Ngậm ngùi, thương đau mãi còn với
thời gian."
Lời một bài hát tiếng Nga: Không có cái gì trên Trái đất trôi
qua mà không để lại dấu vết... (Nhi xtô na zemle nhe prokhôdit bez xlednơ...)
Cái gọi là " Bất đồng chính kiến
" " Chủ nghĩa xét lại " trong vụ án " Xét lại chống đảng
".
Các ông Dương
Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình
Huỳnh, Đặng Kim Giang và nhiều người khác đã qua đời, mang theo đau thương và
uất hận.
Những người gây
ra tấn thảm kịch lớn nhất trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam – Lê Duẩn, Lê
Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Trường Chinh… cũng đã chết.
...
Những nhân chứng cuối cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng ký ức về vụ trấn áp sẽ còn sống mãi với thời gian.
...
Những nhân chứng cuối cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng ký ức về vụ trấn áp sẽ còn sống mãi với thời gian.
Lịch sử không thể bị tẩy xoá.
VÌ LỊCH SỬ VÀ CÔNG LÝ, CHÚNG TÔI
LÊN TIẾNG
Chúng tôi,
những nạn nhân còn sống và thân nhân những nạn nhân đã qua đời trong một vụ án
không được xét xử cách nay vừa tròn 50 năm được gọi tắt là “Vụ án Xét lại chống
Đảng”, một lần nữa phải lên tiếng vì sự thật và công lý, vì lương tâm và nghĩa
vụ, vì một đất nước thượng tôn pháp luật.
BỐI CẢNH LỊCH
SỬ.
Năm 1956, tại
Đại hội 20 Đảng cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất Nikita Khrushev đã đọc báo
cáo quan trọng về chống tệ sùng bái cá nhân Stalin và chủ trương “cùng tồn tại
trong hoà bình” giữa hai hệ thống cộng sản và tư bản. Đường lối mới đã được hầu
hết các đoàn đại biểu tán đồng tại Đại hội các đảng cộng sản và công nhân quốc
tế họp tại Moskva với 81 thành viên tham dự năm 1960
Đoàn đại biểu
Đảng Lao Động Việt Nam (ĐCSVN) do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh cùng với Bí thư Thứ
nhất Lê Duẩn và các ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh tham dự
đã ký vào bản Tuyên bố chung Hội nghị trên. Đường lối mới này đã bị Đảng cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ) kịch liệt lên án, gọi là “Chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
Sự thay đổi
trong nhận định về quan hệ quốc tế đã phân hoá nội bộ một số đảng cộng sản.
Trong ĐCSVN cũng xuất hiện hai luồng quan điểm khác nhau. Một bên ủng hộ “cùng
tồn tại trong hoà bình”, phản đối đường lối giáo điều tả khuynh của ĐCSTQ, chủ
trương hòa bình thống nhất đất nước, phát triển kinh tế đa thành phần.
Bên kia, theo
đường lối của ĐCSTQ, chủ trương chống “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, duy trì xã
hội chuyên chính phi dân chủ, đẩy mạnh cải cách xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ hoàn
toàn cơ chế kinh tế thị trường, kiên định chủ trương thống nhất đất nước bằng
bạo lực.
Cuộc đấu tranh
trong nội bộ diễn ra âm thầm nhưng căng thẳng đã kết thúc bằng nghị quyết của
Hội nghị Trung ương 9 ĐCSVN họp năm 1963, đi ngược lại Tuyên bố chung Maskva
1960 đã được đoàn đại biểu Việt Nam long trọng ký kết. Nghị quyết 9 (phần đối
ngoại), về thực chất là bản sao đường lối của ĐCSTQ đã khởi đầu cho cuộc trấn
áp những đảng viên bất đồng chính kiến bị chụp mũ “chủ nghĩa xét lại hiện đại”.
Cần lưu ý là Chủ tịch Hồ Chí Minh không tham gia biểu quyết nghị quyết này.
Toàn văn Nghị
quyết 9 được giữ trong tình trạng tuyệt mật, nhưng nội dung tinh thần được phổ
biến cho các đảng viên và trí thức. Vì có quá nhiều tranh cãi nội bộ nên Đảng
tuyên bố cho phép bảo lưu ý kiến khác biệt. Thái độ cởi mở này chỉ là biện pháp
để phát hiện những người không tán thành.
Nhiều ý kiến
bất đồng được biểu lộ công khai như những bài viết của các ông Hoàng Minh Chính
- Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, ông Trần Minh Việt, phó Bí thư Thành ủy
kiêm phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội. Những tâm thư của nhiều
đảng viên lão thành gửi đến Bộ Chính trị, phản đối đường lối đối ngoại thân
Trung Quốc, tranh luận về đường lối giải phóng miền Nam bằng bạo lực, nóng vội
trong cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa và tất cả các ý kiến phát biểu trái
chiều tại các cuộc học tập đều được thu thập để rồi trấn áp khốc liệt vào cuối
năm 1967.
DIỄN BIẾN SỰ
KIỆN.
ĐCSVN gọi tắt
vụ án này là “Vụ Xét lại chống Đảng” diễn ra năm 1967, nhưng đến tháng 3 năm
1971 mới báo cáo Bộ Chính trị, tháng 1 năm 1972 mới đưa ra Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 20 (khóa III). Theo ông Nguyễn Trung Thành (vụ trưởng Vụ Bảo
vệ đảng thuộc Ban tổ chức Trung ương) là người trực tiếp thi hành thì Bí thư
Thứ nhất Lê Duẩn và ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Lê
Đức Thọ nhân danh Bộ Chính trị chỉ đạo việc bắt giữ và giam cầm.
Chiến dịch
khủng bố đã bắt đầu vào ngày 27 tháng 7 năm 1967 và kéo dài bằng các cuộc bắt
bớ, giam cầm, quản chế nhiều năm các cán bộ trung cao cấp mà không hề xét xử
hay tuyên án.
Những người bị
giam cầm nhiều năm gồm có:
- Hoàng Minh
Chính tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam, viện trưởng Viện Triết học.
- Đặng Kim Giang, thiếu tướng phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội, thứ trưởng Bộ Nông Trường.
- Vũ Đình Huỳnh bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vụ trưởng vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, vụ trưởng Ban thanh tra Chính phủ .
- Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội).
- Đặng Kim Giang, thiếu tướng phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội, thứ trưởng Bộ Nông Trường.
- Vũ Đình Huỳnh bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vụ trưởng vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, vụ trưởng Ban thanh tra Chính phủ .
- Lê Trọng Nghĩa, cục trưởng Cục 2 (Cục Tình báo quân đội).
- Lê Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Quốc phòng.
- Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng Cục tác chiến.
- Hoàng Thế Dũng, tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
- Nguyễn Kiến Giang, tỉnh ủy viên tỉnh ủy Quảng Bình, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
- Trần Minh Việt phó bí thư Thành ủy Hà Nội, phó Chủ tịch Ủy Ban Hành Chính thành phố Hà Nội. Vụ trưởng vụ Tài vụ Bộ Công nghiệp nhẹ.
- Phạm Viết phó tổng biên tập Báo Thời Mới (sau sáp nhập vào tờ Thủ đô Hà Nội thành tờ Hà Nội Mới).
- Nguyễn Thị Ngọc Lan, giảng viên tiếng Anh, Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, vợ ông Phạm Viết.
- Phạm Kỳ Vân phó tổng biên tập Tạp chí Học Tập.
- Trần Thư, tổng thư ký báo Quân Đội Nhân Dân.
- Hồng Sĩ, trung tá Công an, đặc trách công tác phản gián, Hải Phòng.
- Trần Châu nhà báo, Việt Nam Thông tấn xã.
- Lưu Động nhà báo, trưởng ban Nông nghiệp Báo Nhân Dân.
- Vũ Thư Hiên nhà báo, báo Ảnh Việt Nam, (con trai cả ông Vũ Đình Huỳnh, không đảng).
- Huy Vân, đạo diễn điện ảnh.
- Phan Thế Vấn, bác sĩ, nguyên cán bộ nội thành Hà Nội.
- Vũ Huy Cương biên kịch điện ảnh (không đảng).
- Nguyễn Gia Lộc, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Phùng Văn Mỹ, cán bộ nghiên cứu Viện Triết học.
- Bùi Ngọc Tấn, nhà báo (không đảng).
… và nhiều người khác không phải đảng viên cũng bị đảng Cộng sản Việt Nam trấn áp với nhiều mức độ khác nhau.
Những cán bộ
cấp cao không bị bắt nhưng bị khai trừ Đảng là:
- Ung Văn Khiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao.
- Bùi Công Trừng chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
- Nguyễn Văn Vịnh thứ trưởng bộ Quốc phòng.
- Lê Liêm thứ trưởng bộ Văn hóa.
- Minh Tranh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
Một số người đang học tập, công tác ở Liên Xô đã ở lại tỵ nạn như:
- Lê Vinh Quốc đại tá Chính ủy sư đoàn 308
- Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội
- Đỗ Văn Doãn tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
Nhiều người không bị bắt giam đã bị đày ải, trù dập như các ông:
- Minh Tranh phó giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật,
- Các nhà báo Đặng Đình Cẩn, Mai Hiến, Trần Đĩnh, Mai Luân
… Và rất nhiều người khác nữa.
- Ung Văn Khiêm bộ trưởng bộ Ngoại giao.
- Bùi Công Trừng chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
- Nguyễn Văn Vịnh thứ trưởng bộ Quốc phòng.
- Lê Liêm thứ trưởng bộ Văn hóa.
- Minh Tranh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật.
Một số người đang học tập, công tác ở Liên Xô đã ở lại tỵ nạn như:
- Lê Vinh Quốc đại tá Chính ủy sư đoàn 308
- Nguyễn Minh Cần phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội
- Đỗ Văn Doãn tổng biên tập Báo Quân đội Nhân Dân.
Nhiều người không bị bắt giam đã bị đày ải, trù dập như các ông:
- Minh Tranh phó giám đốc Nhà Xuất bản Sự Thật,
- Các nhà báo Đặng Đình Cẩn, Mai Hiến, Trần Đĩnh, Mai Luân
… Và rất nhiều người khác nữa.
Trong cuộc trấn
áp này, bất kỳ người nào có quan điểm ít nhiều khác với đường lối của đảng, đều
bị quy kết là “xét lại” và bị trừng phạt với những mức độ khác nhau.
Sự trừng phạt
nặng nề còn tiếp diễn vào cuối thập niên 90 đối với ông Nguyễn Trung Thành,
người trực tiếp thụ lý vụ này khi ông cùng ông Lê Hồng Hà (Chánh văn phòng Bộ
Công an) viết kiến nghị đề nghị Bộ Chính trị xem xét giải oan cho các nạn nhân.
NHỮNG NĂM THÁNG
TÙ ĐẦY OAN ỨC VÀ HỆ LỤY
Người được coi
là “đầu vụ” là ông Hoàng Minh Chính. Ông bị qui tội vì đã gửi cho hội nghị
Trung ương hai bản kiến nghị, bản thứ nhất phê phán Bộ Chính trị đã từ bỏ
nguyên tắc đồng thuận với bản Tuyên bố Moskva 1960, bản thứ hai phê phán đường
lối quốc tế sai trái của Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc. Lần đầu, ông bị
bắt tù 6 năm rồi quản chế tại gia. Lần thứ hai ông bị bắt giam từ 1981 đến 1987.
Lần thứ ba từ 1995 đến 1996. Tổng cộng ông bị 12 năm tù giam và 8 năm quản chế.
Là một sĩ quan thương binh, trong thời gian đó, ông phải chịu nhục hình và
những hành vi xúc phạm nhân phẩm.
Các ông Đặng
Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh bị qui là hai người trong “ba kẻ đầu vụ”. Cả hai cùng
với ông Trần Minh Việt,… bị giam 6 năm và chịu thêm 3 năm lưu đầy biệt xứ, ở
những địa phương khác nhau. Khi bị bắt, họ bị giam tại xà lim Hỏa Lò, bị cùm
chân và trong phòng giam không có ánh sáng. Nơi giam cầm các ông trong nhiều
năm đều là các khu biệt giam, không được giao tiếp với bất kỳ ai.
Ông Đặng Kim
Giang cũng bị bắt lần thứ hai năm 1981, trên đường đi đến khu biệt giam ở Nam
Định thì lên cơn nhồi máu cơ tim phải đưa thẳng vào bệnh viện công an và bị
giam giữ tại đây cho đến khi bệnh tình nguy kịch, trả về nhà một thời gian thì
mất.
Người bị giam
lâu thứ hai là ông Vũ Thư Hiên, với 9 năm giam liên tục trong các nhà tù và
trại tập trung, có những năm bị giam chung với tù hình sự.
Ông Phạm Viết,
năm 1967 đang nghỉ công tác dài hạn để điều trị bệnh tim thì bị bắt, giam vào
xà lim Hỏa Lò. Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, vợ ông Viết người từng bị bắt 3 lần khi
hoạt động nội thành Hà nội trong kháng chiến chống Pháp, là người phụ nữ duy
nhất trong vụ này đã bị tù 2 năm rưỡi vì tội không giao nộp bản luận văn phó
tiến sĩ “Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam” của ông Trần Minh Việt viết tại
trường đảng Liên Xô. Bản này lúc đó bị vu cho là “bản cương lĩnh chính trị của
tổ chức chống Đảng.”
Thương tâm nhất
trong vụ này là ông Phạm Kỳ Vân, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập. Ông Kỳ Vân
bị bắt khi đang điều trị sơ gan cổ chướng, bệnh tình trở nên trầm trọng, ông
được tha về để chết. Vợ ông bị chết đuối, con gái đi Thanh niên Xung phong hy
sinh trên đường Trường Sơn, con gái khác chết khi sinh nở. Người con trai út
tuyệt vọng treo cổ tự vẫn. Cả gia đình không một người nào còn sống.
Còn rất nhiều
người khác bị trấn áp theo nhiều cách khác nhau mà chúng tôi không thể kể ra
hết: bị quản thúc với những cấm đoán ngặt nghèo, bị đưa đi cải tạo lao động, bị
tước quyền công dân, tước bỏ các chính sách đãi ngộ. Họ bị đuổi khỏi cơ quan,
đơn vị công tác và còn bị cấm họ làm cả những nghề kiếm sống thông thường như
sửa chữa máy thu thanh, làm việc trong các cơ sở in ấn, sửa chữa đồng hồ, kể cả
chữa xe đạp hay cắt tóc.
Ban tổ chức
Trung ương còn có chủ trương phân biệt đối xử với con em, gia đình những người
bị đàn áp: không được kết nạp vào đảng, không được đề bạt lên vị trí quản lý,
không được học các trường đại học được coi là quan trọng, ngoài các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thư viện…, không được cử đi công tác học tập nước
ngoài, không được phân công về công tác tại Hà Nội và làm việc tại các bộ ngành
trung ương, cơ quan quan trọng.
Hàng trăm lá
đơn khiếu oan, về thực chất là những thư tố cáo đã được gửi tới các cơ quan
công quyền cao nhất của nhà nước và đảng cộng sản trong suốt 50 năm qua, yêu
cầu xét xử trước một phiên tòa công minh, đòi công khai vụ việc trước dư luận,
bồi thường cho những thiệt hại về vật chất, tổn thương về tinh thần, phục hồi danh
dự cho các nạn nhân… Tất cả những đòi hỏi chính đáng ấy chỉ được trả lời bằng
sự im lặng.
NHẬN ĐỊNH CỦA
NHỮNG NẠN NHÂN CÒN SỐNG VÀ THẾ HỆ KẾ TIẾP.
50 năm đã trôi
qua kể từ khi những nạn nhân đầu tiên của vụ “xét lại chống Đảng” bị bắt ngày
27 tháng 7 năm 1967. Các ông Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Công Trừng, Lê
Liêm, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang và nhiều người khác đã
qua đời, mang theo đau thương và uất hận. Những người gây ra tấn thảm kịch lớn
nhất trong lịch sử đảng cộng sản Việt Nam – Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trần Quốc
Hoàn, Trường Chinh… cũng đã chết.
Liên Xô, và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tan rã. Trung Quốc và Việt Nam tuy danh xưng
là xã hội chủ nghĩa nhưng trong thực tế đang đương đầu với các thách thức của
giai đoạn tư bản bán khai, trước mọi tệ nạn như hối mại quyền thế, tham nhũng,
lạm dụng luật pháp, chênh lệch giàu nghèo, vi phạm quyền dân chủ,… chưa từng
có.
Vụ “Xét lại
chống Đảng” cũng như nhiều vụ án oan đã xảy ra trong quá khứ như: Cải cách
ruộng đất, Nhân văn - Giai phẩm, Cải tạo tư bản tư doanh, Hợp tác hóa, tập
trung cải tạo những người tham gia quân lực và chính quyền Việt Nam Cộng hòa…
chưa được các thế hệ cầm quyền kế tiếp chính thức sửa sai và nghiễm nhiên cho
rằng việc xử lý trước đây là đúng.
50 năm là một
thời gian quá dài cho những oan ức và bất công. Khi sự kiện này xảy ra, những
người cầm quyền hiện nay còn quá trẻ, thậm chí có người còn chưa ra đời, hiển
nhiên không phải là thủ phạm nhưng họ không thể phủi tay cho rằng mình không có
trách nhiệm giải quyết những vụ việc xảy ra trong quá khứ. Là chính quyền kế
thừa, họ phải có trách nhiệm với những việc còn tồn tại theo đúng pháp luật,
sòng phẳng với lịch sử. Đó là điều phải làm nếu họ còn có ý muốn xây dựng một
nhà nước pháp quyền và lấy lại niềm tin của nhân dân.
Bà Nguyễn Thị
Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang, bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh
Chính, bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết, người phụ nữ duy nhất bị
tù trong vụ này, ông Vũ Thư Hiên, ông Phan Thế Vấn và nhiều nhân chứng khác còn
sống trong vụ này hiện đều đã ở tuổi gần đất xa trời. Những nhân chứng cuối
cùng rồi cũng sẽ không còn, nhưng ký ức về vụ trấn áp sẽ còn sống mãi với thời
gian.
Lịch sử không thể bị tẩy xoá.
Con cháu những
nạn nhân đó dù chỉ là những đứa trẻ khi cha anh bị bắt, chẳng biết “xét lại” là
gì, nhưng cũng nếm đủ những khổ cực của cuộc trấn áp tàn bạo nhắm vào thành
viên gia đình những người không chịu cúi đầu. Đến nay, họ cũng đã về già nhưng
mãi mãi không thể nào quên được những năm tháng đau thương ấy.
Cho tới nay
chúng tôi vẫn còn như thấy trước mắt hình ảnh tướng Đặng Kim Giang, chỉ huy hậu
cần chiến dịch Điện Biên Phủ, nằm trong chiếc quan tài hở hoác dưới ngôi nhà
tranh dột nát ở ngõ Chùa Liên Phái. Bà vợ ông vừa khóc vừa giã gạch non trộn
với cơm nếp, trát kín những kẽ hở của chiếc quan tài ấy.
Chúng tôi không
thể quên hình ảnh ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên Bí thư của chủ tịch Hồ Chí Minh,
thành viên Việt Nam Cách mạng Đồng chí hội từ năm 1925, trước khi ĐCSVN ra đời,
bị công an dùng dây thừng trói giật cánh khuỷu khi còng sắt bập vào cổ tay ứa
máu mà không vừa. Khi đó ông đã về hưu được vài năm.
Chúng tôi không
thể quên nấm mồ của ông Phạm Viết, nằm cô quạnh trên sườn đồi heo hút ở cạnh
nhà tù Phú Sơn, Thái Nguyên. Ông là người sỹ quan thương binh đã chiến đấu
nhiều năm quên mình trong nội thành Hà Nội. Ở tuổi 44, ông lìa đời mà không
được có một người thân bên cạnh dù vợ con đã khẩn thiết yêu cầu được chăm sóc
ông những ngày cuối đời.
Chúng tôi mãi
mãi không thể quên những gì đã thấy, đã biết, đã ghi nhớ.
Và nhân đây
chúng tôi cũng muốn gửi tới rất nhiều người đã đồng cảm và giúp đỡ chúng tôi
trong suốt nửa thế kỷ qua lời cảm ơn chân thành. Sự chia sẻ trong tình người dù
âm thầm hay công khai đã giúp chúng tôi có thêm nghị lực sống.
Bản lên tiếng
này cũng là một nén hương muộn cho những nạn nhân đã khuất. Nhưng máu thịt của
họ, tinh thần của họ vẫn còn đây, trong chúng tôi.
Chúng tôi cũng
gửi bản lên tiếng này tới các vị đứng đầu Đảng và Nhà nước để nói rằng những
thế hệ nối tiếp của các nạn nhân trong “vụ Xét lại chống Đảng” sẽ còn tiếp tục
lên tiếng cho tới khi vụ này được công khai trước toàn dân, cho tới khi lẽ công
bằng được lập lại cho những nạn nhân còn sống và đã khuất.
Trước sau, lịch sử sẽ phán xét
một cách công bằng.
Hà Nội, ngày
27.7.2017
Dưới đây là
danh sách những nạn nhân còn sống và gia đình cũng như thân nhân các nạn nhân
đã khuất cùng ký tên vào bản lên tiếng này. Danh sách này còn kéo dài do không
có điều kiện liên hệ trực tiếp.
- Bà Nguyễn Thị
Mỹ, phu nhân ông Đặng Kim Giang và gia đình.
- Bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết và gia đình
- Bà Đinh Thị Bích Đào, phu nhân ông Phùng Văn Mỹ và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Oanh, phu nhân ông Lưu Động (tên thật là Nguyễn Xuân Canh) và gia đình.
- Ông Vũ Thư Hiên, con trai ông Vũ Đình Huỳnh và gia đình.
- Ông Phan Thế Vấn và gia đình.
- Ông Trần Đĩnh và gia đình
- Ông Trần Việt Trung, con trai ông Trần Châu và gia đình.
- Bà Minh Sơn, con gái ông Trần Minh Việt và gia đình
- Nguyễn Thị Giáng Hương, con gái ông Trần Thư và gia đình.
…………………
Nơi gửi :
Gửi tới mọi người Việt Nam và các ông, bà :
- Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam,
- Ông Nguyến Xuân Phúc, Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
- Bà Lê Hồng Ngọc, phu nhân ông Hoàng Minh Chính và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Lan, phu nhân ông Phạm Viết và gia đình
- Bà Đinh Thị Bích Đào, phu nhân ông Phùng Văn Mỹ và gia đình.
- Bà Nguyễn Thị Oanh, phu nhân ông Lưu Động (tên thật là Nguyễn Xuân Canh) và gia đình.
- Ông Vũ Thư Hiên, con trai ông Vũ Đình Huỳnh và gia đình.
- Ông Phan Thế Vấn và gia đình.
- Ông Trần Đĩnh và gia đình
- Ông Trần Việt Trung, con trai ông Trần Châu và gia đình.
- Bà Minh Sơn, con gái ông Trần Minh Việt và gia đình
- Nguyễn Thị Giáng Hương, con gái ông Trần Thư và gia đình.
…………………
Nơi gửi :
Gửi tới mọi người Việt Nam và các ông, bà :
- Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam
- Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Ông Trần Đại Quang, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam,
- Ông Nguyến Xuân Phúc, Thủ tướng chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.
Phan Trí Đỉnh
Cách đây một năm, ngày 27.7.2017 anh Vũ Thư Hiên - con trai cụ Vũ Đình Huỳnh và cụ bà Phạm thị Tề có cái thư này. Anh vừa gửi lại cho tôi và nói đừng quên.
Cách đây một năm, ngày 27.7.2017 anh Vũ Thư Hiên - con trai cụ Vũ Đình Huỳnh và cụ bà Phạm thị Tề có cái thư này. Anh vừa gửi lại cho tôi và nói đừng quên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét