Marx trong công cuộc cách mạng vô sản. Nhưng…
Nhưng
cho tới cuối năm 1977, khi Pol Pot bắt đầu công khai gây căm thù mang tính
chủng tộc với Việt Nam, coi người Việt là kẻ thù của người Khmer, và bắt đầu
thực thi chính sách phân biệt chủng tộc để bài xích, rồi sau là gây xung đột ở
biên giới với Việt Nam, thì chính quyền xã hội chủ nghĩa ở Hà Nội mới xua quân
đánh chiếm thủ đô Phnom Penh, và áp đặt ở đó một chế độ xã hội chủ nghĩa theo
kiểu thông thường của khối “xã hội chủ nghĩa”, mà ở đó vẫn còn mâu thuẫn giai
cấp, vẫn còn mầm mống tư sản bóc lột… Lúc đó người ta mới dám phát giác chế độ
Khmer đỏ của Pol Pot là chế độ diệt chủng đẫm máu. Dù sao thì đấy cũng là chế
độ thuần tuý vô sản duy nhất đã thành hình trên trái đất! Tuy nó đã là một chế
độ của tội ác không thể tha thứ!
Thủ
phạm, kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lãnh
đạo, trong: đó có cả Poi Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu ấy
chính là Marx! Lời tiên tri sẽ “xoá bỏ giai cấp” của Marx đã mê hoặc nhiều thế
hệ. Và họ đã lao mình vào tội ác! Tại những nước đã có chính quyền vô sản triệt
để “của giai cấp công nông” (Sự thực là của “đảng” cầm quyền, của nhà nước do
đảng cộng sản nắm giữ), chính giai cấp công nông trung thực, tại các chế độ ấy
đã bị bóc lột và đàn áp một cách vô tội vạ! Vì đã không còn được ai bảo vệ, nên
giai cấp công nông đã ngậm ngùi, nguyền rủa Marx, coi Marx là một nhà tiên tri
khốn nạn, đã lừa đảo, lấy cái khát vọng thế giới đại đồng không có bóc lột làm
bả lừa dối công nông!
Cách
mạng ta đã hứa với dân rằng: “đảng” là đày tớ của nhân dân, lo trước, vui sau
dân”. Nhưng mặt trái của lời hứa ấy là “đày tớ” nay đã giành hét đặc quyền, đặc
lợi, ngang nhiên vui sướng trên đầu nhân dân. Tình trạng này vẫn còn kéo dài
dài cho tới nay. Đó là một chính sách hết sức trơ trẽn, chướng mắt, công khai,
trong thời buổi khó khăn, mà “đảng” giành hết đặc quyền, đặc lợi cho cán bộ
đảng viên cấp cao, cho các “diện” thuộc “gia đình cách mạng”! Người trong gia
đình của “đảng”, của quan chức cách mạng thì được ưu tiên sống no ấm, được mua
hàng tốt, hàng ngon ở cửa hàng riêng (Nổi tiếng đã đi vào ca dao là chợ Tôn Đản
ở Hà Nội). Chết thì được chôn tại nghĩa địa riêng! (Nghĩa trang Mai Dịch). Con
cái của “đảng” đi thì được ưu tiên cho điểm cao, được ưu tiên vào học trong các
trường tốt… Được ưu tiên nhận học bổng du học nước ngoài!
Thực
tế là nhà nước vô sản cứ tuỳ tiện tiêu xài công quỹ, cấp phát bừa bãi đất đai
để phục, vụ riêng cho phe, cánh của “đảng”, cứ thực thi chính sách tiêu xài
hoang phí ấy rất tự nhiên, coi đấy là “công bằng xã hội”. Vì bao công lao đi
tới chiến thắng là do “đảng”! Khi dân chúng tỏ ra công phẫn thì “đảng” hứa sẽ
sửa sai, sẽ đọc lại Marx để sửa sai… Nhưng rồi vẫn cứ mang ông Marx ra làm bình
phong…
Đến
nay tôi phải thành thật thú nhận là mình đã một thời đam mê, mù quáng coi Marx
là người dẫn đường không bao giờ sai lầm! Giờ đây thì phải thoát ra khởi sự u
mê, bằng cách chứng minh, lý giải, theo phương pháp triết học, qua một “lô-gích
vừa biện chứng, vừa hình thức”, để hiểu rõ tại sao sai, sai lầm đã bắt đau từ đâu,
từ khâu nào, vào lúc nào và do ai!
-
Thật là nhục nhã cho sự ngu tín ấy, vì trong thê giới ngày nay, phần lớn nhân
loại đã biết sống theo ý thức sinh tồn, theo lương tri của trực giác, với khả
năng thực tế nghiệm sinh, biết phân biệt thiện ác, đúng sai. Con người đã biết
sống theo luân thưởng đạo lý tự nhiên do truyền thống tổ tiên, ông bà truyền
dạy, mà không cần học tập, lý luận theo một chủ nghĩa hay một ý thức hệ chuyên
chính nào cả.
Thực
tại cho thấy không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản, không
một ai bằng lỏng với cuộc sống trong chế độ kinh tế nhà nước độc quyền, qua sự
phân phối hách dịch như bố thì bởi tập thể. Phải xếp hàng cả ngày để mua những
thứ hàng rất tồi về phẩm chất, rất hạn chế về số lượng, thường thiếu hụt về
cân, đo, tại các cửa hàng “mậu dịch” nhà nước. Vậy mà cứ tuyên truyền đề cao
“mậu dịch là bà nội trợ đảm đang của toàn xã hội”, coi đấy là công cụ nuôi dân
của “bác và đảng”! Thật ra là ai cũng muốn phấn đấu để thoát ra hoàn cảnh vô
sản túng thiếu như thế, để trở thành con người hữu sản, có quyền tư hữu, quyền
sống, quyên tự do sản xuất, tự do kinh doanh! Dân giễu gọi chế độ bao cấp và
hạn chế đó là chế độ Xếp Hàng Cả Ngày!
Vả
lại, chính lãnh tụ các đảng cộng sản cầm quyền, cũng sống theo băn năng của
những con người đại tư sản, với sự hưởng thụ những đặc quyền, đặc lợi. Họ dẫm
lên chủ nghĩa tập thể mà sống, nhưng họ bắt dân phải tôn thờ chủ nghĩa ấy! Tư
duy cách mạng đâu phải là làm như vậy? Vô sản gì cái lũ gian dối, tham lam ấy!
Công nông gì cái lũ cán bộ mang ban chất nhà giàu kếch sù, ưa sống xa hoa hỗn
xược ấy! Chúng chỉ là những tay chính trị gian tà quý quái, tận dùng thủ đoạn
dối trá, đội lốt công nông, để giữ chuyên quyền chính trị cho phe, cho “đảng”
và cho chính chúng mà thôi.
Rồi
Thảo thành thật thú nhận:
-
Phát động hận thù giai cấp là đã đẩy lùi còn người trở về với bản năng muông
thú, phải cắn nhau để giành ăn ở thời nguyên thuỷ, dù là nói “để tạo niềm tin
tất thắng”! Lý thuyết đấu tranh giai cấp ấy trong thực té là một sự phản tiến
bộ, phản văn minh, văn hoá. Trước đây, vì tuyệt đối tin vào Marx mà tôi cứ lúng
túng, cứ luẩn quẩn trong lý luận, cứ lẫn lộn trong mấy bậc phủ định, để tránh
phủ định ông Marx! Vì tin rằng nếu có sai lầm là do mình, chứ ông Marx không
thể nào sai! Nay tối thấy phải can đảm, phải khách quan mà phân tích kỹ lại tất
cả, qua sự hiểu biết về vận động của sự kiện thời gian hoá (mouvement de la
temporisation), bằng cách soạn ra một cuốn sách, để cho thấy con người và
xã hội đã biến thái tồi tệ như thế nào trong ý thức “đấu tranh giai cấp”. Và
rồi sau này còn cần có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá thật khách quan,
vô tư khác nữa về những tiết lộ của lịch sử, từ các hồ sơ mật, cất giấu kỹ
trong các kho lưu trữ của các đảng cộng sản cầm quyền nữa, để cho nhân loại
thấy rõ tầm tác hại vô cùng, vô tận của ý thức hệ “đấu tranh giai cấp” ấy.
Với
vẻ mặt buồn bã, sầu thảm, vì thấy rõ rằng minh đã là kẻ đồng loã, là kẻ đã đồng
hành với tội ác trong một thời gian quá dài, đã gây quá nhiều đau khổ cha con
người, bác Thảo lắc đầu thở dài:
-
Khố thế đấy! Làm cách mạng dân tộc để giành độc lập là đúng quá rồi, là đẹp quá
rồi! Nhưng lại đem ông Marx vào! Chỉ vì muốn xây dựng cho bằng được cái thế
giới đại đồng không tưởng ấy mà các đảng cộng sản và các môn đệ của Marx đã
phải dùng đủ thứ phương cách, đủ thứ thủ đoạn nham hiểm, tồi tệ… Bởi biết rằng
dùng thủ đoạn là xấu, là ác, là tội nên cứ phải che giấu, cứ phải bóp méo sự
thật để tô hồng, rồi từ đó rất sợ phản biện, rất sợ đối lập, rất sợ tự do báo
chí, nghĩa là rất sợ những định chế bảo vệ sự thật, sợ tất cả những ai đã nhìn
thấy và muốn nói ra sự thật! Người lãnh đạo ngay thẳng, một chế độ trong sạch,
tôn trọng sự thật, tôn trọng công lý thì đâu có lý do gì mà sợ những quyền dân
chủ tối thiểu ấy.
-
Giờ đây, “đảng” đành phải ngả hẳn sang kinh tế thị trường của khối tư bản.
Chính sách ấy thật ra là mang tố chất phản cách mạng xã hội. Làm như vậy chỉ
cốt để chế độ và “đảng” tồn tại… “Đảng” vẫn phải nói vớt vát rằng đó là “nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, tức là vẫn còn phải mang
ông Marx ra làm bình phong! Nhưng khốn nỗi chính ông Marx cũng đã sai! Tôn thờ
ý thức hệ mác-xít là duy trì tư duy sai lầm từ cái gốc tổ tông của cách mạng,
nghĩa là từ Marx! Nói kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
nói dối, là vẫn mang thứ biện chứng không tưởng, siêu hình của Marx ra để bảo
vệ chính sách “đổi mới”, một chính sách đã bước ra ngoài hệ thống tư tưởng
mác-xít…
Sự
thực ở ta, nay không phải là đang áp dụng chính sách “kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”, mà thực tế là ta đang thi hành thứ “chủ nghĩa xã
hội theo định hướng kinh tế thị trưởng”! Nghĩa là ngày nay “đảng” vẫn duy trì
hình thức cai trị của chế độ chuyên chính, nhưng là theo một thứ chủ nghĩa tư
bản mới rất tàn nhẫn, nhưng vẫn là thử lý luận của xã hội chủ nghĩa. Thứ chủ
nghĩa tư bản mới dã man này ở Mỹ không có. Vì ở đó dân có quyền của dân, dân
được phép phê phán, thay đổi đảng cai trị không vừa ý dân, bằng lá phiếu. Còn ở
nước ta, thực sự là sự “đổi mới” này, là đang theo một thứ chủ nghĩa tư bản rất
mới so với thời bao cấp trước đây, nghĩa là nay cái gì cũng bị coi là hàng hoá,
cái gì cũng có thể rao bán: từ lý thuyết, nghĩa vụ, từ con người, tử trẻ thơ
tới thanh niên, phụ nữ, cái gì cũng có thể bán, bán cả tài nguyên, cả đất đai,
lãnh thổ, cả sức lao động cho nước ngoài, cốt để thu đô-la về!… Vì tất cả đối
tượng đều được coi là hàng hoá để kinh doanh buồn bán, để sinh lợi nhuận… Vì
thế mà trong thực tế, nay đồng đô-la Mỹ đang làm chủ nước ta! Độc hại của sự
định hướng theo kinh tế thị trường này là đã coi các nghĩa vụ cao quý, thiêng
liêng chất như giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa coin
người. thì nay những nghĩa vũ đó cũng đều là hàng hoá, cũng phải chịu luật hạch
toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Do vậy mà nghĩa vụ chức năng thiêng
liêng, thuần tuý phục vụ con người, nay đã hoàn toàn bị phả sản. Phát triển xã
hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường như hiện nay là sự thống trị
của tư bản man rợ, là một sự phá hoại tinh thần về mọi mặt, từ lương tri tới lý
tưởng, từ trật tự kỷ cương tới truyền thống văn minh, văn hoá của tổ tiên… Tất
cả nay đều bị đồng đô-la lũng đoạn, hoạch định, xỏ mũi lôi đi vào một cuộc sống
cuồng nhiệt quá trớn. Bây giờ là thời tự do sa đoạ, tự do chui luồn luật lệ. Để
cho giới trẻ mặc sức bị cuốn hút theo lối sống phù phiếm, sống cuồng, sống vội,
sống giả. Và cứ tưởng thế là văn minh, là hiện đại, ai ngờ đó chỉ là thử phản
văn minh, là đi tụt lùi, là thứ phản văn hoá vì nó mất gốc, mất lý tường, mất
trật tự kỷ cương mà tổ tiên đã dày công xây dựng… Tại các nước dân chủ như ngay
tại nước Mỹ, chính sách kinh tế thị trưởng luôn luôn bị quyền tự do dân chủ
kiềm chế, bị tự do báo chí canh chừng, nên nó không thể tự do tung hoành phá
phách được, vì ở đó có sức phản bác của người dân. Vì dân ở đó có quyền dùng lá
phiếu của mình để lật đổ một chính phủ không tôn trọng và bảo vệ quyền dân. Ở
nước ta cho tới nay, lá phiếu chỉ là trò đùa dân chủ của “đảng”, để tô đẹp bề
ngoài cho chế độ. Thực tế là chế độ ta nay đã không hề bảo vệ dân. Thực chất của
lá phiếu ở ta là nó không có quyền lực gì cả. Nó chẳng thể đào thải được một
chính quyền tham nhũng thối nát đã bị dân chúng oán ghét, nguyền rủa.
-
Giờ đây phải lấm sao cho mọi người thấy rõ sự thật là như vậy. Vì chỉ có sự
thật ấy mới giải thoắt, giải phóng được con người khỏi những “giấc mơ vô sản
không tưởng”, với tất cả đam mê cuồng tín và ngu tín của nó! Nếu không dám khui
ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của
Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc hại như
hiện nay ở nước ta.
Rồi
bác Thảo lại thú nhận một cách đau đớn:
-
Nay tôi già rồi mới nhận ra điều ấy. Gần đất xa trời rồi mới có cơ hội để nói
ra. Khổ thế đấy! Vì vậy mà quyền lực đã muốn bịt miệng tôi, đã xua đuổi tôi ra
khỏi quê hương… Tôi đã chấp nhận ra đi, dù là vào lúc tuổi già, sức yếu, để có
cơ hội thét lớn cùng thế giới rằng: “Thủ phạm gây ra đại bi kịch này cho nhân
loại, chính là Marx!”
Từ
lúc tôi khám phá ra là tôi đã sai lầm, đã một thời đúng trong hàng ngũ của tội
ác, đã mù quáng cả tin vào ý thức đấu tranh giai cấp của Marx, thì sự tỉnh thức
ấy làm tôi thấy sung sướng. Bởi như thế là tôi đã tự giải thoát chính tôi, đã
tự giải phóng tôi. Tôi đã trở lại thành con người tự do. Tôi đã đạt tới tâm trí
thanh thản, trong sáng của con người tự do, tư tưởng không còn bị gông cùm của
ý thức hệ! Và nay dĩ nhiên là tôi phải phủ nhận tất cả những gì đã viết lúc
đang sùng bái Marx!
Những
gì đã viết mà dựa vào Marx, thì vẫn báo hàm một định kiến, một ngộ nhận, một
căn bản không tưởng, từ đó có thể dẫn đến những sai lầm khác, có thể phạm vào
tội ác. Bởi một phần tư tưởng tranh đấu của Marx, lúc nào cũng như cái bóng ma
quái, muốn thúc đẩy con người lao vào các hành động quá trớn, quá khích, do hận
thù và bạo lực cách mạng, để giải quyết các vấn đề cơ bản của xã hội, của con
người. Thật sự là trong chiều dài lịch sử nhân loại, bạo lực cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã không hề giải quyết được vấn đề bất công trong xã hội loài người
và cũng chưa hề giải phóng được ai!
Trong
thực tế, chính Milovan Djilas, nhả lãnh đạo và cũng là nhà văn của Nam Tư (cũ),
đã tố cáo sự tồn tại của giai cấp thống trị trong những cuốn như “Giai cấp
mới”, “Đất đai không công lý”. Djilas là cây viết cộng sản đầu tiên đã mạnh mẽ
nêu ra sai lầm và tội lỗi của chế độ xã hội chủ nghĩa trong tất cả các tác phẩm
của ông, tuy ông ta chưa chứng minh được những sai lầm ấy về mặt triết học!
Nhưng ông ta đã thấy chúng là sai lầm, là tội ác trong thực tại.
Còn
tôi, vì đã sống trong thời suy mạt của “xã hội chủ nghĩa”, nên đã thấy rõ về
mặt triết học, kể từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thì tất cả những gì xảy
ra trên thế giới sau ngày 30 tháng tư năm 1975, đều đã làm chứng cho một sự
thật đã bừng sáng, vì hoà bình ở Việt Nam là một mốc thời gian, đưa tới giai
đoạn mà sự thật đã chứng minh rằng, dù đã phá tan cơ cấu kinh tế tư bản, nhưng
rồi đã không thể hình thành một xã hội chủ nghĩa vô sản nào, một chính quyền vô
sản nào cả! Vì thế mà nay cái gọi là Đệ Tam Quốc tế nay đã sụp đổ hoàn toàn, từ
căn bản tư tưởng, từ bên trong xương tuỷ của nó! Cái gọi là tinh thần, là nghĩa
vụ quốc tế vô sản, là Đệ Tam Quốc tế ấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, là một tấm màn
che mắt, là một con số không. Đệ Tam Quốc tế chỉ là công thức giúp để quốc
sô-viết giữ lại toàn thể di sản đế quốc do các Sa hoàng để lại. Toàn thể khối
Liên xô tại Đông Âu đã sụp đổ từ bên trong vì sự trống rỗng tư tưởng giải phóng
của nó. Cuộc cách mạng vô sản của Pol Pot đã bị bộ đội cộng sản Việt Nam dẹp
tan, cuộc chiến tranh ngắn ngày do đảng cộng sản Trung Quốc phát động chống chế
độ cộng sản ở Việt Nam năm 1979… tất cả các cuộc chiến tranh ấy chỉ là hành
động của thực dân đế quốc bành trướng kiểu mới. Về mặt kinh tế, sự đứng dậy
ngoạn mục của Trung Quốc, của Việt Nam… cũng là do thành phần tư sản, tư bản đỏ
đã bùng lên cấu kết mạnh mẽ với tư bản man rợ nước ngoài, rất lấn át, rất tàn
nhẫn, rất vô luật lệ, để tung hoành. Vì thế nó đã phát triển rất nhanh, rất
ngoạn mục, những cũng vô cùng tai hại!
Chân
lý của sự mở mang, phát triển ngoạn mục ở Trung Quốc, ở Việt Nam là sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản mà nhân dân lao động đã phải trả giá: thợ thuyền vẫn bị
bóc lột sức lao động với đồng lương rẻ mạt, nông dân bị bóc lột bằng hành động
cướp đất, đuổi nhà! Nhà nước tư bản đỏ đã bóc lột bằng cách tận thu, tích luỹ
vôn tư bản để phát triển một sự phồn vinh giả tạo “hoành tráng” bề ngoài, mà
không lo gì cho đời sống khổ cực của đám dân nghèo khổ ở nông thôn, ở vùng sâu,
vùng xa. Tại Trang Quốc, dân lao động bị bóc lột rất dã man: lương rẻ mạt, lao
động không an toàn. Con số tai nạn lao động ở Trung Quốc cao nhất thế giới.
Thật
là tội nghiệp cho thành phần cùng dân lao động bây giờ bị bóc lột mà không có
ai bênh vực. Trước các vụ oan ức chồng chất vì bị bóc lột, bị mất đất, mất
ruộng, mất nhà! Lao động trong điều kiện tính mạng luôn luôn bị đe doạ! Và mỉa
mai thay: cái bóng ma của Marx nay lại hiện ra để kêu gào “Ở đâu có bóc lột, ở
đó phải có đấu tranh”, nhưng đâu tranh để bị đàn áp, tù đày… bởi vì đây là một
nhà nước của chuyên chính tư bản chủ nghĩa đỏ. Nó nhân danh “nhân dân”, nó có trong
tay một guồng máy công an cực kỳ thủ đoạn và thô bạo! Sai lầm, tội lỗi của
Marx, chính là cái vòng luẩn quẩn của ý thức “đấu tranh giai cấp” như thế; Dẹp
bỏ giai cấp mà vẫn còn giai cấp. Dẹp bỏ bóc lột này thì lại mọc ra thứ bóc lột
khác, tàn nhẫn hơn, kinh khủng hơn bao giờ! Bởi sự bùng phát tư bản đỏ là một
tội hình của “đảng”, phát xuất từ gợi ý của Marx. Mà ”đảng” sai thì bất trị,
không có một cơ chế nào hay một đạo luật nào trừng trị được “đảng”. Nay người
ta nói tới tư bản chủ nghĩa man rợ, nhưng người ta quên rằng cái gốc của nó,
chính là do cái xã hội chủ nghĩa ấy, là do cái ý thức thô bạo của “đấu tranh
giai cấp” ấy.
Rồi
bác Thảo lắc đầu than một cách thất vọng:
-
Bây giờ thì tôi thấy nhiệm vụ là phải nêu ra sự thật, phải lật ra cái mặt trái,
mặt thật của “đấu tranh giai cấp”, phải chỉ cho rõ đấy là thứ vi-rút vô cùng
độc hại! Vì đấy là thứ xã hội chủ nghĩa phản nhân đạo. Vì vậy mà nay, các cuộc
thuyết trình của tôi đã bị áp lực, bị đe doạ phải ngưng lại. Nay thì tôi không
còn diễn đàn để công bố sự thật ấy! Và thế là cuốn sách có xu hướng giải thoát,
giải phóng của tôi đã bị bóp chết trong trứng nước!
Anh
Lê Tiến tới lúc này thúc giục:
-
Bây giờ có lẽ bác phải làm sao hoàn thành cuốn sách cho được nhanh lẹ, cho nóng
hổi, phải giản dị nội dung để cuốn sách sớm được xuất bản, vì thời gian không
còn nhiều, bởi sức khoẻ của bác cũng không cỏn nhiều!
-
Tôi biết! Tôi biết hoàn cảnh của tôi chứ! Vì vậy mà tôi tính sẽ phải lướt sơ
qua một số luận chứng về vận động của thời gian hoá như đã dự trù. Nhưng dù thế
nào, thì cũng phải nêu ra một số vấn đề liên quan tới quyền dân để bảo vệ ba
thực thể của cuộc sống là con người, là xã hội, là môi trường thiên nhiên… để
cho cuốn sách có đủ sức lý luận thuyết phục về mặt triết học… Nhưng cũng phải
vài tháng nữa! Không thể sớm hơn được!
Lúc
chia tay, tôi hỏi thêm:
-
Một khi cuốn sách được hoàn thành và xuất bản thì như vậy là bác đã đặt xong
nền tảng để giải quyết tất cả các vấn đề của cách mạng ta chua?
-
Cuốn sách của tôi chỉ là mới giải quyết xong vấn đề tư tưởng. Còn các vấn đề
thực tế hơn, như các hậu quả tai hại của những cơ chế, những phương pháp, những
di sản độc hại do chủ nghĩa xã hội để lại, như cách thức tổ chức và điều hành
guồng máy đàn áp, là ngành công an, mật vụ, như chính sách chia rẽ dân tộc vì ý
thức hệ, và nhất là của các món, nợ, các vết thương mà cách mạng và chiến tranh
để lại như tâm thức dùng thủ đoạn, dùng bạo lực, như tù nhân lương tri (objecteur
de conscience), như phế binh, như nạn nhân “da cam”… thì những cái đó dù
lâu dài cũng không thể nào thanh toán được. Nhưng để giải quyết tốt các vấn đề
do chiến tranh và cách mạng đã gây ra, thì trước hết phải dựa trên những phân
tích biện chứng lịch sử trong cuốn sách của tôi. Đây là một công trình có tính
khai thông bế tắc tư tưởng, mổ xẻ các khía cạnh bi thảm của cách mạng, tình
trạng thiếu luật pháp, thiếu kiểm soát, thiếu chế tài đối với “đảng” và chính
quyền cách mạng.
-
Thú thực với bác là chúng tôi vẫn chưa hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của “lý
thuyết hiện tại sống động” mà bác đang bận tâm khai triển.Và chúng tôi cũng
chẳng muốn tới nghe bác để đi sâu vào vấn đề ấy. Điều chúng tôi muốn biết, như
đã nói với bác nhiều lần, là tại sao bác phải đánh giá lại tư tưởng của Marx,
tại sao cho tới lúc này vẫn cứ phải lôi Marx ra? Thế giới hiện nay đã chôn Marx
sâu vào dĩ vãng rồi, trừ ra vài lý thuyết gia cộng sản trong mấy nước độc đảng
toàn trị như Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên và Việt Nam ta thôi. Ông Marx đã
hết thời rồi. Bác có thấy vấn đề cơ bản và cấp bách nhất hiện nay của ta là vấn
đề gì khác không?
-
Tại ở nhà bây giờ, họ vẫn cứ lôi ông Marx ra làm bình phong để tự bào chữa, nên
tôi phải lôi ông ấy ra để dứt khoát chứng minh, bằng lý luận vừa biện chứng,
vừa hình thức, để thấy rằng ông ấy là nguồn cội của mọi sai lầm, tội lỗi bế tắc
của các cuộc cách mạng mà Lenin, Stalin, Mao, Hồ và cả Pol Pot nữa… đã phát
động. Và từ chứng minh cơ bản ấy, đế đi tới kết luận là những gì đã xây dựng
dựa trên tư tưởng Marx một cách tuỳ tiệm như thế là phải vĩnh viễn đào thải
hẳn. Không thể sửa sai, sửa lại, đổi mới, cách tân nó mà dùng lại. Vấn đề cơ
bản và cấp bách nhất của ta hiện nay là nhất định không sửa sai, không sửa đổi,
không đổi mới nhũng gì đã dùng và đã thất bại… để rồi dùng lại. Vấn đề cấp
bách; cơ bản và lớn nhất của ta hiện nay là phải biết hoàn toàn thay thế hẳn
nó, từ cơ sở lý luận tới phương cách tổ chức, cách hành động quá tuỳ tiện trong
đảng, trong những định chế, trong các cơ quan, hội đoàn, nghĩa là trong nhà
nước và trong toàn chế độ. Bởi những cái cũ đó đều mang trong nó bản chất sai
lầm, dối trá, gian xảo, giấu giếm. Những tội lỗi đó đều là tội ác của “đấu
tranh giai cấp”. Ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã nhận ra điều đó khi đưa ra lý
luận “không cần phân biệt mèo trắng hay mèo đen, miễn là mèo biết bắt chuột”.
Đấy là lãnh tụ họ Đặng đã can đảm thay thế hẳn quan điểm cơ bản của đảng cộng
sản là “Hồng hơn Chuyên”. Bây giờ người ta mới chịu nhìn nhận, không thể nào
lấy “hồng” thay “chuyên”. Bởi “hồng” mà dốt, mà gian thì hỏng hết! Điều nầy
tuyệt đại đã sổ nhân loại đã biết. Chỉ có mấy lãnh đạo các đảng cộng sản đang
cầm quyền và mấy tay lý luận mác-xít là ù lì, vì tham quyền, tham lợi, nên chưa
chịu nhận tội và thú tội! Một số lãnh đạo còn muốn đề bạt con cái lên nối ngôi
lãnh đạo cứ y như dưới thời phong kiến! Lý do là vì họ đang có trong tay cả một
guồng máy lộng quyền cai trị nên họ cứ tuỳ tiện dẫm lên luật pháp, cứ mưu tính
tuyên truyền gian dối, cứ dùng bạo lực để kiềm chế, đàn áp. Họ nghĩ với thứ
quyền lực không bị kiểm soát ấy, họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, bất chấp
sự phẫn nộ của dân!
-
Trong một chế độ chính trị như vậy, bây giờ bác có ân hận hối tiếc là đã uổng
công, uổng thời giờ trong những hoạt động triết học của bác hay không?
-
Dĩ nhiên là tôi rất ân hận vì đã im lặng đồng loã, mãi tới lúc cuối đời mới
thấy tường tận, cội nguồn những sai lầm là bắt nguồn từ Marx, và cũng là từ
thái độ, cúi đầu cam chịu của chính tôi. Ân hận vì đã chúng kiến, đã im lặng
trước biết bao nhiêu tội ác trong quá trình khai triển cách mạng!
Lúc
cùng với bác Thảo buồn rầu bước ta khỏi “Nhà Việt Nam”, tôi nói nửa đùa, nửa an
ủi:
-
Thôi bác ạ, bác nên tạm gác qua một bên cái công việc viết sách ấy đi để nghi
ngơi, cho khỏe, cái thân già. Cả đời bác đã đa mang nhiều quá rồi.
-
Không phải là tôi ưa đa mang đâu, sự thật là mình đã tự thân bước vào con đường
của sai lầm, bế tắc. Nỗi khổ tâm là minh cũng đã làm cho nhiều người cùng với
minh sa vào sai lầm và bế tắc. Nay mình đã tìm ra được lối thoái, nên rất ân
hận, phải sám hối, phải chuộc tội bằng hành động. Vào lúc hoàng hôn, thấy một
ngày bị lãng phí đã là đáng tiếc, đáng buồn, huống chi bây giờ là hoàng hôn qua
cả một cuộc đời, một cuộc đời đã bị lãng phí! Nỗi ân hận, hối hận đang ngùn
ngụt thiêu đốt tâm trí tôi. Thế nên tôi phải tìm cách chuộc tội, phải chỉ ra
cho mọi người cùng thấy cái sai lầm của mình, cái lối thoát của mình. Bây giờ
tôi chỉ thấy tội lỗi của cái thời câm nín của mình, đã biến minh thành một tên
trí thức đồng loã khốn nạn, đáng nguyền rủa. Đấy là món nợ phải trả cho dân
tộc, cho triết học… Mà thực sự bây giờ chỉ còn một cách chuộc tội là gấp rút
hoàn thành cuốn sách này. Có lẽ đây là cơ hội duy nhất và cuối cùng để tôi
chuộc tội trước mọi người. Chứ tôi có muốn đa mang gì đâu! Không đền được tội,
không trả được món nợ này, thì đến chết mình vẫn còn ân hận… Chết mà chưa
truyền lại cho người đi sau những trải nghiệm đau đớn, để mà thấy cái sự độc
hại vô cùng của con đường “đấu tranh giai cấp”… Không làm được việc nãy, thì
chết cũng không thế yên nghi! Vì thế việc biên soạn cuốn sách của tôi là điều
bắt buộc phải làm cho bằng được. Phải điểm mặt tử gốc, cái thứ “vi-rút” tư
tưởng đã phá hoại xã hội, phá hoại con người. Vì thế mà tôi phải cố hoàn thành
cuốn sách… Chính vì thế mà nay chúng nó muốn đè đầu tôi, ngăn cản tôi, không
muốn để cho sống!
-
Bộ bác thật tâm thấy mình đã phạm tội hay sao mà phải tìm cách chuộc tội?
-
Sống trong thời cách mạng, chạy theo cách mạng như thế… thì làm sao mà không
phạm tội! Riêng tôi thì còn phạm tội nặng hơn mọi người nữa ấy chứ! Người ta
phạm tội mà không biết mình phạm tội, không biết, tội ấy nặng nhẹ ra sao. Còn
tôi, đã bao phen biết mình phải nói một câu trái với lương tâm, làm một cử chỉ
a dua, ca ngợi tội ác, lúc đó tôi đã ý thức ngay là minh đã phạm tội, tội giả
dối, tội a đua hoan hô cái xấu, cái ác, tội hèn nhát đã phản bội lý tưởng của
mình, phản bội chính mình… Đã biết là tội là như vậy, mà vẫn cứ nói, cứ làm!
-
Nghe bác than thở tôi cũng thấy nhột. Tôi cũng từng nhiều phen, cùng đám người
chung quanh, phải vỗ tay hoan hô cái xấu, cái ác. Không vỗ tay là khó sống, vì
sợ bị chụp ngay lên đầu cái tội phản động Trong những lần học tập chính trị,
tôi cũng đã bao phen mạnh miệng hô: “Nhất trí! Nhất trí!” để đi với cái xấu,
cái ác. Cứ nghĩ nói thế cho xong chuyện, cốt để được yên thân. Bây giờ nghe bác
phân tích cái tội của bác, cái hèn của bác làm tôi cũng thấy cái tội, cái hèn
của tôi….
-
Anh có nói như vậy, có làm như vậy, cũng là thường thôi, vì không ai coi anh là
mẫu mực, là nêu gương… Cỏn tôi thì khác, đi đâu, tới đâu cũng đã được trịnh
trọng giới thiệu là thạc sĩ triết, là trí thức ở bên tây về ủng hộ cách mạng…
thì nói một câu, làm một cử chỉ như thế, là như cấp chứng minh thư cho những
cái sai, cái ác. Tội của tôi nặng nề là như vậy. Nay càng nghĩ lại càng thấy
cái sự giả dối cái sự hèn hạ khốn kiếp của mình mà hối hận, không thể tha thứ.
Mỗi trí thức hèn một tí thì cánh bảo thủ, cảnh ít học, ít suy nghĩ, lại lấn tới
một tí, rồi cứ thế mà làm cho cách mạng vấp váp thêm, làm cho xã hội sống quen
trong gian dối thêm, thêm… mãi. Nhìn lại quá khứ, biết bao trí thức cũng hèn
như tôi, chỉ biết theo đuôi ca ngợi lãnh tụ và đảng như vậy, thì nhân dân và tổ
quốc còn biết trông cậy vào ai? Tội ác cứ tiếp tục phát triển, xã hội cứ tiếp
tục suy đồi vì giả dối, vì tội lỗi. Tất cả là do đám trí thức hèn như tôi. Buồn
lắm! Hèn lắm! Nhục lắml Đau lòng lắm!
Nghe
những lời thú tội rơm rởm nước mắt ấy, tôi không còn biết nói gì để an ủi bác.
Mà an ủi bác thì khác nào như tôi cũng muốn chạy tội cho tôi. Nhìn bác Thảo
buồn rầu thú nhận “cái sự hèn khốn nạn, khốn kiếp” của mình, tôi bỗng thấy vóc
dáng bác trong sáng hơn lên, cao cả hơn lên. Thật không thể ngờ cuộc đời trí
thức Trần Đức Thảo đột nhiên đi tới giai đoạn hối hận, dằn vặt, bi thảm nặng nề
đến như thế. Nghe những tâm sự khe khắt với chính mình như vậy, bỗng cũng thấy
mình phải có cái nhìn khác đối với mọi sự, tức là phải biết chân thành nhìn lại
chính mình.. Sau mỗi lần gặp bác Thảo, lúc nào về cũng thấy trong lòng thêm
căng thẳng, trĩu nặng ưu tư. Quả thật những ưu tư trăn trở trong đầu bác Thảo
cứ như một khối nham thạch đang sôi sục bùng cháy ở độ áp xuất, loãng lỏng
fusion, với sức ép ở một nhiệt độ kinh khủng sắp nổ tung ra, sắp phun ra ngoài
vòng khí quyển như một núi lửa. Nỗi niềm tâm sự ưu tư, dằn vặt về thời thế, là
một căn bệnh rất truyền nhiễm. Bởi nó bắt người nghe cũng phải thành khẩn, nhìn
lại chính mình.
Rồi
thí một loạt tin khủng khiếp ập tới. Từ bế tắc tuyệt vọng vì mất diễn đàn, tới
bị xua đuổi khỏi nơi đang trú ngụ, với nguy cơ bị cưỡng bách, phải trở về nơi
lặng câm cũ… Lúc ấy bác Thảo nói mà mắt tập trung như đang nhìn vào chính mình,
như đang thấy trong nội tâm ngọn lửa trăn trở, phẫn uất đang ngùn ngụt bùng
cháy! Chúng tôi ngậm ngùi đề nghị đưa bác ra về, nhưng bác từ chối một cách
buồn bực:
-
Thôi! Các anh cứ để tôi về một mình, tôi muốn được đi một minh trong lúc này!
Nói
rồi bác Thảo lặng lẽ, lủi thủi rời “Nhà Việt Nam”. Nhìn bác cô đơn đi về phía
trạm xe điện ngầm, ý như bác không muốn chia xẻ với ai tất cả nỗi đau, nỗi
tuyệt vọng đang hành hạ tâm trí!
Nhưng
rồi sau đó, bỗng nhiên ùa tới toàn là tin vui mừng lạc quan vượt quá mong đợi:
một diễn đàn mới khang trang đã sẵn sàng. Một khoản trợ cấp rất khả quan và lâu
dài đã được chấp thuận. Đấy là tất cả điều kiện khả dĩ đảm bảo bền vững cho một
cuộc sống độc lập về kinh tế, tự do về tư tưởng! Không thể mong ước gì hơn!
Nhưng
niềm vui mừng bỗng vụt tắt. Một đột biến đã kết thúc số mệnh thật là nghiệt
ngã.
Mấy
ngày đầu, sau khi bị mất diễn đàn, bác tỏ ra vô cùng chán nản, bi quan… làm
chúng tôi áy náy thương bác vô cùng. Bác nói với chúng tôi:
-
Có lẽ tôi sẽ phải qua tạm trú ở Đức hoặc ở Bi. Vì hai nơi ấy vừa trả lời mấy
bức thư của tôi, họ ngỏ ý bằng lòng đón tiếp tôi, sẵn sàng chu cấp nơi ăn ở để
cho tôi tiếp tục hoàn thành cuốn sách. Nhưng tôi vẫn cứ luyến tiếc Paris, bởi
nơi đây, anh em, bạn bè đã quá thân quá tốt với tôi. Và ai cũng muốn níu kéo tôi
ở lại với Paris. Thật sự là ngoài quê hương ra, không có nơi nào tôi thấy thân
thuộc, tình nghĩa bằng cái đất Paris này. Vì thế tôi chưa có quyết định chọn
lựa ròi bỏ Paris.
Canh
và tôi cũng nhiệt liệt muốn giữ bác ở lại Paris với chúng tôi. Nhưng tình hình
trở nên đen tối, phức tạp, khi sứ quán đã dứt khoát thúc bách, ép buộc, bác
phải trở về lại Việt Nam!
Thế
rồi một buổi chiều Canh điện thoại cho tôi với giọng hốt hoảng:
-
Này, đã biết tin động trời chưa?
-
Tin gì mà động trời?
-
Chuẩn bị đi nghe bác Thảo họp báo chính thức ly khai, để tuyên bố chọn tự do.
-
Trời đất quỷ thần ơi! Thật không? Nói giỡn chơi đấy chứ?
-
Tin thật nghiêm túc đấy. Chi còn đang chọn nơi và ngày để họp báo thôi. Chính
bác gọi điện thoại cho tôi, nhờ huy động anh em sẵn sàng tới dự cuộc họp báo
cho thật đông, ông nghĩ sao về tin dự tính họp báo này?
-
Thật sự là tin này làm tôi chới với, không thể ngờ… Một người như bác Thảo đâu
đến nỗi phải họp báo để tuyên bố chọn tự do ngay giữa Paris này! Tuy bác Thảo
đã cho biết trong mấy ngày qua, ở số 2 Le Verrier “chúng nó” đã gây căng thẳng,
thúc bách bác quá… làm bác hết kiên nhẫn, chịu không nổi. Nên nay đã đi tới
quyết định phải chọn con đường chính thức công bố ly khải… Nếu có họp báo thì
anh có đi dự không?
-
Phải dự chứ! Một biến cố như vậy mà không tới chứng kiến thì thật là một thiếu
sót không thể tha thứ. Nhưng tôi vẫn không tin nổi là sự việc sẽ phải đi tới
chỗ đó. Bao nhiêu đầu óc, trí tuệ ở chung quanh, mà để xảy ra sự việc tai tiếng
động trời như vậy sao! Mà giận dữ đến mức nào thì cũng thủng thẳng mà đối phó
chứ cần gì phải dùng tới biện pháp li khai, chọn tự do như những người cùng
đường phải xin tỵ nạn chính trị như vậy.
-
Bác cho biết vấn đề là ngay sau khi họp báo thì dĩ nhiên là bác sẽ không thể về
lại căn nhà sổ 2 đường Le Verrier được nữa. Nhưng nay bác vẫn chưa quyết định
được là sẽ dọn về đâu. Bởi đã có vài gia đình tỏ ý sẵn sàng mời bác về tá túc
tạm thời, đợi khi tìm ra chỗ ở đàng hoàng. Nhưng bác bảo, tất cả các nơi sẵn
sàng mở cửa đón bác đều hơi chật chội, bác sợ làm phiền gia đình người ta, nên
còn do dự… Ồng có quen gia đình nào có nhà cửa rộng rãi, thì thử tìm giúp
xem...
-
Việc tới ở nhờ một gia đình nào ở vùng Paris này cũng khó, vì ở đây nhà nào
cũng chỉ đủ ở, ít có gia đình nào khá giả, có phòng dành cho bạn bè từ phương
xa lúc ghé thăm… Nhưng tôi có quen bác sĩ Quyền, có phòng mạch riêng khá rộng ở
vùng ngoại ô Cachan, có phòng dư để đó. Thỉnh thoảng nhiều bạn bè tôi qua đông
để thăm Paris, thì tôi vẫn mượn phòng ở đấy…. Để tôi dò ý xem sao. Ồng “tu-bíp”
này là một Việt kiều chính cống, sống ở đây từ nhỏ, nhưng lại rất thương quý
người Việt tị nạn, nên ông ta được họ coi là một ân nhân.
-
Vậy thì ông hỏi thử xem sao, có gì thì cho biết kết quả gấp. Vì bác Thảo đang
nóng ruột bồn chồn lắm.
Tôi
gọi điện thoại ngay cho ông bạn bác sĩ ấy. Ông rất ngạc nhiên khi tôi nói Trần
Đức Thảo sắp họp báo tuyên bố chọn tự do… rồi ông la lớn:
-
Trời ơi! Sao vậy? Sao mà đến nông nỗi bi thảm như thế?
Tôi
kể sơ qua lý do. Ông bạn bảo:
-
Với ai thì tôi còn phải suy nghĩ, chứ với Trần Đức Thảo, thì tôi rất sẵn sàng.
Bởi chỗ phòng mạch của tôi là một căn hộ, còn một phòng lớn và một phòng nhỏ,
định cho một bác sĩ khác thuê cùng làm phòng mạch và phòng thư ký, nhưng sau
thấy hành nghề chung đụng như vậy cũng bất tiện. Vậy thì ông trả lời ngay đi.
Tôi sẵn sàng cho Trần Đức Thảo mượn phòng lớn để ở, phòng nhỏ làm việc, mà đấy
là một căn hộ đã có đầy dù tiện nghi cho một gia đình, sẵn nhà bếp, nhà tắm, cứ
việc dọn tới là sống thoải mái.
Tôi
vội gọi Canh để báo tin mừng là đã tìm được nơi tạm trú cho bác Thảo. Nhưng
Canh đã đi ra ngoài. Lát sau, bác sĩ Quyền lại gọi tôi và tỏ vẻ lo ngại, một
cách am hiểu:.
-
Này ông ơi! Tin ấy làm tôi suy nghĩ và đâm lo cho ông ta. Nếu ông thân với Trầu
Đức Thảo, thì bảo ông ta “zọt” ngay cho lẹ! Bởi khi họ biết dự tính sắp họp báo
để chọn tự do, thì coi chừng không đủ thời giờ mà họp báo nữa đâu. Nguy lắm
đấyl Phải thúc ông ta thoát ra khỏi nơi ấy ngay đi, kẻo quá trễ mà nguy tới
tính mạng đấy. Với những con người của chế độ ấy thì không thể coi thường.
Tôi
cười và trấn tĩnh anh bạn:
-
Không đến nỗi như vậy đâu! Ngay giữa Paris chứ có phải bên ta, bên tầu hay bên
châu Phi đâu! Nhưng mà tôi sẽ cố tìm ông ta để nói rõ sự lo lắng của anh. Cảm
ơn anh.
Rồi
cả ngày hôm sau nữa, dù cố công đi tìm, tôi không gặp được Canh, mà gọi trực
tiếp cho bác Thảo ở nhà số 2 đường Le Verrier, thì ở đó trả lời như quát tháo:
-
Đồng chí Thảo đi vắng từ mấy bữa nay chua thấy về. Chắc còn lâu ông ấy mới về.
Ở đây không biết ông ấy đi đâu. Từ sáng tới giờ toàn phải trả lời điện thoại
cho ông ấy. Chúng tôi không rảnh để trực điện thoại đâu. Đừng gọi lại nữa nghe
không!
Cả
gần tuần sau, tôi mới gọi được Canh, thì được biết mọi căng thẳng đã lắng dịu,
mọi sự nay trở thành tốt đẹp. Vì có nhiều tin mừng. Thứ nhất là vợ chồng bà
Bình và ông Jacques, đã vận động và vừa lập ra ra được một một diễn đàn mới là
Nhà Văn hoá Việt Nam, ở đường Rue des Ecoles, cũng quận 5, Paris ở ngay mặt
tiền một đường phố lớn, rất sầm uất. Cơ ngơi sang trọng, rộng rãi gấp bội lần
Nhà Việt Nam ở đường Cardinal Lemoine.
Bác
Thảo đã được mời tới đó xem và tỏ ý rất hài lòng. Vậy là bác đã có một diễn đàn
mới để nối lại được nguồn hi vọng. Mọi người đều mừng vì đã có nơi hoạt động
văn hoá đẹp đẽ sang trọng mới này.
Tin
mùng thứ nhi là hội “Les Amis des Sciences” (Những người bạn của khoa học), đã
gửi thư báo cho bác Thảo biết là hội đã chấp thuận từ nay, thường xuyên chu cấp
cho bác mỗi tháng, một số tiền là mười ngàn francs (10.000. frs) để tiếp tục
hoàn thành cuốn sách. Cùng với thư ấy là một tấm ngân phiếu đầu tiên đề tên
Trần Đức Thảo. Đây là một khoản trợ cấp hàng tháng đảng kể, vì lương tháng tối
thiểu cho một công nhân viên chức ở Pháp lúc ấy là một ngàn năm trăm francs.
Vậy
là từ nay bác Thảo vừa có diễn đàn khang toang, vừa dư sức “độc lập về kinh
tế”, để thuê nhà ra ở riêng, và sẽ yên trí lớn mà tiếp tục lo viết và xuất bản
cuốn sách.
Nhưng
rồi hôm ẳỳ là thứ năm, 22 tháng tư 1993, một buổi sáng đẹp trời, ông bạn Việt
kiều Mặc Lâm đã đưa bác ra một ngân hàng gần nhà ga Montparnasse, để bảo lãnh
cho bác mở một chương mục, rồi ký thác tấm ngân phiếu do hội khoa học tài trợ
vào chương mục ấy. Ngân hàng trao cho bác cuốn ngân phiếu để sử dụng khi tiêu
dùng. Vậy là từ nay, bác không còn lo sợ bị thiếu tiền, thiếu diễn đàn nữa. Rồi
bác Thảo hãnh diện và hào hứng thông bảo cho sứ quán biết là sẽ dọn đi trong
một tương lai thật gần.
Những
thân hữu của bác, nghe tin này, ai cũng mừng. Phải vậy chứ! Cuộc đời bác Thảo
cũng phải có lúc được sống đầy đủ về vật chất, thoải mải, tự do về tinh thần
cho
Ch15: Đột tử trước thềm chân lý
Nhưng rồi bỗng bác Thảo không cần tới những may mắn
đến dồn đập ấy nữa…
Chiều
hôm sau đó, tôi đang lái xe trên đường về nhà thì nghe đài “France Info”, mà
tôi có thói quen mở nghe tin tức trong khi lái. Bỗng đài này loan tin giáo sư
Trần Đức Thảo, nhà triết học Việt Nam vừa qua đời! Tin đột ngột ấy làm tôi lạnh
người và buột miệng:
-
Ôi! Thế là cuốn sách không còn cơ hội chào đời! Phải chăng tên đao phủ đã ra
tay?
Việc
đầu tiên là tôi tìm gặp ngay bà Bích Hồng để được nghe bà kể thật chi tiết.
Thật
là quá bất ngờ! Bác Thảo hằng ngày vẫn có nếp ăn uống rất tinh khiết, không bao
giờ ăn thức ăn cũ. Vậy mà ngay xẩm tối hôm thứ năm ấy, bỗng bác bị “thượng thổ,
hạ tả” như bị trúng độc: vừa nôn mửa vừa đại tiện tràn lan đến mệt là đi. May
là lúc đó bà Bích Hồng đang có mặt. Bà vội dìu bác vào nhả tắm, tắm rửa bằng
nước nóng cho sạch sẽ, rồi lấy quần áo sạch thay cho. Sau đó đưa bác vào nằm
tạm trong một căn phòng ở ngay tầng dưới ấy. Đấy là phòng của một cán bộ của sứ
quán, lúc đó đi vắng xa. Bác Thảo dần dần tỉnh táo lại, nằm nghỉ và không hiếu
tại sao, đã ăn phải thứ gì mà bị ngộ độc như thế. Bà Bích Hồng vào hỏi thăm.
Bác cảm ơn sự săn sóc của bà, rồi bác tâm sự một cách rất lạc quan và tự tin:
-
Này bà Bích Hồng này! Mai mốt, tôi thuê nhà ra ở riêng, bà về làm cho tôi. Mỗi
tháng tôi biếu bà năm trăm. Như vậy chúng ta sẽ sống thoải mái, tự do hơn là
sống ở đây.
Câu
nói ấy chứng tỏ bác Thảo vẫn không có ý thức gì về tình hình giá cả trong dời
sống: vì số tiến lương để nghị ấy là quá nhỏ, không đáng kể.
Bà
Bích Hồng tới đặt tay lên trán bác, thấy vẫn có nhiệt độ cao, tức là vẫn còn
đang bị sốt.
Đêm
ấy, bác chỉ uống một ly sữa nóng rồi nằm nghỉ. Sau thấy nhức đầu quá nên được
cho uống một viên Aspirine..Cả đêm bác rên rỉ vì cơn sốt vẫn cao. Đến gần trưa
hôm sau, thứ sáu, cơn sốt tăng đến mê sảng, chốc chốc lại giật mình la hét lên.
Bà Bích Hồng chạy vào lay gọi cho tỉnh lại để bớt rên la. Bỗng bác ngồi nhóm
dậy, mặt đỏ gay vì mê sảng, hốt hoảng, tay nắm thật chặt lấy cánh tay phải bà
Bích Hồng miệng la lớn:
-
Nó kiểm điểm! Nó kiểm điểm!
Bà
Bích Hồng lay gọi:
-
Bác Thảo! Bác Thảo! Bác buông tay tôi ra! Bác làm tôi sợ quá! Buông tay tôi ra!
Bị
lắc người thật mạnh, bác Thảo buông tay bà Bích Hồng ra, rồi nằm vật mình
xuống; Nhưng yên được một lúc thì lại lên cơn mê sảng, rồi ngồi phắt dậy, mặt
vẫn đỏ gay, hoảng hốt rồi thét lên như đang trong cơn ác mộng:
-
Đông Âu đấy! Đông Âu đấy!
Nói
rồi lại nằm xuống, xuội lơ, duỗi thẳng tay chân, không còn biết gì nữa… Bà Bích
Hồng sợ quá vội kêu la cầu cứu ầm ĩ. Cán bộ Hào từ trên tầng lầu xuống, tới gần
quan sát, rồi chạy ra gọi điện thoại cho sứ quán.
Một
lát sau, đại sứ Trịnh Ngọc Thái tới, ông quyết định gọi xe cấp cứu của hệ thống
cấp cứu công cộng SAMU.
Bác
sĩ của toán cấp cứu hỏi:
-
Trước đó bệnh nhân đã làm gì để rồi rơi vào hôn mê?
-
Ông ta trước đó, đã bị ngất xỉu rồi bị té ở cầu thang!
-
Bị ngất xỉu đến té ngã như vậy, sao không thấy thương tích gì trên người?
-
Cái đó thì tôi không rõ, nhưng ông ta cũng đã cao tuổi rồi và rất yếu.
Bác
sĩ cấp cứu quyết định cấp tốc đưa bệnh nhân vào nhà thương. Nơi gần nhất và
thích hợp cho trường hợp này là bệnh viện đa khoa Les Broussais, cách đó chỉ
vài phút xe hơi. Tới nơi, bác sĩ cấp cứu trực của bệnh viện chích cho bác Thảo
một mũi thuốc an thần, và giữ lại tại phòng hồi sinh để theo dõi. Đêm ấy bác
Thảo vẫn sốt, nằm bất tỉnh, ngủ li bì. Đến khoảng năm giờ rưỡi sáng ngày 24
tháng tư, năm 1993, bác sĩ trực phòng hồi sinh ghi nhận bác Thảo đã trút hơi
thở cuối cùng! Ngay sau đó, bệnh viện làm thủ tục đưa người quá cố xuống nhà
xác.
Khi
được tín, tôi tìm tới nhà xác của bệnh viện. Nhìn bác nằm đấy, vẻ mặt đăm chiêu
như vẫn còn đang suy nghĩ, sắp xếp những chương mục cho cuốn sách, tôi không
khỏi ngậm ngùi thương cảm cho số phận nghiệt ngã của bác.
Than
ôi! Thế là một cuộc đời khổ ải đi tìm chân lý, đi làm cách mạng… đã vụt tắt.
Một cuồng vọng nói lẽn sự thật, bất chấp bao đe doạ, cuối cùng đã bị chặn lại
bởi một cái chết đột biến, tức tưởi. Hành trình đầy triển vọng, với mộng ước
thực hiện một cuộc cách mạng huy hoàng cho dân tộc, và cho cả nhân loại, với
phát minh một “lý thuyết hiện tại sống động”, với một “lô-gích vừa biện chứng,
vừa hình thức” tử nay bị dang dở. Cả một sự nghiệp triết học trải nghiệm công
cuộc cách mạng Việt Nam rồi đầy sẽ chìm vào quên lặng…
Vả
cuốn sách mang hi vọng “giải mã, giải tà quá khứ để giải thoát, giải phóng hiện
tại và tương lai… để chuộc tội” mà bác nóng lòng hoàn thành, nay đã vĩnh viễn
chìm vào im lặng!
Một
cuộc đời thanh bạch, chân thật, không hạnh phúc, không danh vọng đã kết thúc
thật oan nghiệt!
Nghĩ
lại những giây phút vui mừng, lạc quan, tràn đầy hi vọng, tưởng như cuối cùng,
may mắn và hạnh phúc đã đến với bác Thảo. Nhưng chúng đã bị tan biến thật phi
lý.
Nhìn
bác khiêm tốn nằm đấy, ai câng nghẹn ngào. Không cầm được nước mắt, khóc thương
cho một kiếp người tận tuỵ với lý tưởng, với chân lý, nhùng rồi giấc mộng đã
không thành….
Chỉ
còn biết nguyện cầu cho vòng linh bác dược an nghỉ từ đây!
Sáng
hôm chủ nhật 25 tháng tư, Canh rủ tôi vào thăm lại bác lần cuối. Tới nơi thì
thấy đã có mấy người thân với bác lúc cuối đời đang ngậm ngùi chung quanh bác.
Tôi chỉ nhận ra bà Bích Hồng, bà Hồng Hạnh là hai người đang sụt sùi khóc, giáo
sư Boudarel, và một nữ ký giả Pháp, và vài người nữa tôi không nhớ tên… Nhờ anh
Lê Tiến lúc đó có mang theo máy chụp hình nên đã ghi lại được giây phút cảm
động này.
Trong
nhà xác của bệnh viện, lúc ấy, bác Thảo tạm nằm đó, trên một giường sắt cũ kỹ
giản dị như cuộc đời bác: một tấm vải drap cũ trắng ngà của bệnh viện che phủ
cao lên tới tận cổ, chỉ để hở phần mặt. Trên bụng bác, ai đó đã đặt một bó hoa
cúc trắng. Bác nhắm mắt đăm chiêu, nhưng nét mặt vẫn cau có, tập trung, như
trong đầu, tư tưởng, tinh thần, nghị lực vẫn đang sôi sục vận hành, như vẫn
đang suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của triết học, của con người… Vậy mà bộ
óc cất giữ cả một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng ấy, nay đã
tan vào… hư vô!
Nhìn
bác cô đơn, khiêm tốn nằm đấy, tôi cảm thấy thật là hụt hẫng, như vừa mất một
cái gì cần thiết cho cuộc sống tinh thần của chính tôi, như cuộc đời bỗng mất
hết ý nghĩa. Cái chết của người đang nằm đây làm cho kẻ tầm thường như tôi phải
băn khoăn tự hỏi: cuối cùng, sống lặng câm, vất vả, ngược xuôi, chịu đựng bao
dẳn vặt, cặm cụi làm việc suốt cả đời như thế để làm gì? Để cho ai? Để còn lại
gì? Tôi chỉ ghi nhận một điều này: lúc cuối đời, bác Thảo đã hăng say, hào
hứng, hăm hở hoàn thành một cuốn sách “để đời”, “để trả nợ đời”… nhưng chưa
viết xong phần mở đầu thì đã bị cái chết chặn lại. Cái chết đã tàn nhẫn chấm
dứt sự bắt đầu của một công trình lớn! Thật là tiếc, vì bao người đang bồn
chồn, nóng lòng chờ đón cuốn sách mang thông điệp “giải thoát, giải phóng” mà
bác Thảo đã hứa: “Khi cuốn sách này được xuất bản thì các anh sẽ thấy mọi
nút thắt, mọi trói buộc, mọi sức ép sẽ được tháo gỡ ra cho bằng hết… để minh
bạch vấn đề công tội trong lịch sử… Công của ai, tội của ai? Đấy là cách chuộc
tội của Trần Đức Thảo này!” Nay thì điều mong ước ấy đã tiêu tan. Đây không
phải lần đầu tiên tôi thấy kẻ nhận trách nhiệm và tỏ hối hận khi đã quả trễ.
Nhưng trường hợp hối hận và muốn chuộc tội bằng một công trình triết học mà bác
Thảo đang làm, như tôi thấy, thì đây thật là một bi kịch lớn. Bởi đấy là một
sám hối chân thành, căng thẳng, bồn chồn vội vã, sau gần cả một đời im lặng tư
duy về mối tương quan giữa chân lý và cách mạng, chứ không phải chỉ là cách nói
vớt vát đãi bôi lúc cuối đời của nhiều nhà chính trị…
Đến
bản tin buổi trưa, đài phát thanh “France Info”, (Pháp quốc tin tức) là đài đầu
tiên loan báo: “Nhà triết học Việt Nam, Trần Đức Thảo, vừa qua đời tại bệnh viện
Les Broussáis, lúc 7 giờ sáng ngày 23 tháng tư vừa qua ở tuổi 76. Trước năm
1951, ông nổi tiếng ở Paris là một nhà hiện tượng học. Sau đó ông trở về Việt
Nam và đã rơi vào im lặng trong suốt bốn mươi năm. Ông mới trở lại Paris năm
1991”.
Nhật
báo Le Monde phát hành vào chiều thứ hai nhưng đề là ngày 27 tháng tư,
nơi trang trong chuyên đăng tin cáo phó của tờ báo, người ta đọc được lời cáo
phó nguyên văn như sau:
“Phòng
hộ tịch lãnh sự quán Việt Nam tại Paris đau buồn loan báo: cựu giáo sư triết
học Trần Đức Thảo, của Đại học Hà Nội, đã tạ thế ngày 24 tháng tư năm 1993, thọ
77 tuổi”. (Le Monde ngày 27 tháng
tư)
Tuy
không được thông báo rộng rãi ngày giờ làm lễ hoà táng, nhưng ngay từ lúc tin
bác Thảo qua đời, từng nhóm thân hữu đã tới bệnh viện Les Broussais để nghiêng
mình tiễn chào trước linh cữu của bác.
Rồi
gần trưa ngày 29 tháng tư, cũng là vào ngày thứ năm, đã có mặt ở khu hoả táng
của nghĩa trang Père Lachaise của thành phố Paris, khoảng bốn chục người, đa số
là những người có đôi chút thân tình với bác Thảo từ khi bác trở lại Paris. Họ
đợi khá lâu, tới lúc gần trưa thì xe nhà đòn chở quan tài bác đến. Theo sau
không có xe thân nhân gia đình, điều đó dễ hiểu. Nhân viên nhà đòn đưa ngay
quan tài xuống phòng lễ tang, để chờ được đưa vào lò thiêu. Tại tầng hầm rất
rộng ấy, có ba phòng lễ tang như vậy.
Quan
tài bác Thảo được đặt giữa một phòng lễ tang. Hai bên đầu quan tài là hai vòng
hoa cỡ lớn: một của “Mặt trận Tổ Quốc” do Sứ quán đặt theo lệnh từ Hà Nội, một
của “Amicale Trần Đức Thảo” do tiền còn lại từ những đóng góp để bác chi tiêu
lúc sống. Và vài bó hoa cầm tay lẻ tẻ của người không thuộc nhóm thân hữu Trần
Đức Thảo. Nhưng nghi thức hoả thiêu chưa bắt đầu, mọi người bỏ lên sân chờ đợi
cho thoáng mát, vì đây là một buổi sáng chớm có nắng đầu xuân. Tất cả chờ. Họ
tụm nhau ở góc sân bên trái, để thì thầm, bàn tán về cái chết đột ngột có quá
nhiều nghi vấn của bác Thảo. Thông lệ là kiều bào ở đây rất hiếm cơ hội gặp
nhau, nên chỉ có thể nói chuyện, trao đổi thăm hỏi, tin tức trong những dịp ma
chay như thế này.
Bỗng
một xe Mercedes đen lớn, bỏng loáng mang biển số màu xanh của ngoại giao đoàn
lao tới. Xe ngưng ngay cạnh góc phải của sân, một vệ sĩ cao lớn mà người Pháp
thường gọi với tiếng binh dân là “đười ươi” từ phía cạnh tài xế, vội tung cửa
nhào nhanh ra để trịnh trọng mở cửa cho đại sứ Trịnh Ngọc Thái bước ra khỏi xe.
Ông đại sử nhìn thấy đám đông ở góc trái, thay vì tiến lại bắt tay trò chuyện
với kiều bào của ông, ông lại ngần ngại, tránh né, bước qua góc phải đứng một
mình một góc xa họ. Vài nhân viên sứ quán bỏ phía chúng tôi từ từ, khúm núm tới
đứng quanh, ông đại sứ.
Sau
đó đại sứ Trịnh Ngọc Thái đi xuống phòng tang lễ, mọi người xuống theo. Đợi mọi
người vào hết, đại sứ Trịnh Ngọc Thái chậm rái rút ra từ túi áo vét, một tờ
giấy, để chuẩn bị đọc. Ai cũng nóng lòng chờ đợi xem “đảng” và nhà nước tỏ thái
độ ra sao qua bài điếu tang sắp được đọc để vĩnh biệt người quá cố một thời nổi
tiếng ngay tại Paris này.
Rồi
ông đại sứ đọc. Hoá ra đây không phải là một bài điếu văn, mà chỉ là một bức
điện tin vô cảm, ngắn gọn chỉ có vài dòng. Bức điện cho biết giáo sư Trân Đức
Thảo được truy tặng huân chương Độc Lập. Chỉ có vậy thôi. Không một câu chữ
lịch sự tối thiểu ca ngợi hay thương tiếc dành cho người quá cố. Đọc xong mẩu
điện tín ngắn ngủi ấy, quan tài được chuyển vào lò thiêu. Ông đại sứ ra về ngay
sau đó. Mọi người xì xào bình luận về bài điếu tang vắn tắt, vô cảm như thế.
Một cụ cao tuổi lắc đầu, buồn rầu nói:
-
Chắc bác Thảo nằm trong quan tài, cũng phải giật nảy mình khi nghe thấy mình
được gắn huân chương Độc Lập. Thật là không thể ngờ có một lối ứng xử hai mặt
trái ngược nhau lúc sống, lúc chết, như thế!
Vậy
là chấm dứt một cuộc đời gian nan đầy ngang trái. Cầu cho vong linh nhà bác
được vĩnh viễn an nghỉ từ đây.
Ch16: Chết rồi vẫn gian nan
Nhưng rồi sau cái chết, vong linh bác vẫn chưa được an
nghỉ!
Bởi
sau đó, thiên hạ lại bàn tán ồn lên về một tin buồn thảm: bình tro của bác đã
được gửi về Hà Nội, nhưng bị bỏ vô thừa nhận dưới gầm cầu thang của một nhà đòn
đám ma… ở ngay giữa thủ đô của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Rồi
nghe nói tình trạng này đến tai bà Nhất, người bạn đời đứt quãng của bác Thảo,
làm cho bà trăn trở. Bà quyết định xin được đứng ra lo mồ mà cho bác. Và mấy
người thân của bác ở Hà Nội đã cố vận động để xây cho bác một mộ phần ở trong
Nghĩa trang Liệt sĩ Mai Dịch, nơi dành cho các bậc có công với đất nước. Vì bác
đã được ghi công bằng tấm huân chương Độc Lập. Nhưng sự vận động xin đất ấy đã
bị chính quyền từ chối. Một cuộc tranh cãi và phản khảng nhỏ đã diễn ra. Chính
quyền giải thích: nghĩa trang liệt sĩ Mai Dịch chỉ dành cho các bậc có công lao
với đất nước, còn với huân chương Độc Lập không thôi, thì Trần Đức Thảo chưa đủ
tiêu chuẩn. Chẳng lẽ coi mấy cái nghiên cứu thuần sách vở ấy là công lao với
đất nước… sao? (!)
Cuối
cùng thì nắm tro tàn ấy đành phải mang về để trong một ngôi mộ do bà Nhất lo
xây cất tại nghĩa địa của thường dân ở Văn Điển… Nhưng “người ta” đã đặc cách
cho phép xây ngôi mộ ấy ở một đầu dẫy! Thôi như thế cũng là một cách đối xử,
tuy vẫn là một sự phân biệt giai cấp, nhưng cũng là tương đối tử tế. Chuyện
phân biệt giai cấp, công lao kia cũng chỉ là thứ phù phiếm, chắc người như bác
Thảo chẳng thèm khát thứ danh vọng ấy.
Nhưng
rồi đến năm 2000, hương hồn bác Thảo lại bị phiền hà thêm lần nữa. Bởi được nhà
nước lại lôi vong linh bác ra để cho lãnh thêm Giải thưởng Hồ Chí Minh!
Nhưng
rồi vong linh ấy vẫn chưa hết gian nan, vẫn còn bị sách nhiễu thêm nhiều nữa
chứ chưa hẳn là đã được yên nghỉ! Vì cho tới nay vẫn cứ lai rai còn những bài
báo “lề phải”, khi thì nêu ra những nghiên cứu vớ vẩn của bác để ca ngợi, để
bày tỏ bác là người được chế độ quý trọng. Khi thì để đề cao bác là kẻ có tư
tưởng rất trùng hợp với “tư tưởng Hồ Chí Minh”(!). Người ta tiếp tục to hồng,
đánh bóng lại một vóc dáng tiều tuỵ, uốn nắn lại một Trần Đức Thảo, không phải
là cô đơn, mà là rất gần gũi, thân thiết với lãnh đạo.
Thực
ra thì trong dư luận, đã có một phản ứng mỉa mai cay đắng ngay sau khi bác vừa
về với cát bụi: hàng loạt bài báo ngậm ngùi tố cáo cách đối xử tàn nhẫn đối với
một bộ óc hiếm có của dân tộc! Họ đã tả thực băng cách giễu cợt cuộc sống gian
khổ của một nhà triết học “từng tranh luận với Jean-Paul Sartre”, mà nay trở
thành một kẻ ngớ ngẩn, túng quẫn, đói khổ, lúc nào cũng như ngơ ngác không biết
thích nghi với cuộc đời và xã hội. Chỉ cần đọc lại mấy mẩu hí hoạ rất thản
nhiên, rất “vô cảm” như thường thấy, của một nhà văn lớn của “đảng” là Tô Hoài,
trong hai cuốn “Chiều Chiều” và “Cát bụi chân ai” khi ông kể về
một Trần Đức Thảo tiều tuỵ, đang cố tập ăn mặc nâu sồng, tập chịu đựng sốt rét…
để bắt kịp “đà tiến bộ của các cậu”, nghĩa là của những người như Tô Hoài!
Không hề thấy ai nói tới một sự chăm sóc, quý mến của lãnh đạo đôi với “nhà
triết học lừng danh và được kính trọng” ấy.
Câu
chuyện dài về một trí thức lớn, một nhà triết học quý hiếm của một dân tộc
nhược tiểu, từ nơi quê hương kém mở mang, lạc hậu, nhưng luôn luôn tự hào là
một đất nước có mấy ngàn năm văn hiến, và đang chuyển mình thành, một “con
rồng” của châu Á, câu chuyện ấy đã không thể chấm dứt bằng một cái chết. Càng
về sau, càng có nhiều, bài báo giới thiệu, giải thích, ca ngợi về những gì nhà
trí thức ấy đã nghiên cứu, đã viết, đã được công bố, đã được dịch ra nhiều thử
tiếng… Tuy ở chính đất nước có ngàn năm văn hiến ấy, nhà trí thức ấy đã sống
một kiếp đoạ đầy, không thấy một ai dám bênh vực, không thấy một hội đoàn, một
cơ quan văn hoá, văn minh nào dám gióng lên một tiếng kêu cứu, đề giúp nhà
triết học có thể sống đàng hoàng, để che chở ông lúc bị đám đông, “trí thức”
xúm vào đánh đòn hội chợ. Vậy mà nay ông chết rồi, thì ông lại được huân
chương, giải thưởng cao quỷ, lại được học trò cũ lao xao ca ngợi. Nay không ít
người hãnh diện tự khóe từng là người thân cận, từng là bạn, là đồng chí, là
học trò của nhà triết học ấy! Không thể hiểu thời đại này là thời gì mà lại lắm
“thân thích” với nhà triết học như thế!
Điều
đáng tiếc, đáng buồn là ít ai biết được rằng lúc cuối đời, chính con người, một
thời từng chân thành tự nhận minh là người mác-xít ấy, đã giác ngộ, đã can đảm
nhìn nhận, thái độ a dua hèn hạ, đã thú nhận sai lầm của mình, để bác bỏ, phủ
nhận những gì đã viết trong cái thời sai lầm vì cuồng tín ấy. Và từ đó, nêu ra
nhận thức mới, để đánh giá lại tư tưởng, sự nghiệp, với vấn đề công tội của
Marx! Rồi nhà triết học ấy đã vội vã lao mình vào một công trình biên soạn một
cuốn sách, “để chuộc lại những tội lỗi, sai lầm” của mình!
Mấy
người đã chứng kiến rõ sự việc này, tới nay vẫn còn im lặng. Không biết là họ
vẫn muốn bảo vệ ông Marx hay để bảo vệ chính họ? Hay là họ còn e ngại, sợ sệt…
trước quyền lực ma quái vận đang bao trùm lên thân phận họ và lên xã hội mà họ
đang sống?
Dù
thế nào, thì việc đánh giá cuộc đời và sự nghiệp Trần Đức Thảo sẽ là một công
việc khó khăn. Bởi việc trả lại công lý cho Trần Đức Thảo cần tới lòng dũng
cảm, cần có tinh thần lương thiện trí thức (mà không biết có hay không?), cần
tới trí tuệ. Bởi con người ấy đã sống, đã nghiên cứu, đã trải nghiệm trong bối
cảnh đấy nhiễu loạn tư tưởng, đầy diễn biến đau đớn, sôi động, phức tạp, trong
cái thời lương tri con người bị lu mờ vì chiến tranh, vì cách mạng, tức là cái
thời tràn đầy những thủ đoạn chính trị, những mưu kế gian xảo, vừa ngu tín, vừa
cuồng tín, khi thì đòi xét đi, khi thì phải “xét lại”, rồi là lại “chống xét
lại”…
Dù
sao thì nhà triết học ấy đã tự bào chữa bằng sự can đảm thú nhận cái hèn, cái
sai của chính mình, băng sự kiên trì giữ vững lập trường chân thật của mình cho
tới cùng.
Không
ít người cho rằng cuộc đời ấy là một thất bại, vì đã không biết thoả hiệp với
quyền lực đương thời, không biết thích nghi dù chỉ là trong một giai đoạn tạm
thời, để “đi với Bụt thì mặc áo cà-sa, đi với ma thì mặc áo giấy”! Nhưng cũng
chính nhờ vậy mà nay những gì nhà triết học để lại đều thuộc về một sự nghiệp
khả tín, chân thật.
Không
rõ sự thất bại trong chính trị của nhà triết học, cuối cùng có được coi là một
thành tựu có ích cho triết học? Dù thế nào thì cuộc đời ấy cũng là sự trải
nghiệm tuy đau đớn nhưng quý hiếm trong hiện thực khai triển cách mạng, chứ
không phải trong sách vở. Đây là một bài học về sự vận động của thời gian, do con
người, cho con người và cho xã hội, trong lịch sử cận đại.
Có
người cho rằng nhả triết học Trần. Đức Thảo đã thất bại vì cái tội ngông cuồng
muốn làm một việc không thể làm, là trở về quê hương cộng tác với “cụ Hồ” xây
dựng một mô hình cách mạng mới mẻ mà loài người mơ ước! Và ông đã chết vì tội
thứ nhì là lúc cuối đời ông đã cố chứng minh cái gốc của mọi sai lầm và tội ác
là do cụ tổ Marx, trong khi cung đình vẫn sùng bái, vẫn quả quyết bảo lưu rằng
Marx “đúng”, “duy nhất đúng”! Nhưng đối với tôi cả hai tội vừa kể đều không thể
coi là tội, bởi mơ ước và hành động sám hối chuộc tội đều là quyền cơ bản cao
quý của con người trí thức chân chính.
Tội
tin rằng trước ông đã có, rồi sau ông sẽ còn có, những người tiếp tục những
công trình đội đá vá trời như thế. Nên sự ra đi đột ngột của ông tuy có thể là
một dang dở, một tổn thất, nhưng không thể là một chấm dứt, một mất hẳn, một
thất bại của triết học. Vì chứng tích của sự nghiệp ấy còn đó, cái “hiện tại
sống động” mà ông đang hào hứng khai triển vẫn còn đó. Hậu thế vẫn có thể tiếp
tục nghiên cứu nó để tìm hiểu nó thật cặn kẽ…
Nay
thì những năm tháng cứ tiếp tục trôi đi, sự chờ đợi trở thành vô vọng. Lớp bụi
thời gian cứ phủ lên mỗi lúc mỗi thêm dầy! Quái ác hơn nữa, theo sau sự quên
lãng ấy, là những lớp bụi bậm, những lớp rác rưởi đã, vô tình hay cố ý, bao
phủ, che khuất, như muốn lấp kín mọi sắc thái tư tưởng đích thực của ông!
Trần
Đức Thảo đã cố làm sáng tỏ chân lý bằng cách sống và cách làm việc của ông. Đó
là vì tôn trọng sự thật, tôn trọng con người, chứ không vì danh lợi, không vì
địa vị. Vì vậy việc truy tặng huân chương và trao giải thưởng, dù là cao quỷ,
dù là một cách chuộc lại những gì còn có thể chuộc của một thời lịch sử đã bị ô
nhiễm vì gian dối. Thế nhưng hành động, ấy có thể lại gây thêm một ngộ nhận,
một sự phản bội lại tư tưởng độc lập của nhà triết học. Bởi Trần Đức Thảo đã có
nhận xét về một thời lịch sử đã bị làm hỏng, làm bẩn, mà người ta khéo léo gọi
đó là một thời đầy những “mảng tối”! Hi vọng rồi đây, sẽ tới một thời trong
sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm, để làm công việc giải toả, dọn
rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy trì những cái “duy nhất đúng”. Bởi
những “cái duy nhất đúng” ấy đã làm ô danh cả lãnh tụ, cả “đảng” lẫn cả cách
mạng.
Sau
này, chừng nào hậu thế có đầy đủ điều kiện lương thiện trí thức, để mở lại vụ
án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để có thể trả lại công lý cho cái phong trào tư
tưởng tiến bộ ấy, cho lớp người thực sự là “tiên tiến” như Trương Tửu, như
Nguyễn Hữu Đang… như cả Trần Đức Thảo… thì lúc đó mới có thể làm sáng tỏ để
đánh giá tầm vóc cuộc đời và sự nghiệp, và cả về cái chết đột ngột của Trần Đức
Thảo..
Chỉ
lúc ấy, hậu thế mới có thể biết rõ được giá trị sự nghiệp mà Trần Đức Thảo đã
hết lòng mơ ước và đã dầy công tạo dựng là như thế nào.
Đấy
là một Trần Đức Thảo bi thảm, như tôi đã thấy, đã gặp và đã được nghe ông trải
bầy tâm sự.
Đấy
là một con người tàn tạ trong gian nan, hối hận, Đấy là một cuộc đời bi thảm…
mang đầy thương tích thối tha của hận thù và bạo lực. Nhưng bộ óc ấy vẫn trong
sáng, không oán thù ai, mà chỉ hối hận về sai lầm, về sự im lặng của chính
mình, tự thấy mình mang tội đồng loã với sai lầm trong một thời gian quá dài.
Đây là công, tội của một kẻ tôn thờ chân lý. Không ít người cho đấy là một nỗi
đau, một thất bại của nhà triết học khi đã dại khờ lao minh vào đống rác của
lịch sử… với giấc mộng cuối cùng, là sẽ mang công sức và trí tuệ của mình ra để
làm sạch lịch sử, làm sạch cách mạng!
Tuy
vô tài, bất tưởng, văn dốt, vũ dát, tôi cũng muốn gắng làm chứng cho bộ óc
thông thái vô cùng bi thảm ấy. Bi thảm vì thấy mình đã uổng phí cuộc đời: lúc
có thể, lúc nên nói, nên vùng dậy để bênh vực con người và những giá trị văn
minh văn hoá, để dũng cảm ngăn chặn tội ác, để uốn nắn cách mạng theo hướng
thiện, thì ông đã không làm. Nay thấy cái sự im lặng trong suốt mấy chục năm
qua là đã đồng loã với cái sai, với cái dối, cái ác. Bi thảm vì vào lúc hoàng
hôn cuộc đời, nỗi hối hận đã thiêu đốt ông, đã hối thúc ông phải vùng dậy để
hành động, để chuộc tội. Nhưng than ôi, đã quá trễ! Cái chết không cho ông
chuộc lại tội đã uổng phí cuộc đời, uổng phí bao nhiêu năm ăn học, uổng phí bao
nhiêu năm nghiền ngẫm suy tư về cách mạng!
Với
bài học của đám trẻ nghèo khổ phải kiếm sống trên những bãi rác bao la, nhưng
chúng có con mắt tính anh, bẻn nhạy, nhạnh tay bới tìm ra từ đồng rác đó những
gì còn đùng được, tôi cũng muốn cố bởi tìm trong đồng rác lịch sử đương đại, để
nhặt nhạnh, từ cuộc đời và sự nghiệp dang dở Trần Đức Thảo, một chút gì còn
dùng được. Chặng lẽ một cuộc đời đầy ắp tư duy thông thái ấy đã không.. để lại
được chút gì hữu ích cho hậu thế? Chẳng lẽ tôi cứ thản nhiên, vô cảm, đứng nhìn
cái đống rác thối rữa vĩ đại ấy vĩnh viễn vùi lấp ông sâu vào thối tha và quên
lãng? Như vậy thì cuộc đời bi thảm ấy thật là lãng phí. Bởi thế, tôi cố kể lại,
để chia sẻ cùng bạn đọc, cái sự may mắn của tôi vì đã được triết gia Trần Đức
Thảo coi như người thân, để ông tâm sự, nỗi niềm. Tôi đã lắng nghe ông vì đời
ông tuy bi thảm, nhưng đã tích luỹ nhiều điều thật hay, cũng hữu ích người
nghe, là… tôi.
Phụ lục:
Chép lại từ cuốn băng ghi âm mấy lời tâm sự của giáo
sư Trần Đức Thảo mười hai ngày trước khi ông lìa đời
Hôm
ấy, là thứ Ba, 12-4-1993, vào khoảng gần 6 giờ chiều, mấy anh em chúng tôi tới
“Nhà Việt Nam” ở đường Cardinal Lemoine, quận 5, Paris, để nghe giáo sư Trần
Đức Thảo thuyết trình tiếp như thường lệ mấy phần đầu của một cuốn sách đang
được ông soạn thảo, thì bất ngờ thấy nhiều người có vẻ bực tức, lục tục bỏ ra
về. Khi chúng tôi vừa tới, họ mách bảo: “Buổi thuyết trình bị cấm rồi”… Nhưng
sau đó, chúng tôi cũng vào được để tìm hiểu lý do. Lúc đó giáo sư Thảo đang
thầm thì với anh Dũng, bên cạnh có anh Lê Tiến, trong phòng hội của “Nhà.Việt
Nam”. Anh Lê Tiến cùng giáo sư Thảo kéo tôi bước sang một phòng nhỏ phía sau để
nói chuyện cho kín đáo tránh những cái nhìn đang rất thắc mắc tại sao bỗng
nhiên lại có lệnh cấm buổi nói chuyện đã được loan báo từ trước. Chính trong
căn phòng nhỏ này, tôi đã ghi âm lại những lời tâm sự mà nay nó trở thành những
lời trăn trối quan trọng và rất cảm động
Và
sau đây là bản chép ra từ phần ghi âm ấy.
Như những lời
trăng trối
Trước sự thất
vọng vì buổi thuyết trình dự trù đã bị cấm quá đột ngột, giáo sư Thảo đã bực
bội nói ra những gì bác cất giấu trong đầu lúc đó. Bác lớn tiếng, tay đập xuống
bản, dằn từng tiếng mà nói:
- Chỉ tại tôi
muốn nói ra là chính Marx sai.
Tôi hỏi:
- Tạĩ sao bây
giờ bác mới nói là Marx sai?
Bác Thảo lại
đập mạnh tay trên bàn một cách giận dữ:
- Bây giờ tôi
nhận ra là chính ông Marx sai. Chứ không phải là ông Marx nói đúng rồi học trò
học sai. Chính ông Marx cũng sai.
- Nhưng bây
giờ thì có phong trào đòi “phải đọc lại kinh điển”…
- Đấy! Thì mấy
cái thẳng đòi đọc lạỉ kinh điển, rồi chúng nó vẫn cứ thế… Đến lúc có gì kiểm
thảo thì lại bảo: sai là chúng tôi sai, chúng tôi sẽ đọc lại Marx, nhưng mà
chính ông Marx cũng sai. Rồi cứ luẩn quẩn mãi thế…
- Bác phải chỉ
cho họ thấy chứ!
- Thì hiện nay
tôi đang chỉ, vì thế mà chúng nó muốn đè đầu tôi. Nếu mà không nhận ra là ông
Marx sai thì không thể nào thoát ra khỏi chỗ này được.
Nhưng mà “lần
này” là còn phải bao lâu nữa bác mới chỉ rõ cho họ biết được?
- Còn độ vài
tháng nữa thôi. Có lẽ tôi cũng phải làm sớm hơn, có lẽ cũng chỉ hai ba tháng
nữa thôi. Tại vì để lâu quá rồi. Vì chúng nó vẫn cố giữ địa vị. Hiện nay thất
bại như thế rồi nhưng vẫn cố giữ địa vị, để giữ cái món ăn tiền… cứ bảo vệ ông
Marx. Bảo sai là chúng tôi sai, nhưng mà ông Marx ông ấy đúng. Cứ bảo vệ ông
Marx.
- Bây giờ có
mấy cái nghị quyết mới muốn xiết lại…
- Tai hại nhất
là cái thằng Baiibar ấy, cái thằng ấy là nó lại là siêu Marx! Nó giả vờ đứng về
phía Marx để nịnh mấy cái thằng kia vốn đã đội Marx lên trời… Nhưng nó lại còn
quá nữa, nó còn siêu hơn cả Marx nữa…
- Tức là thứ ultra đấy…
- Ừ, tức là ultra đấy. Thế là cứ loanh quanh mãi,
lại cứ ông Marx mãi… Rồi nói là chúng ta học sai. Rồi lại cứ ông Marx mãi.
- Nếu vậy thì
bác phải kịp thời chỉ ra cho họ thấy chứ!
- Thì tôi đang
chỉ cho họ thấy, thì cũng độ sáu tháng nữa… vì thế mà chúng nó đàn áp tôi. Nếu
mà không rời ông Marx ra thì cứ luẩn quẩn mãi.
Anh Lê Tiến
chặn lại:
- Bác nói ai
sai cũng được, nhưng mà cũng phải khiêm tốn một chút… Cũng như khi Euclide viết
định đề toán học, cũng có người nói ông này sai, nhưng…
- Không! Cái
này không thể chỉ như toán học được…
- Nhưng mà bây
giờ muốn hỏi bác, bác nhận thấy Marx sai từ lúc nào?
- Từ cuối năm
ngoái (tức cuối năm 1992). Tôi nhận ra rằng ông Hegel ông ấy sai, rồi ông Marx
lấy lại phương pháp của ông Hegel. Chính phương pháp y sai. Ông Marx bảo phương
pháp ấy đúng, ta cứ lấy lại… nhưng thực ra là phương pháp ấy sai…
- Bác phải chỉ
ra cho rõ cái điều đó chứ….
- Ừ thì đấy,
tôi đã chỉ ra trong cái bài đầu. Bài đầu và bài thứ hai. Chính là phương pháp
ấy sai, ống Marx lại lấy lai phương pháp ấy…
- Nếu thế thì
bác phải phủ nhận những gì đã viết từ trước tới giờ?
Bác Thảo (gõ
mạnh xuống bàn):
- Tất nhiên
rồi. Tôi nói rõ ra như vậy, tất nhiên là phải phủ nhận. Tất nhiên là phải phủ
nhận! (Chúng tôi nghe và im lặng hồi lâu như bị sốc!) Ông Marx tưởng là ông
Hegel đúng, ông Marx lấy lại phương pháp của ông Hegel, khổ thế! Chính là ông
Hegel cũng sai.
- Bác phải làm
sao chỉ ra như vậy chứ.
- Thì trong
hai cái bài đầu, tôi chỉ ra là ông Hegel sai…
- Nhưng mà
chưa rõ lắm.
- Nếu mà không
vạch ra được cái chỗ ấy thì cứ luẩn quẫn mãi. Cái bi kịch của cách mạng ta là
cứ bảo Marx đúng, nhưng mà ta không hiểu, nên ta vận dụng sai, rồi cứ luẩn quẩn
đi học Marx mãi.
Anh Lê Tiến:
- Cái bi kịch
của cách mạng ta, dù sao đi nữa thì cũng có hai giai đoạn, một giai đoạn cách
mạng dân tộc giành lại độc lập cho đất nước…
- Đấy không
phải là giai đoạn cách mạng vô sản, sau rồi nó mới làm cách mạng vô sản, rồi nó
mới chia ruộng, mới đấu tố. Còn cách mạng dân tộc thì đúng quá rồi. Cách mạng
dân tộc thì đúng quá rồi. Nhưng mà cái mà đưa ông Marx vào ấy, bảo rằng cách
mạng dân tộc chưa ăn thua gì hết, phải theo đường lối của nhà nuức là của chung
ấy… chiếm công vi tư theo cái kiểu nhà nho.
Anh Lê Tiến:
- Dù sao thì
trong giai đoạn đầu…
Bác Thảo chặn
lại:
- Gíai đoạn
đầu ấy thì chưa thò ông Marx ra…
- Nhưng mà ở
nhà bây giờ người ta lại nêu ra tư tưởng Hồ Chí Minh…
- Nói tư tưởng
Hồ Chí Minh thì cũng lại là lòi ông Marx ra… (Tay đập bàn) Mà vận đụng Marx là
nó sai từ gốc. Ở nhà chúng nó cứ bảo tôi: cứ giữ danh nghĩa ông Marx thì ăn
tiền. Chúng nó biết tôi nghiên cứu về Marx thì nói thế. Chính mấy cái anh học
mót về Marx ấy cứ bảo: Sai là chúng tôi sai vì chúng tôi dốt nên chúng tôi sai,
bây giờ chúng tôi học lại Marx…
Anh Lê Tiến:
- Nhưng giờ
đây người ta nói tới tư tưởng.Hồ Chí Minh nhiều hơn…
- Thì Hồ Chí
Minh thì vẫn là Marx, tất nhiên ông ấy cũng khôn hơn, ông ấy nói ra một cách đại
chúng… nhưng cũng vẫn là Marx, nghĩa là vẫn sai tận gốc…
- Như cải cách
ruộng đất thì có phải là Marx không?
- Cải cách
ruộng đất chính là theo tinh thần Marx. Vì thế mà nó sai. Nó sai vì ông Marx,
chứ không phải nó sai vì hiểu lầm.
Anh Lê Tiến:
- Từ trước tới
giờ không có ai nói là Marx sai…
- Ông Marx sai
trước hết là vì ông Marx lấy lại phương pháp của ông Hegel, mà chính là Hegel
sai, sai vì phương pháp. Lại thêm một điểm nữa là vì ông Hegel nói trên trời
thì không đến nỗi tai hại quá… Marx lấy lại phương pháp tư tưởng của Hegel làm
cho cái học thuyết nó sai… Như là trong Chính
sách Kinh tế mới của Lenin ấy…
Anh Lê Tiến
tiếp tục chặn lại:
- Cái Kinh tế mới ấy là đúng nhưng con
người thi hành kinh tế mới ấy chưa phải là con người mới xã hội chủ nghĩa…
- Kinh tế mới
ấy là đúng, nhưng có người nói theo Marx thế là nó sai, thế nên Lenin thua. Mà
chính là do Marx sai nên mới dẹp nó đi…
- Dù thế nào
thì bác cũng chưa nói thật rõ…
- Thì trong
hai cái bài đầu, tôi đã chứng minh là cái dialectique của Hegel là sai, mà ông Marx lấy lại cái dialectique ấy thì lại cảng sai. Vì
sao? Vì Marx đưa từ trên trời xuống đất.
- Sao bác
không nói thẳng ra như vậy…
- Không thể
nói thẳng, nói rõ ngay ra tất cả nhur thế được. Vì chủng nó đang đả tôi như
thế, chủng nó đánh cho vỡ đầu ra… Nhưng nay đã là quá lắm rồi, đã sai lầm như
thế rồi mà chúng nó cứ lại mác-xít mãi, chúng nó vẫn cứ vin vào bảo Marx đúng,
sai là chúng tôi sai… Nhưng thật là đã sai từ gốc…
Anh Lê Tiến
lại nói:
- Cháu chưa
thấy ai đã nói ra như vậy.
- Ở nhà không
có ai dám nói ra như vậy. Mà ở đây cũng không có ai nói ra như vậy. Nhưng mà
tôi nhận thấy nếu mà không nói ra như vậy thì cứ luẩn quẩn mãi, đã thất bại như
thế, lại cứ ông Marx mãi, cứ đọc lại kinh điển…
Anh Lê Tiến;
- Bác không
dùng marxisme nữa thì dùng cái gì?
- Thì phải
dửng cái khác!
- Cái khác là
cái gì?
- Là cái mà
tôi đang xây dựng. Cái mà tôi đang xây dựng bước đầu, là hoàn toàn mới chứ mà
cứ theo Marx mãi thì không được…
Anh Lê Tiến:
- Theo trong
lịch sử triết học thì phương đông kể từ Khổng Tử, Mạnh Tử rồi Lão Tử, còn
phương tây thì là từ Aristote tới Descartes…
- Tất cả những
cái đó thì nó sai rồi…
Anh Lê Tiến:
- Bác nói như
thế thì từ khi con người xa rời cái thế cầm thú mà bác nói nó sai thì…
- Những cái
của thời đó thì nó có thể thử nghiệm được, nhưng nay thì nó không còn dùng
được…
(Cuộc tranh
luận giữa giáo sư Thảo và anh Lê Tiến trở nên gay go và lộn xộn rất khó nghe rõ
nên xin gác qua đoạn này để chỉ chú ý tới những lời lẽ của giáo sư Thảo sau đó)
Anh Lê Tiến:
- Cháu thấy
bác dù sao thì cũng nên thận trọng.
- Thì nay mới
bước sang phần thứ tư, còn trong ba cái phần đầu, chúng nó có nói gì nổi đâu.
Nếu chúng nó mà phá được, thì tôi chết rồi. Tối không còn ngồi đây nữa. Nhưng
mà đánh vào quyền lợi của nó thì tuy nó không làm gì được, nhưng nó bịt đầu,
bịt đuôi, không cho sống. Nếu mà nó đánh được thì chết ấy chứ.
- Nhưng bác
phải chỉ rõ ra cái đường hướng mới ấy chứ.
- Thì những
cái mà tôi đã viết, nhát là trong ba cái bài đầu ấy, chính chúng nó không bẻ
được thì tôi mới còn sống…
Anh Lê Tiến:
- Cháu nói cái
này cũng là để information
thôi, để mà thấy chuyện chung thôi, chứ không phải là phê bình bác. Nhiều
người, trong đó có những người đã viết thư cho bác… Thì người ta nói những điều
bác viết, những điều bác nghĩ cũng như mấy cái propositions của bác, thì… (mấy từ tiếng Pháp này nghe không
rõ…), nhưng mà tới bây giờ trên phương diện trao đổi giữa người với người, xưa
tới nay chưa có ai nói những cái như bác viết…
- Thì cho tới
nay tôi chưa đưa ra được những điểm cần thiết… Làm thì không thể nào trong bốn
tháng mà làm xong được… Cái mà tôi nhận ra thì mới trong sáu tháng thôi.
Anh Lê Tiến:
- Mà bây giờ
thì thời gian cũng không có, vấn đề sức khỏe của bác rất là giới hạn, rồi
chương trình công tác nó đòi hỏi nóng hổi, phải nhanh phải lẹ. Mà với điều kiện
sinh sống của bác như thế này, với phương tiện vật chất của bác như thế này,
thì cũng phải làm cho lẹ…
- Những cái
tôi làm, không thể đi thẳng vào vấn đề, vào con người và xã hội hiện nay… Mà xã
hội hiện nay nó xuất phát từ cả một lịch sử xã hội… Mà lịch sử xã hội nó xuất
phát từ cả một cái lịch sử động vật… Tất cả những cái đó là cần thiết phải
thông qua… Thì đấy tôi cũng đã nói rất là đơn giản, nhưng mà cũng phải nói, mà
cũng mất công… Mà công thì không thể nào bốn tháng mà làm xong được. Làm xong
thì cũng chỉ năm hay nói chậm ra cũng chỉ sáu tháng thôi… Mà hiện nay tôi tới
tuổi già rồi mới nhận ra, mà tới tuổi già rồi mới có điều kiện, nhận ra, chứ
trước có ai dám động tới cụ Marx đâu.
(Mấy câu này
do giáo sư Trần Đức Thảo nói ra để phác hoạ mấy chương của cuốn sách mà ông
đang hình thành, nhưng không kịp nữa)
Trở lại với
cuộc đối thoại, Anh Tiến lại nói:
- Cái đó là
thói quen của bác ở trong nước, chứ ở đây nó đụng tơi bời…
- Nó đụng
nhưng mà nó không có một chính truyền… Tôi là người đầu tiên dám đụng tới
Hegel. Ở ngoài không ai dám đụng tới Hegel, cứ nghe ông Hegel như là thành, còn
thì là do không hiểu, nên không ai đụng tới Hegel.
Anh Lê Tiến:
- Ở đây thì họ
vẫn đụng tơi bời…
- Nhưng không
ai đi vào cái gốc tức là cái phương pháp.
- Tức là logique và dialectique…?
- Thì đây! Thì
cái ấy đấy, chưa ai đụng đến. Nếu đụng đến thì anh phải có một cái mới… Nếu mà
không có một cái mới thì anh không dám làm gì…
Anh Lê Tiến:
- Có thể là từ
Marx tới bây giờ thì chỉ có một Trần Đức Thảo dám đặt lại vấn đề…
- Tôi không
phải là người đầu tiên, mà có từ ấy… Nhưng mà tôi là tôi nói cho nó rõ, rồi tôi
phát triển được… những cái đó thì mới lắm… chưa bao giờ… Mới bắt đầu có từ
những năm ba mươi, thì tôi phát triển được… Ông Husserl thì nói từ những năm ba
mươỉ, Nhưng mà ông ấy theo phe duy tâm.
Anh Lê Tiến:
- Bây giờ lại
nói Marx là học trò của ông Hegel… thì bây giờ…
- Không! Bây
giờ thì phải làm lại… Lần đầu tiên tôi làm đến nay, nghĩa là những cái mà tối
làm rồi thì chưa ai bẻ được. Mà không thể nào bẻ được. Thì nó là lần đầu tiên
có một phương pháp mới, chưa bao giờ có cái phương pháp ấy… Trước đây ấy, có
hai quy trình: quy trình vin vào dĩ vãng… rồi cứ nhớ lại di vãng… Rồi nó lý
tưởng hoá dĩ vãng, thần thánh nó… lấy nó làm gốc. Thế rồi có những cái nó lại
đi trước, nó thiên về tương lai… khổ nhất là Marx… ông ấy đã đặt cái tương lai
lên trước cái hiện tại… để bảo rằng: “ Sau này thì sẽ tiến lên chủ nghĩa cộng
sản… thì sẽ gì, gì đấy...
Đến đây vì
cuốn băng bị hết nên không ghi âm được đầy đủ phần chứng minh của giáo sư Thảo
nói về vấn đề “chính Marx đã sai”.
Cũng xin nói
thêm cho rõ: đáng lẽ ra giáo sư Thảo tới Nhà Việt Nam hôm ấy là để diễn thuyết
về đề tài “La Théorie du Présent vivant comme Théorie de Associativité (Lý
thuyết Hiện tại sống động như là lý thuyết của liên hợp tính)”.
Nhưng anh Dũng
người trực phiên tại Nhà Việt Nam hôm ấy cho biết có lệnh thôi không cho tổ
chức các buổi thuyết trình như vậy nữa. Hôm ấy giáo sư Thảo cầm tới một số tập
tư liệu sao ra băng photocopie về các đề tài đã thuyết trình bằng tiếng Pháp để
bán. Trong đó có đề tài của buổi thuyết trình hôm ấy, nhưng rồi bị cấm. Tập tư
liệu bằng tiếng Pháp ấy bác ghi rõ là “Edité par l’auteur (Do tác giả ấn hành)”
và có ghi ngày in là 12-4-1993. Rồi có tin bác giận dữ tính họp bảo để tuyên bố
chọn tự do!
Nhưng tiếc
thày, đến ngày 24-4-1993 thì bác Thảo đột ngột qua đời.
Cũng xin nói
thêm lá cuốn băng ghi âm này và vài cuốn băng ghi âm mấy buổi nói chuyện khác
của bác, tôi sẵn sàng trao lại cho những ai muốn nghiên cứu về bác Thảo, đặc
biệt là nếu có thư viện nào muốn lưu trữ tư liệu của chính Trần Đức Thảo.
Bạt:
Trần Đức Thảo đã ra đi và Việt Nam mất đi một triết
gia. Song điều đó có nghĩa gì đối với một đất nước có quá nhiều mất mát, ở một
nơi mà do cuồng vọng của lãnh đạo hàng triệu gia đình đã mất cha mất con, mất
vợ mất chồng, đôi khi mất cả hai ba thế hệ, mất cả không ít trẻ thơ là mầm non
của đất nước?
Song
ta có thấu hiểu về sự mất mát của chỉ một người như Trần Đức Thảo, ta mới trông
ra hết cả cái thảm kịch của một dân tộc bất hạnh như dân tộc Việt nam.
Từ
nhỏ, ông đã học giỏi. Song điều đó không lạ, không hiếm ở một nước có truyền
thống hiếu học. Lớn lên, ông vẫn nổi bật giữa chúng bạn, trong một ngành mà
không mấy người Việt Nam đi vào, mà còn ở ngay một môi trường không phải là của
ta.
Người
ta bảo người Việt không thích triết bởi cái tính thực tiễn, thiết thực ở nơi
ta. Với loại triết lý “thằng Bờm”, ta sẵn sàng để những vấn đề nhức đầu nhức óc
cho người khác. Chẳng thế mà người ta bảo người Việt bình thường chỉ có loại
triết lý vụn chứ không có triết học.
Vì
sao?
Vì
triết học đích thực đòi hỏi những tư duy tập trung, sâu sắc, dài hơi và dài
hạn, để cho cái nhìn của ta trở thành hệ thống. Dựng nên một hệ thống triết học
liền lạc, do đó, không phải là ai cũng làm được mà không làm được thì làm sao
ta có thể sánh với những bộ óc lớn của nhân loại?
Chính
vì thế mà cái học lên đến cỡ của một Trần Đức Thảo hay Nguyễn Mạnh Tường thời
tiền chiến không phải là dễ, đạt đến mức của một Nguyên Xuân Vinh hay Trịnh
Xuân Thuận, Ngô Bảo Châu đời nay là đã thành những bảo vật mà xã hội cần gìn
giữ, cưu mang. Bởi những con người như vậy không tự nhiên sinh ra là xuất
chúng. Cái giỏi của họ là kết quả của bao nhiêu tu luyện, để một ngày kia họ có
thể trở lại đền đáp xã hội đã nuôi dưỡng tài năng của họ.
Những
con người như vậy sẽ đem lại vinh quang cho xã hội sản sinh ra họ và họ càng
đóng góp được cho nhân loại bao nhiêu thì họ càng làm vẻ vang cho nguồn gốc của
họ bấy nhiêu.
Vùi
dập những tài năng như vậy, do đó mà thành một trọng tội. Không phải chỉ chúng
ta nghĩ như vậy. Ngay một người đi theo “Đảng và Bác” bao năm như nhà thơ Huy
Cận mà cũng trông ra cái mất mát to lớn của một người như Trần Đức Thảo.
Sau
khi được tin ông chết, có lẽ qua con ông là Cù Huy Hà Vũ lúc bấy giờ đang học ở
Paris, Huy Cận ở tận Hà Nội đã phải thốt lên:
NHÀ
TRIẾT HỌC
Tặng
hương hồn Trần Đức Thảo
Anh
sinh ra ở miền Kinh Bắc
Đất
nước thâm trầm nuôi dưỡng anh
Cha
ông sông lắng dòng sâu sắc
Suy
ngẫm nhân sinh tập đại thành.
Cổ
kim suy tưởng ôm hành động
Chân
lý rèn trong lửa cuộc đời
Thế
kỷ hai mươi hồn mở rộng
Gốc
xưa nhựa ẩm bật cành tươi.
Chao
ôi dao động, lòng chao đảo
Ai
héo nhân văn, xấu kiếp người
Đã
có giữa đời Trần Đức Thảo -
Người
ơi vững gót (1) trụ đất trời
Triết
nhân tẩn mẩn như con trẻ
Từ
tiếng u ơ tìm lại nguồn
Ngôn
ngữ lắng trầm nghìn thế hệ
Giọng
người đâu phải tiếng chim muông
Triết
nhân có phải tăng nguồn sống
Cho
mỗi hồn ta, cho thế nhần
Vất
vả đường ai, nhưng gió lộng
Nâng
chân muôn dặm bước hài văn.
Huy
Cận
5
giờ sáng 11-7-91
(1)
Ngạn ngữ xưa: “Biết cắn môi để chịu thiệt, Đứng vững gót mà làm người”.
Trong
bài thơ, Huy Cận nhắc đến một tác phẩm lớn của Trần Đức Thảo, cuốn Recherche
sưr l’Origine du Langage et de la Conscience (được Đoàn Văn Chúc dịch sang
tiếng Việt là Tìm Cội Nguồn của Ngôn Ngữ và Ý Thức, một trong những tác
phẩm chính làm nên sự nghiệp triết học của Trần Đức Thảo cũng như đã xây dựng
tên ông thành một triết gia của nhân loại trong thế kỷ 20.
Theo
Cù Huy Chữ thì từ năm 1991 Huy Cận tuy không hiểu lắm định nghĩa của Trần Đức
Thảo về học thuyết của ông là “hiện tượng học - Mác-xít, đứng hơn nên gọi
tôi là nhà duy vật biện chứng nhân bản”, song nhà thơ vẫn công nhận ông là
“một nhà khoa học vĩ đại đang cần mẫn sống và làm việc cho đất nước, cho dân
tộc, cho sự phát triển tự do của con người”.
Như
vậy, cho dù như Trần Đức Thảo bị CSVN bao vây hàng mấy chục năm từ khi “héo
nhân văn” (1956), không cho làm gì ngoại trừ ngồi dịch mấy cuốn sách Pháp (một
cách dùng người thật lạ kỳ, tương tự như dùng một ông giáo làm việc của học
trò), ở ngay trong chế độ (Huy Cận đã có một thời gian dài làm bộ trưởng Bộ Văn
hoá ở miền Bắc) vẫn có người nhìn ra chân giá trị của ông.
Song
cũng phải tinh lắm thì mới nhìn được ra như thế. Chứ bề ngoài thì triết gia
Trần Đức Thảo, sau bao năm bị chế độ trù dập, có thể nói là không “ấn tượng”
lắm. Khi ông được sang Pháp vào cuối đời (tháng 3/199 l đến 21/4/1993), ban đầu
ông đã gây được sự chú ý nhờ tiếng tăm của ông từ 40 năm trước. Nhưng khi người
ta tò mò đến nghe ông thì chỉ thấy một ông già nhếch nhác, lại còn bị thối tai,
mà xem chừng rất dè dặt, kín đáo (đâu mấy ai biết ông bị bao vây bởi các “đồng
chí” ở Sứ quán) nên trước công chúng không dám nói thật mà phải nói quanh co,
nói triết học xem chừng rất khó khăn. Chẳng bao lâu, ông mất dần thính chúng…
để đi đến chỗ lèo tèo với đôi ba người là có can đảm ở lại với ông đến cùng.
Nhưng
đằng sau cái bề ngoài không mấy ấn tượng đó là cả một khối tinh ròng suy nghĩ
ấp ủ một đời mà may mắn chúng ta có nhà Văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê nhờ thiện
duyên đắ làm thân được với ông để ghi lại những lời cuối, những lời xem như
trăng trối của Trần Đức Thảo.
Cuộc
đời Trần Đức Thảo xem như một cuộc đời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục
vụ vào nãm 1951 nên mọi sự trở nên lỡ dở. Cuộc đời đó có thể xem như một bài
học ”an object lesson” đối với những ai để cho tính cảm, lý tưởng che mờ đi lý
trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có đời sống gia đình, không có
cả tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm - cho quê hương đất nước
của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự-nghiệp dang dở.
Cuối
đời, dù được cho đi Pháp ông vẫn bị bao vây nếu không muốn nói là ám hại. Cũng
may là bên ông còn có một số người thân đi lại chăm sóc cho ông, trong đó có
thể kể vợ chồng Cù Huy Hà Vũ lúc bấy giờ đang học ở Pháp. Theo lời kể của Luật
sư Dương Hà, lúc ông Trần Đức Thảo mới được sang Pháp, thì Cù Huy Hà Vũ còn
đang thực tập ở Sénegal (Tây Phi) nhưng sau khi ở đó về, vợ chồng chị thường
đến thăm ông Trần Đức Thảo vào cuối tuần. Vì ông không có thu nhập gì đáng kể
nên vợ chồng chị hay đi mua nước đến cho ông, và trong khi Cù Huy Hà Vũ chuyện
trò trao đổi với ông thì chị dọn dẹp chung quanh phòng cho ông.
Mãi
gần vào những ngày chót, mới có tin vui là giáo sư Jean Dupèbe dạy ở Paris VII
(ở khuôn viên Sorbonne ở Quận 5 Paris) vận động được cho Trần Đức Thảo một món
tiền hưu để bảo đảm cuộc sống cho ông ở Pháp. Song ngân phiếu đầu tiên là 3.000
francs mới đến, ông chưa kịp tiêu thì đã mất. Theo lời kế của một nhân chứng
thuộc Sứ quán, vào phút chót ông chỉ biết kêu: “Vũ… Vũ…”.
Ký
ức cuối cùng mà triết gia Trần Đức Thảo để lại nơi một số người quen ông là một
hình ảnh khá vô nghĩa: ông thích đội mũ len!
NGUYỄN NGỌC BÍCH
Springfield, Virginia Mùa Giáng Sinh 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét