Hà Văn Thùy
LỜI NÓI ĐẦU
Khảo cổ học là khoa học bắt đầu và kết thúc với vật cổ. Một khi không có vật cổ, khảo cổ học chấm dứt! Suốt thế kỷ XX, chúng ta chỉ biết cốt sọ cổ nhất của người Việt tại Sơn Vi 32.000 năm. Những câu hỏi bức xúc được đưa ra: Phải chăng ngưới Sơn Vi là người hiện đại xuất hiện sớm nhất trên đất Việt Nam? Họ từ đâu tới? Không lời đáp! Rồi khi phát hiện bộ xương người Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm và cốt sọ hang Tampa Lin Bắc Lào 63.000 năm, có thêm cật vấn: “Họ là ai, từ đâu ra, có quan hệ thế nào với người Sơn Vi và những người Việt cổ khác?” Khảo cổ học im lặng!
Những năm cuối thế kỷ XX, bùng nổ
thông tin gây chấn động: “Người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi
200.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, theo ven biển Ấn Độ Dương, người từ
châu Phi di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại ở đây 20.000 năm để gia tăng nhân số,
50.000 năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á và
chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu phía Bắc được cải thiện, người
từ Việt nạm đi lên khai phá Hoa lục. 30.000 năm trước, từ Siberia vượt qua eo
Bering, chinh phục châu Mỹ…” Giới khảo cổ học choáng váng. Tuy
nhiên, khám phá từ ADN không thể nghi ngờ! Như vậy, thực tế cho thấy, con người
đã có mặt tại Việt Nam từ 70.000 năm trước. Nhưng thổ nhưỡng và khí hậu khắc
nghiệt đã xóa đi mọi dấu vết của họ, khiến cho 40.000 năm chìm vào đêm tối!
Người từ châu Phi tới Việt Nam là ai?
Chưa bao giờ di truyền học trả lời câu hỏi rất quan trọng này. Dựa trên bằng
chứng khảo cổ là những cốt sọ, nhân học đưa ra lời đáp: “Vào thời đồ đá, trên
đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid và Mongoloid. Họ hòa huyết với
nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp sinh ra bốn chủng người Việt cổ Indonesian,
Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc nhóm loại hình Australoid. Sang
thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư.
Người Australoid biến mất khỏi đất này không hiểu do di cư hay đồng hóa?” Đây
là khám phá quyết định chiều hướng của lịch sử: những con người được sinh ra ở
Việt Nam 70.000 năm trước làm nên dân cư và văn minh phương Đông!
Điều không bình thường là, gần hết
thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chưa có bất cứ nghiên cứu nào về khoảng thời
gian 40.000 năm “ngoài vòng khảo cổ!” Tổ tiên Việt đã sống thế nào trong suốt
thời gian dằng dặc ấy? Không giải được câu hỏi này, không thể nói gì về tiền sử
người Việt! Khi không có hiện vật khảo cổ, là lúc trí tưởng tượng bắt đầu. Có
thể là kịch bản như thế này:
70.000 năm trước, trên đường sang
phương Đông, một dòng người châu Phi theo bờ Tây của Borneo, bước vào đồng bằng
Sundaland, rồi đi lên hướng Bắc. Lúc này đang Thời Băng hà, mực nước biển thấp
hơn hôm nay 130 mét. Đông Nam Á là lục địa mênh mông. Không hiểu vì sao họ không
tỏa ra chiếm lĩnh vùng đất màu mỡ này mà đi tiếp tới miền Trung Việt Nam rồi
dừng lại. Chúng tôi đoán, chỉ đoán thôi, có khoảng 2000 đến 3000 người thuộc
hai đại chủng Australoid và Mongoloid tới được Việt Nam. Sau hành trình 15.000
năm gian nan, tới đây họ đã gặp “địa đàng ở phương Đông”với khí hậu ấm áp, rừng
cây xanh tươi, nhiều muông thú, hoa trái, sông suối nhiều ốc, sò, tôm, cá…
Những nhóm nhỏ khoảng 15-20 người gặp nhau khi cùng săn bắn và hái lượm. Tình
yêu đến và những đứa trẻ ra đời. Theo năm tháng, dân số tăng lên. Một số ít
sống trong hang động còn phần lớn dựng những túp lều bằng cây lá dưới tán rừng.
Ban đầu, theo tập tục truyền lại từ
tổ tiên, họ đập vỡ những hòn sỏi, chế tác những chiếc búa đá cũ dùng cho săn
hái. Nhưng rồi, từ cuộc sống định cư, vào thời gian rảnh rỗi, người đàn bà bắt
đầu chăm sóc những vạt rau đầu tiên bằng cách nhặt bỏ cỏ dại, tưới nước, bón
phân… Họ cũng chọn rồi chăm sóc những cây cho quả bằng cách chặt dây leo, tỉa
bớt cành và cây dại xung quanh, cho cái cây “của mình” nhận được nhiều ánh sáng
hơn. Người hái lượm phát hiện ra khoai sọ, một loại cây cho củ ngon, lành mà
lại dễ trồng, rồi kê, cao lương… Cứ như thế, từng chút một, những vạt rau,
những vườn cây quả, những luống khoai lang khoai sọ ra đời, bổ sung lượng thức
ăn quan trọng vào cuộc sống săn hái.
Không phải khảo cổ mà di truyền học
khám phá, trong quá khứ có hai lần số lượng lớn người rời Việt Nam chiếm lĩnh
thế giới. Lần đầu vào 50.000 năm trước, đi ra các đảo Đông Nam Á và Ấn Độ. Đợt
sau, 40.000 năm trước, đi lên Hoa lục rồi sang châu Âu và qua eo Bering chinh
phục châu Mỹ. Di cư là kết quả của bùng nổ dân số. Vậy thì nguyên nhân nào làm
nên hai cuộc bùng nổ dân số vĩ đại trên? Cố nhiên không phải do lượng thú hoang
tăng đột biến, cung cấp nguồn dinh dưỡng lớn. Chỉ có thể là lượng thức ăn lớn
nhận được từ những cây trồng “bán thuần hóa” đã tạo ra năng lượng giúp cho nhân
số tăng nhanh! Vậy là, trong 40.000 năm âm thầm ấy, người Việt không chỉ săn
bắn hái lượm mà còn sở hữu thực vật “bán thuần hóa” tạo ra khối lượng thức ăn
quan trọng. Phương thức sống ấy đi suốt theo hành trình của người Việt.
Khám phá cuộc di cư lần thứ nhất, di
truyền học phản bác quan niệm của khảo cổ và nhân học cho rằng “1.500 năm TCN,
người Arian xâm lăng Ấn Độ, đẩy người Indonesian từ đất Ấn sang xâm chiếm Đông
Dương.” Khám phá cuộc di cư thứ hai, di truyền học bác bỏ quan niệm định hình
của thế kỷ XX “người từ Trung Quốc đi xuống làm nên dân cư và văn hóa Việt
Nam.”
Năm 2013, nhờ thành tựu kỳ diệu của
di truyền học, khoa học tìm ra chủ nhân hang Điền Nguyên, xác nhận việc người
Việt đặt chân tới bờ Nam Hoàng Hà 40.000 năm trước. Trong khi đó, khảo cổ học,
từ khai quật hàng chục di chỉ trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà, khám phá
20.000 năm trước, người Việt chế tác công cụ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước
thuần hóa thành công lúa nước… Công cụ đá mới, đồ gốm, kê, lúa, rồi gà, chó,
lợn… theo chân người Việt đi lên lưu vực Hoàng Hà, sáng tạo những văn hóa khảo
cổ nổi tiếng Giả Hồ, Ngưỡng Thiều… Tại Ngưỡng Thiều, người Việt cổ mã di truyền
Australoid hòa huyết với người Mongoloid sống du mục trên bờ Bắc, sinh ra người
Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Người Mongoloid phương Nam tăng số lượng,
trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà…
Đúng là, từ giữa thiên niên kỷ III
TCN, người lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam. Nguyên nhân sự kiện này từ
đâu? Hầu hết học giả thế giới cho rằng, đó là sự mở rộng của nông nghiệp. Vậy,
động lực nào thúc đẩy con người làm việc đó? Phải chăng là để thực hiện giấc mơ
“khai hóa văn minh?” Hoàn toàn không có chuyện lãng mạn như vậy! Phải hiểu thực
chất của vấn đề, là nguyên nhân lịch sử. Sau 40.000 năm làm chủ Hoa lục, người
Việt tạo dựng nhà nước Lương Chử hùng mạnh với nền văn hóa rực rỡ. Hơn ai hết,
họ mong muốn cuộc sống hòa bình. Nhưng rồi chiến tranh khốc liệt xảy ra khi năm
2698 TCN, những bộ lạc du mục hung hãn trên bờ Bắc Hoàng Hà do họ Hiên Viên cầm
đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm giang sơn của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế.
Hàng triệu người mất đất, phải rời bỏ ruộng vườn chạy về phía nam. Cuộc chiến khốc
liệt và dai dẳng đã hằn lên những nếp nhăn trong Kinh Thư, cuốn sử mở đầu của
Trung Quốc: “Phạt Tam Miêu, đầy Tam Miêu tam phục, ngũ phục…” “Ngươi phải ghi
nhớ, không được để Tam Miêu quấy rối Trung Quốc!” (Lời vua Nghiêu dạy bề tôi).
Đấy là ở thời Nghiêu Thuấn, “thời đại Hoàng Kim.” Từ sau thời Chu, hàng triệu
người Tiên Ti, Hung Nô vào chiếm đất, mặc sức chém giết… đẩy những đợt
sóng người Việt chạy về nam tìm đường sống. Hoàn toàn không phải chuyện mở rộng
nông nghiệp lãng mạn mà là cuộc chạy trốn cái chết. Đó là buổi giao thời, khi
người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam – lớp con cháu đi làm ăn xa, từ Núi
Thái-Trong Nguồn trở về, thay máu đồng bào và đổi mới kỹ năng sống, đưa tộc
Việt từ văn minh đá chuyển sang văn minh kim khí của thời đại Phùng Nguyên-Đông
Sơn rực
rỡ.
Cuốn sách trong tay sẽ nói với bạn về
một lịch sử chưa từng biết: rời đất Việt Nam, người Việt chiếm lĩnh thế giới,
làm nên phần lớn loài người. Tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa, chữ
Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa. Những thành tựu rực rỡ của văn hóa
phương Đông là sản phẩm sáng tạo của người Việt…
Chân thành cảm ơn bạn tôi, Tiến sỹ
Đào Trọng Liên trợ giúp tiền in cuốn sách này.
Sài Gòn, Hè năm 2019
Hà Văn Thùy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét