Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

Bên Thắng Cuộc II. Quyền Bính ( 1 )



Bên Thắng Cuộc
II. Quyền Bính ( 1 )
Huy Đức
Thương yêu tặng Mỹ Đức
và hai con Thạch Thảo, Đức Trung
Mấy lời của tác giả
Tôi rời Campuchia trước khi Việt Nam rút hết “Quân tình nguyện”. Khi học ở trường chuyên gia quân sự 481, chúng tôi được chuẩn bị tư tưởng để “giúp bạn lâu dài”. Nhưng thay vì ở lại hàng thập niên, tôi chỉ phải ở lại Campuchia gần bốn năm. Tôi quyết định rời quân đội. Một cá nhân cũng như một quốc gia, súng ống chỉ nên được lựa chọn khi không còn con đường nào khác.

Cuối năm 1987, tôi bắt đầu làm việc ở Văn phòng huyện ủy Nhà Bè. Thời gian ấy, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang viết “Những việc cần làm ngay”. Công việc ở Văn phòng huyện ủy thật an nhàn, tôi đã sử dụng phần lớn thời gian để viết văn và viết bài cho các báo. Sau khi đọc những bài báo ấy, Bí thư huyện ủy Trần Văn Đông giao cho tôi phụ trách biên tập tờ tin và đài truyền thanh huyện Nhà Bè. Chỉ mấy tháng sau, tôi được nhà văn Nguyễn Đông Thức đưa về Tuổi Trẻ.
Không chỉ có kho sách cực kỳ phong phú của thư viện Đắc Lộ mà tờ Tuổi Trẻ tiếp quản sau khi các giáo sỹ dòng Tên bị bắt năm 1979, đội ngũ Tuổi Trẻ thời “161 Lý Chính Thắng” cũng là một “kho tư liệu” vô giá. Không phải ai ở trong cái không khí “thanh niên sôi nổi” ấy cũng biết hết những trắc ẩn trong lòng các đồng nghiệp của mình.
Ở đây, tôi gặp những đồng nghiệp về sau trở thành nhân vật trong cuốn sách của mình. Ở đây, tôi gặp những con người lặng lẽ, tưởng quá khứ đã được chôn chặt, như: biên tập viên Lệ Xuân, con gái ông Nguyễn Thành Đệ, người sau khi đóng 200 lượng vàng để vượt biên theo Phương án II không thành bị lấy nốt căn nhà cuối cùng1; thư ký tòa soạn Võ Văn Điểm - chủ biên đầu tiên của tờ Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Tuổi Trẻ Cười - người có vợ và hai con chết trên biển trong một chuyến vượt biên.
Thế hệ chúng tôi may mắn được làm báo sau “đổi mới”. Những người viết có trách nhiệm nhận thấy một cơ hội to lớn sau tuyên bố “cởi trói” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh để không còn tiếp tục sự nghiệp viết lách bằng thứ văn chương minh họa hay báo chí tô hồng. Đó là một thời đáng nhớ của văn nghệ và báo chí. Rất tiếc là chỉ hơn một năm sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh kêu gọi văn nghệ sỹ tự cứu mình, tự ông đã có nhiều thay đổi.
Ngay trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng, chúng tôi có thể cảm nhận sự căng thẳng. Có lúc một số phóng viên Tuổi Trẻ đã phải chuẩn bị cho khả năng bị khởi tố. Có những buổi chiều, nhất là sau khi Tổng biên tập Vũ Kim Hạnh đi gặp Phó bí thư Thành ủy Bảy Dự Nguyễn Võ Danh, đi gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, đi gặp Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ trở về…, chúng tôi nín thở chờ chị bàn bạc với anh Ba Lãng2. Những hôm gay cấn, hai người còn phải tham vấn Cựu Tổng biên tập Võ Như Lanh3. Cho đến trước khi ông Nguyễn Văn Linh hết nhiệm kỳ, những người tiên phong trong văn nghệ, báo chí đều phải ra đi gần hết.
Tuổi Trẻ còn tạo cơ hội cho tôi bước ra bên ngoài khuôn viên “161 Lý Chính Thắng”. Tôi may mắn được phân công viết đủ các loại đề tài, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới văn hóa, từ hoạt động của các cơ quan tố tụng đến các hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, từ trung ương tới địa phương. Từ năm 1989, tôi trực tiếp đưa tin hầu hết các vụ án lớn xảy ra trên cả nước, theo dõi từ giai đoạn khởi tố điều tra cho đến khi nội vụ được đưa tới tòa. Cũng từ năm 1989, tôi được giao viết về các kỳ họp Hội đồng nhân dân và sau đó có mặt ở Hội trường Ba Đình gần như mỗi kỳ Quốc hội họp.
Những năm đầu thập niên 1990, chúng tôi được bố trí ăn, ở với các đoàn đại biểu tại nhà khách số 8 Chu Văn An; được dự hầu hết các phiên thảo luận mà các đại biểu đang là ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ chính trị. Chúng tôi cũng dễ dàng gặp gỡ, trò chuyện với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh… Cánh nhà báo chúng tôi4 có nhiều cơ hội trao đổi, đủ loại thông tin, với các nhà lãnh đạo cả khi tác nghiệp, khi bên tách trà và không ít khi bên chén rượu.
Chính trường được phản ánh trong cuốn II bao gồm những gì mà tác giả có thể quan sát từ cự ly rất gần. Ở những thời điểm nóng bỏng nhất, tôi có thể vào tận phòng làm việc hỏi chuyện Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải; tôi cũng có không ít dịp đến nhà riêng, vào phòng làm việc của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu… phỏng vấn. Chúng tôi chứng kiến một cách trực tiếp các xung đột giữa những người chủ trương kinh tế thị trường với những người lo “chệch hướng”, những xung đột đã làm biến dạng khá nhiều chính sách.
Tất cả những tư liệu ấy đều được tôi lưu trữ. Nhưng không chỉ dừng lại ở những ghi chép của mình, từ năm 2003, khi bắt đầu tập trung phần lớn thời gian cho cuốn sách này, tôi ngồi điểm lại toàn bộ tư liệu mình đã thu thập được, đánh dấu các khoảng trống và bắt đầu tiến hành thêm hàng ngàn cuộc phỏng vấn. Với sự giúp đỡ của một nhóm sinh viên và một số nhà nghiên cứu trẻ, tôi bắt đầu đối chiếu lời kể của các nhân chứng với các ghi chép của chính họ, của tôi (với các sự kiện mà mình trực tiếp quan sát trong thời gian làm báo), đối chiếu với báo chí ở các thời điểm khác nhau, với lời kể giữa các nhân chứng và đặc biệt là đối chiếu với các tài liệu gốc, gồm thư từ, công văn, chỉ thị, nghị quyết và biên bản các cuộc họp.
Cuốn II bắt đầu từ thời điểm ông Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền cho đến khi ba ông cố vấn đưa ông Lê Khả Phiêu ra khỏi chiếc ghế tổng bí thư. Tuy có những câu chuyện còn kéo dài đến sau Đại hội Đảng lần thứ XI (1-2011), nhưng hai chương cuối của cuốn II chủ yếu nói về “cái đuôi” chủ nghĩa xã hội và những hệ lụy mà xã hội Việt Nam đang gánh chịu.
Chương Tướng Giáp được đặt ở vị trí cuối phần “Dấu ấn Nguyễn Văn Linh”, bắt đầu bằng một nỗ lực nhằm hạ uy tín của “vị tướng Điện Biên” diễn ra cuối nhiệm kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhưng chủ yếu nói về mối quan hệ giữa Lê Duẩn - Tướng Giáp - Lê Đức Thọ. Những xung đột quyền lực đã chi phối phần lớn các quyết định liên quan đến cuộc chiến diễn ra thời thập niên 1960, kéo dài tới giữa thập niên 1980, liên quan đến không ít máu xương và để lại khá nhiều di chứng. Phần còn lại của cuốn II chủ yếu viết về những gì diễn ra bên trong Ba Đình thời thập niên 1990. Thời mà ý thức hệ không chỉ tồn tại như một đức tin của những người cầm quyền mà còn trở thành những công cụ chính trị phục vụ cho quyền lực.
Tuy nhiên, Quyền Bính không phải là một cuốn sách nói chuyện “thâm cung bí sử” cho dù có nhiều câu chuyện, có nhiều nhân vật được đặc tả rất cận cảnh. Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này là sự chia sẻ của rất nhiều người trong cuộc về một giai đoạn mà Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội có thể đi tới mục tiêu “công bằng, dân chủ, văn minh” do chính đảng cầm quyền đề ra. Tuy kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt quốc gia và đời sống nhân dân nhưng Việt Nam vẫn tụt hậu cho dù “nguy cơ” này đã được chỉ ra từ năm 1994.
Chính sách đất đai, thay vì lựa chọn những phương thức sở hữu giải phóng tối đa tiềm lực trong đất và trong dân lại cứ tự trói buộc vào sở hữu toàn dân, chỉ vì phương thức này được coi là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thay vì chọn phương thức hiệu quả nhất đã phải để cho kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Hệ thống chính trị thay vì lấy sự minh bạch, đảm bảo nguyên tắc kiểm soát quyền lực để có thể mang lại công lý và tránh tham nhũng, lạm quyền lại ưu tiên đảm bảo vị trí cầm quyền của Đảng.
Quyền Bính tiếp tục nói về những khúc quanh của Việt Nam. Nói về những thời điểm mà đảng cầm quyền thay vì nắm bắt tư duy của thời đại và ý chí của nhân dân, chỉ có thể loay hoay trong một cái vòng tự vẽ. Hệ thống chính trị, trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.
Sài Gòn – Boston (2009-2012)
Phần III: Dấu ấn Nguyễn Văn Linh
Chương XII: Cởi trói
Cho dù tuyên bố “cởi trói” của Nguyễn Văn Linh là “ngứa miệng kêu” như ông nhận, hay là sách lược được áp dụng khi mới cầm quyền, thì sự thật là các hoạt động văn nghệ và báo chí sau đó đã bắt đầu được đặt trong một không gian mà tự do chỉ mở dần ra chứ không thể nào bóp lại.
Những Việc Cần Làm Ngay
Chiều chủ nhật 24-5-1987, tòa soạn chuyển lên Ban Biên tập báo Nhân Dân một phong thư, nói là của một “người đứng tuổi nhờ đưa ngay cho đồng chí tổng biên tập”. Bảo vệ mô tả, “người đứng tuổi” đi xe Lada và có một người cận vệ nói giọng miền Nam.
Chi tiết quan trọng nhất để Ban Biên tập báo Nhân Dân liên hệ giữa bút danh N.V.L., ký trong thư, với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là chiếc xe Lada. Theo nhà báo Hữu Thọ5: “Khi ấy các ông trong Bộ Chính trị đều đi xe Volga hết”. Sáng 25-5-1987, trên trang nhất Nhân Dân xuất hiện một bài báo với đầu đề in chữ đậm “Những việc cần làm ngay”.
Không phải là một thông điệp chính trị như một vị nguyên thủ quốc gia, bài báo đầu tiên của Tổng Bí thư yêu cầu: “Trật tự giá cả cần phải được tôn trọng”. Dẫn ra các “nguyên nhân bất chính” làm tăng giá như “bọn phá hoại lâu lâu lại phao tin lên lương đổi tiền”, “nhiều địa phương, nhiều cấp tự ý lên giá bất hợp pháp”, “nhiều cơ sở ghìm hàng gây khan hiếm giả tạo”,… ông Linh coi lập lại trật tự giá cả “thật sự là một việc cấp bách, cần phải làm ngay”. Ông Linh yêu cầu “các cơ quan tuyên truyền phải chỉ đích danh những cá nhân, những cơ quan, những tổ chức làm các việc trái với Nghị quyết Trung ương”; đòi “các cơ quan pháp luật phải lôi các vụ việc sai trái lớn ra nghiêm trị” và đồng thời đưa kết quả xử lý “lên các cơ quan ngôn luận cho dân biết”.
Bài báo thứ hai, đăng vào ngày 26-5-1987, của Tổng Bí thư cũng chỉ nhặt từ một thông tin đăng trong mục “Ý kiến bạn đọc” của báo Nhân Dân, số ra ngày 21-5-1987, về việc “kho lạnh Bến Bính Hải Phòng làm hỏng 360 tấn tỏi khô trị giá khoảng  20 triệu đồng”. Sau khi đặt  câu hỏi: “Ai là người  phải  chịu trách nhiệm?  Hình phạt  sẽ ra sao?”, Tổng  Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đưa ra khái niệm “im lặng đáng sợ” để chỉ thái độ bất chấp của các cơ quan nhà nước trước “nhiều vụ việc sai phạm rất lớn do quần chúng phát hiện” và được “báo chí từ Bắc chí Nam” đăng tải.
Một tuần sau khi N.V.L. khởi đăng “những việc cần làm ngay”, ngày 2-6-1987, báo Tuổi Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng lại loạt bài “Vật tư rơi vào tay ai” của báo Hàng Không Việt Nam. Đây là loạt phóng sự điều tra của một nhóm nhà báo dũng cảm viết về tiêu cực của hai cán bộ cấp cục, đăng trên chính tờ báo của ngành.
Bằng những tư liệu điều tra chuẩn xác, các nhà báo đã công khai danh tánh cục trưởng và cục phó Cục Quản lý bay, nhân được tổng cục trưởng Hàng không cấp 500 nghìn đồng để xây nhà, đã lập ra một “Ban Kiến thiết” gồm bảy cán bộ, trong đó có một trung tá làm trưởng ban để “lo việc xây dựng nhà riêng cho mình”. Đội xây dựng do Cục Quản lý bay lập ra đã lao động trong vòng nửa năm mới xây xong hai ngôi nhà. Theo bài báo thì chỉ riêng việc vận chuyển vật tư, Cục đã phải “huy động 150 chuyến xe ô tô, tiêu hao 4.800 lít xăng”. Kết quả là “hai căn villa lớn, khá đẹp cạnh nhau, nổi hẳn lên giữa những căn nhà thấp lè tè của cán bộ, công nhân viên sân bay Gia Lâm”.
Loạt bài điều tra này đã được đăng phần đầu trên báo Hàng Không Việt Nam từ ngày 7-4-1987, nhưng phần tiếp theo thì không thể đăng vì “ban biên tập đã bị nhiều sức ép”. Ngay sau khi Nguyễn Văn Linh cho đó là sự “im lặng đáng sợ”, một đoàn kiểm tra đã được lập ra. Báo Tuổi Trẻ ngày 7-7-1987 cho đăng kết luận của đoàn, xác nhận: “Một số cán bộ có chức có quyền ở ngành Hàng không đã gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt đoàn kiểm tra nhấn mạnh, việc cho ngưng loạt bài điều tra là “xâm phạm quyền tự do báo chí” và tuyên bố: “Báo Hàng Không sẽ đăng tiếp phần còn lại”.
Kể từ bài báo đầu tiên đăng ngày 26-5-1987 cho đến ngày 30-5, ngày nào Nguyễn Văn Linh cũng có bài đăng trên mục “Những việc cần làm ngay”. Nhịp độ này tuy có thưa ra trong tuần lễ thứ hai, nhưng trong tháng 6-1987, gần như tuần nào ông Nguyễn Văn Linh cũng gửi tới báo Nhân Dân ít nhất là một bài báo ngắn. Hễ cứ báo Nhân Dân cho đăng “những việc cần làm ngay” là các báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Thanh Niên và các tờ báo Đảng tại các địa phương lại đăng lại nguyên văn trên đầu trang nhất.
Việc Tổng Bí thư viết báo, nay đề nghị “quản lý giá cả”, mai đề nghị “phải đưa những cán bộ, đảng viên tốt vào ngành thương nghiệp quốc doanh”, làm nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Trong Ban Bí thư, theo nhà báo Hữu Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình đã can ngăn ông Linh đừng viết nữa. Ngày 10-7-1987, ông Nguyễn Văn Linh đã công khai trả lời sự can ngăn này6.
Theo ông Hữu Thọ: “Ban Biên tập báo Nhân Dân quyết định phải tỏ thái độ ủng hộ đồng chí Tổng Bí thư”. Ngày 13-7- 1987, báo Nhân Dân cho đăng xã luận “Hưởng ứng những việc cần làm ngay”. Để rồi, ngay sau đó, các báo mở chuyên mục thường xuyên và gần như bất cứ chỉ thị nào của các bộ, ngành, địa phương cũng bắt đầu bằng khẩu hiệu “Hưởng ứng những việc cần làm ngay” mà báo Nhân Dân đưa ra ngày 13 tháng Bảy.
Tại Sài Gòn, Thành ủy ra nghị quyết yêu cầu các cấp ủy, ban ngành, đoàn thể từ thành phố đến phường, xã phải tổ chức xem xét và “xử lý ngay những vấn đề mà đồng chí N.V.L. nêu”; các ngành, các cấp của Thành phố “phải học tập đồng chí N.V.L. tự mình nêu ra những việc cần làm trong ngày, tuần, tháng không chỉ trong mặt trận chống tiêu cực mà trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác”7. Ngày 25-6-1987, khi sơ kết cuộc vận động, mọi thành tích trên các lĩnh vực khác nhau đều được Thành ủy coi là nhờ hưởng ứng “những việc cần làm ngay” mà có8.
Báo chí, từ chỗ đang viết những bài ca ngợi, chuyển sang “phanh phui” những gì bị coi là tiêu cực. Những vụ việc ở “Phòng thuế quận Tư”, ở “Tổng cục Trang bị Kỹ thuật, Bộ Nông nghiệp” đã được đăng trên báo và bị quên lãng, khi có “Những việc cần làm ngay” của Nguyễn Văn Linh, bắt đầu được “cày, xới” lại. Báo chí không ngại ngần nêu đích danh cả những ủy viên Trung ương như Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Hà Trọng Hòa.
Ngày 19-9-1987, Hội Nhà báo tổ chức hội thảo khẳng định “báo chí nhất định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực”. Ngày 21-9-1987, Ban Bí thư ra Chỉ thị 15, đánh giá: “Hoạt động vừa qua của báo chí chống tiêu cực bước đầu đem lại niềm tin cho quần chúng, thúc đẩy các vụ tiêu cực được xử lý nhanh hơn”. Ban Bí thư phê phán “một số cán bộ lãnh đạo địa phương chưa biết sử dụng và ủng hộ báo chí làm công cụ chống tiêu cực”. Ngày 4-9-1987, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng kêu gọi báo chí “phát huy mạnh mẽ sức mạnh của mình”.
Sau khi thuyết phục được báo giới, ông Nguyễn Văn Linh chuyển sang tìm kiếm ảnh hưởng của mình trong giới văn nghệ. Người giới thiệu ông Linh với văn nghệ sỹ là Tướng Trần Độ 9, Trưởng Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương. Trần Độ lúc đó cũng đang cần sự ủng hộ của Tổng Bí thư cho một nghị quyết mà ông thai nghén nhằm “đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ”. Nghị quyết của Trần Độ về sau nổi tiếng với tên gọi: “Nghị quyết 05”.
Ngay từ giai đoạn chuẩn bị Nghị quyết 05, không khí dân chủ trong xã hội đã được khởi động bởi nhiều cuộc hội thảo và, đặc biệt, cuộc đối thoại với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Theo Tướng Trần Độ thì chính ông Nguyễn Văn Linh muốn có cuộc gặp này để ông “trực tiếp nghe tiếng nói của anh em” văn nghệ.
Cuộc gặp giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa diễn ra trong hai ngày 6 và 7-10-1987. Hơn 100 đại biểu được coi là “tinh hoa” của giới đã về dự. Mở đầu cuộc làm việc, Tổng Bí thư chỉ nói trong chừng năm phút. Ông nêu băn khoăn, “hình như từ sau ngày giải phóng văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo hơn” rồi đề nghị các nhà văn tìm nguyên nhân: có phải do có sự kiểm duyệt hay có sự hạn chế gì? Khi thấy các nhà văn cứ vòng vo, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói: “Còn rào đón thì chưa chuyển biến được đâu!”.
Được Tổng Bí thư mở lời, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện thừa nhận, văn học nghệ thuật còn bị trói buộc, sự lãnh đạo văn nghệ còn thô sơ, tác giả và tác phẩm dễ dàng bị kết án. Ông nói: “Bản án nào cũng có kỳ hạn, mãn hạn tù, còn bản án văn học thì cứ mãi treo lơ lửng, có khi còn hại đến cả con cháu”. Những người phát biểu gay gắt như Nguyễn Khắc Viện, Dương Thu Hương đều được Tổng Bí thư đứng dậy bắt tay. Thái độ của Tổng Bí thư đã đánh thức sỹ khí của những người từ lâu sống trong sợ hãi.
Họa sĩ Phan Kế An gọi những sai lầm đối với văn học nghệ thuật là “Maoist”. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ chỉ trích tình trạng “một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu”. Ông Vũ nói: “Sự độc đoán về tư tưởng bóp chết sáng tạo, làm khô kiệt văn học và nghệ thuật”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Chiến tranh quá dài đã khiến chúng ta nói quá nhiều, quá sâu về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù và gần như trong một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé, về cha mẹ, về gia đình... Chiến tranh đã khiến cho cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị”. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh ví văn nghệ sỹ như những “con chim bị trói”. Theo ông Mạnh: “Có thời lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại”.
Trong năm mươi phút phát biểu sau cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đồng ý là phải “cởi trói” mới phát huy hết khả năng của văn nghệ sỹ. Mặc dù thừa nhận: “Trước hết, tôi nghĩ Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ”, nhưng ông Linh vẫn cho rằng: “Không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Nghe các đồng chí nói, tôi rất thông cảm. Chính vì thông cảm mà sáng nay tôi đã ngứa miệng kêu: hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu”.
Ông Nguyễn Văn Linh chia sẻ: “Tôi không phải là nhà văn nghệ, nhà báo nhưng ngứa ngáy quá nên vừa rồi mới viết "Những việc cần làm ngay". Nhiều người hoan nghênh, hưởng ứng nhưng không phải không có những người cho rằng: sao lại bôi đen chế độ”. Không khí cuộc gặp và phát biểu của Tổng Bí thư đã khiến cho ông Nguyễn Kiên, một nhà văn được coi là trầm tĩnh nhất cũng phải thốt lên: “Có cảm giác là chúng ta đã bắt đầu bước sang một thời kỳ khác”10.
Không phải tự nhiên ông Nguyễn Văn Linh chọn báo chí, văn nghệ, thay vì chọn hệ thống tổ chức mà ông đứng đầu để gây ảnh hưởng chính trị cho mình. Ông Linh hiểu mình ở đâu trong bàn cờ Hà Nội. Khi mới được bầu làm tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh nói trước Ban Chấp hành Trung ương: “Trước đây, tổng bí thư thường hơn các đồng chí khác trong Bộ Chính trị một cái đầu; nay, chúng tôi chỉ hơn kém nhau sợi tóc”.
Ông Nguyễn Văn Linh mới được bổ sung vào Bộ Chính trị tháng 6-1985 và được cử làm thường trực Ban Bí thư từ tháng 7-1986. Cho đến khi ấy, ông Linh chỉ thực sự có sáu tháng kinh nghiệm xử lý công việc ở tầm quốc gia. Theo ông Trần Phương: “Sinh thời, anh Ba không đánh giá cao Nguyễn Văn Linh” 11. Việc ông Linh bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội V là ý kiến của chính Tổng Bí thư Lê Duẩn. Tháng 12-1981, ông Nguyễn Văn Linh bị đưa trở lại Sài Gòn làm bí thư, một chức vụ mà ông đã giữ từ năm 1945. Nhưng Sài Gòn không phải là chặng đường cuối cùng của sự nghiệp Nguyễn Văn
Linh như nhiều người lúc bấy giờ dự đoán.
Sài Gòn năm 1981 là một thành phố lớn, bộ máy công an, quân đội, báo chí và vị trí của nó có thể đưa ảnh hưởng chính trị của người lãnh đạo vượt ra khỏi khuôn khổ địa phương. Khác với những lần làm bí thư bí mật, và sau nhiều năm giữ những chức vụ chỉ có danh, ông Nguyễn Văn Linh có được trong tay một chính quyền thực sự. Cũng như Võ Văn Kiệt, ông đã khai thác rất tốt lợi thế ấy.
Năm 1985, nhân dịp kỷ niệm một thập niên sau “ngày giải phóng”, ông Nguyễn Văn Linh cho xuất bản cuốn Thành Phố Hồ Chí Minh 10 Năm, phê phán sự “choáng ngợp trước thắng lợi” và chỉ trích những cán bộ tiếp quản miền Nam hồi năm 1975 là “thừa nhiệt tình và thiếu kiến thức”. Cuốn sách - được biên soạn bởi những người thạo việc viết lách nhất của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, được Nhà Xuất bản Sự Thật in tới 30.200 cuốn - đã gây được uy tín rộng rãi cho người đứng tên12. Tuy nhiên, những gì gây chú ý trong cuốn sách này của Nguyễn Văn Linh chủ yếu nằm trong luồng gió “chống bệnh duy ý chí” mà ông Trường Chinh đang bắt đầu. Từ đó cho đến Đại hội VI, Nguyễn Văn Linh gần như không có đóng góp gì thêm cho “đổi mới”13.
Ngay sau Đại hội VI, vừa lo lắng cho người kế nhiệm, vừa lo lắng cho sự nghiệp thực thi những chính sách mà mình mới đưa ra, Trường Chinh nói với Nguyễn Văn Linh: “Anh lên, công việc bề bộn, phải có người giúp việc. Nếu anh muốn, tôi sẽ nhường Trần Nhâm, Hà Nghiệp cho anh”. Nhưng theo Trần Nhâm, ông Linh lạnh lùng: “Tôi không muốn người ta nói tôi được rút ra từ trong lò Trường Chinh”.
Công  chúng  càng  ít biết  đến Trường Chinh như một kiến trúc sư đổi mới bao nhiêu, lại càng gắn vai trò này cho Nguyễn Văn Linh bấy nhiêu14. Nguyễn Văn Linh nắm được lợi thế đó và trong khoảng thời gian ngắn ngủi lúc đầu, ông đã truyền được thêm cảm hứng cho đổi mới. Đặc biệt trong những bước đi đầu nhiệm kỳ, sau khi Nguyễn Văn Linh chạm tay vào “đèn xanh”, giới văn nghệ sỹ đã phá vỡ không ít xiềng xích mà họ đã bị tròng vào hơn hai thập niên trước đó.
Xiềng xích “Nhân văn”
Báo chí xuất hiện ở Việt Nam chỉ ba năm sau khi người Pháp đặt chân lên “Lục tỉnh”. Ngày 1-2-1865, tại Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký cho xuất bản Gia Định Báo. Tiếp theo đó là sự ra đời của Phan Y ên Báo, Nông Cổ Mín Đàm. Đầu thế kỷ 20, giới phụ nữ Việt Nam cũng đã có tiếng nói riêng với tờ Nữ Giới Chung do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút.
Báo chí miền Bắc ra đời muộn hơn15. Nhưng, ở đây lại là nơi bắt đầu các phong trào: Tự Lực Văn Đoàn, năm 1933; Tiểu Thuyết Thứ Bảy, năm 1934; Thơ Mới, cuối thập niên 1930… Đến năm 1939, Việt Nam co 48 nhât bao, 68 tâp san va 292 tac phâm xuât ban băng quôc ngư. Đi cùng văn chương, báo chí, là âm nhạc và hội họa. Các tác phẩm đỉnh cao của âm nhạc Việt Nam từng xuất hiện trong thời tiền chiến. Nhưng tháng 8-1945, những người cộng sản cướp chính quyền. Ở đâu có đảng cộng sản cầm quyền, ở đó bắt đầu có cách mạng về văn hóa.
Từ ngày 25 đến 28-3-1943, Ban Thường vụ Trung ương mở hội nghị tại làng chài Võng La thuộc huyện Đông Anh, Phúc Y ên, nhằm phản ứng với tình hình trong nước và trên thế giới. Cũng trong những ngày ấy, Trường Chinh viết Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, nêu rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương: Văn hóa là một trong ba mặt trận (cùng với kinh tế, chính trị) ở đó người cộng sản không chỉ làm cách mạng chính trị, mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa.
Cũng từ năm 1943, Trường Chinh đã đưa những quan điểm này vào công cuộc lãnh đạo các hoạt động văn hóa cứu quốc. Đây là đường lối dựa trên các nguyên lý văn nghệ của Mao Trạch Đông: bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền như là một mệnh lệnh tuyệt đối cho văn nghệ sĩ. Đề cương Văn hóa của Trường Chinh thoạt đầu chưa phải đã có khả năng chi phối, ngay cả với những người làm “văn hóa cứu quốc”.
Tại Hội nghị Quốc dân Tân Trào, tháng 8-1945, Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, những nhà lãnh đạo Hội Văn hóa Cứu quốc, từng đưa ra những quan điểm khác hẳn với Trường Chinh. Quan điểm của Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh càng trở nên khác nhau hơn trong các cuộc tranh luận tại Hội nghị Văn hóa Cứu quốc toàn quốc, tháng 10-1946. Lúc bấy giờ, Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ gồm một lực lượng kháng chiến ẩn náu trong rừng. Trường Chinh vẫn đang hành xử như một nhà chính trị chứ chưa hành xử như một người cầm quyền. Nhiều cuộc tranh luận vẫn được diễn ra dân chủ. Nhưng, tháng 7-1948, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II, Hội Văn hóa Cứu quốc đã bị giải tán để thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ mà Mao Trạch Đông áp dụng với người Trung Quốc. Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc Nguyễn Đình Thi được làm phó tổng thư ký Hội Văn nghệ.
Sau Hội nghị Việt Bắc, 1949, nơi tất cả văn nghệ sỹ kháng chiến được triệu tập về ngồi kiểm điểm nhau suốt ba ngày. Sau “thơ không vần” của Nguyễn Đình Thi cùng với “tranh lập thể” của Tạ Tỵ, Văn Cao trở thành mục tiêu phê phán công khai; sau khi đưa ra khẩu hiệu “Cách mạng hóa tư tưởng, Quần chúng hóa sinh hoạt, Kháng chiến hóa văn hóa”, Tố Hữu yêu cầu văn nghệ sỹ, sau ba năm kháng chiến, phải loại trừ hết những gì còn rơi rớt của cái gọi là “tiểu tư sản”. Trong số đầu tiên của Tạp chí Văn Nghệ, Nguyễn Đình Thi gần như đã lặp lại những gì Tố Hữu nói: “Bước vào năm thứ ba của cuộc kháng chiến, văn nghệ sỹ phải nhận rõ đường đi”16.
Cho dù bị Nguyễn Đình Thi bỏ rơi, Nguyễn Hữu Đang vẫn cùng Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Sỹ Ngọc tiếp tục tranh luận về dân chủ và tự do sáng tác. Nhiều văn nghệ sỹ kháng chiến khác cũng tự nhận thấy con đường của mình. Những đợt sinh hoạt chính trị này, từ tháng 7-1948, đã đẩy hàng loạt văn nghệ sỹ bỏ về thành vì không chấp nhận đường lối văn nghệ chủ trương phân chia giai cấp. Sau năm 1954 những người này lại đã tiếp tục đi tới Sài Gòn17.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đặt Việt Nam trước một khúc quanh. Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Hoa năm 1949, mới thực sự đẩy số phận dân tộc Việt Nam bước hẳn vào con đường cộng sản. Mao đã giúp Hồ Chí Minh tiếp cận với Stalin, đồng thời viện trợ vũ khí và chuyên gia để Hồ Chí Minh tiếp tục kháng chiến chống Pháp.
Chiến dịch Biên giới năm 1950 là một chiến thắng quân sự có tầm cỡ chiến lược của quân đội Tướng Giáp. Nhưng, đồng thời, cũng từ năm 1950, biên giới phía Bắc đã được mở ra với phe xã hội chủ nghĩa và từ đây bỏ ngỏ để các “nguyên lý cách mạng” của Mao và Stalin mặc sức tràn sang. Đặc biệt, từ năm 1953, cung cách “chỉnh huấn, chỉnh quân” của Mao bắt đầu được áp dụng, đặt những người kháng chiến trong đó có các văn nghệ sỹ trong thế đương  đầu với một cuộc “khủng bố” tinh thần khốc liệt.
Nếu như đầu những năm 1950, theo Nguyên Ngọc, những người kháng chiến vẫn còn có thể hát Suối Mơ, Thiên Thai thì từ sau “chỉnh huấn, chỉnh quân”, ở đâu cũng chỉ nói đến “đấu tranh giai cấp”. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Khi đó, trí thức phải tự coi mình như ‘cục phân’18. Tôi hai mươi mốt tuổi chưa kịp gây ra khuyết điểm gì đành phải tự kiểm vì đã âm thầm mơ đến yêu đương, dục vọng”.
Những văn nghệ sỹ đã nổi tiếng trước đó thì phải “bới lông tìm vết” trong chính các tác phẩm của mình. Hoài Thanh tự phê phán tác phẩm quan trọng nhất cuộc đời ông: Thi Nhân Việt Nam. Nguyễn Tuân xin từ “ba đứa con tinh thần”: Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, Thiếu Quê Hương, Vang Bóng Một Thời. Thái độ này của các bạn văn đã khiến cho những người chính trực trong giới văn chương ngao ngán.
Cũng trong thời gian đó, lịch sử “phe xã hội chủ nghĩa” được đánh dấu bởi cái chết của nhà độc tài Stalin ngày 5-3- 1953. Ngày 17-6-1953 người dân biểu tình tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Các nhà văn Đức phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và Nhà nước. Tháng 7-1954, ở Trung Quốc, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng, gọi chính sách của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với Văn nghệ là “ lưỡi dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng”.
Tháng 10-1954, Trần Dần, Đỗ Nhuận và Hoàng Xuân Tùy được cử đi Trung Quốc viết lời bình cho phim tài liệu về Điện Biên Phủ. Họ ở lại Trung Quốc cho đến ngày 12-12-1954, trong thời gian đó, không khí yêu cầu cải cách dân chủ ở Trung Quốc được cho là có ảnh hưởng không ít đến Trần Dần và Đỗ Nhuận.
Tháng 1-1955, ở Hungary, sáu mươi ba nhà văn lên tiếng phản đối chế độ độc tài. Trong khi đó, ngày 4-3-1955, Phòng Văn nghệ quân đội do Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức thảo luận phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Cuộc thảo luận có mặt Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Thơ cách mạng của Tố Hữu bị coi là “nhỏ” hơn thơ Tố Hữu ngày xưa. Tố Hữu còn bị phê phán sùng bái Hồ Chí Minh.
Báo Văn Nghệ số 6519   còn mở “tự do diễn đàn” để thảo luận về tập thơ Việt Bắc. Cuộc tranh luận kéo dài đến tháng 8- 1955, rộng ra và chuyển sang nhiều báo khác. Hội Văn nghệ, dưới sự lãnh đạo của Tố Hữu, tổ chức hai buổi tọa đàm. Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông ca ngợi Việt Bắc, coi Tố Hữu là ngọn cờ đầu của thơ kháng chiến. Hoàng Y ến cho rằng thơ Tố Hữu ngày nay có nhiều đoạn giả tạo công thức. Hoàng Cầm chê: thơ Tố Hữu thiếu chất sống thực tế, nhạt nhẽo, hời hợt và không đột phá được vào một khía cạnh nào của tâm hồn.
Tháng 4-1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm ký bản “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, đòi quyền tự do sáng tác và yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội. Bản dự thảo sắp được thông qua, thì cuối năm 54, đầu 55, Phòng Văn nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn nghệ với sự có mặt của Tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi thảo luận, Trần Dần đòi trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, bỏ mọi “chế độ quân sự hiện hành” trong văn nghệ quân đội. “Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản”20.
Bị phê bình, Trần Dần viết đơn xin ra khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê, con một gia đình Thiên Chúa giáo di cư, bất chấp sự phản đối của quân đội. Từ ngày 13-6-1955, Trần Dần bị phạt “giữ tại trại” hơn ba tháng để kiểm thảo. Người vợ Công giáo, con của một gia đình tư sản, không thể nào xin được việc làm trên “thiên đường miền Bắc”  21
Tháng 1-1956, Hoàng Cầm, Lê Đạt cho xuất bản sách dạng tạp chí có tên là Giai Phẩm Mùa Xuân, đăng bài của Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Quán và bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần.  Ngay lập tức, Giai phẩm bị tịch thu. Hội Văn nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự.
Trần Dần bị kết án là “đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng”. Theo lệnh của Tố Hữu, Trần Dần và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hỏa Lò, Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử. Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp, hai người được thả. Ngày 7-3-1956, báo Văn Nghệ đăng một bài viết của Hoài Thanh có tựa đề “Vạch trần Tính chất Phản động trong bài thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần”.
Tháng 3-1956 tập thơ Việt Bắc vẫn được Giải Nhất Giải thưởng Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Dư luận văn nghệ sĩ bất bình về việc trao Giải thưởng Văn nghệ 1954-1955. Trong khi những tác phẩm có tiếng vang trong kháng chiến thì không được giải. Ban giám khảo “tự chấm rất nhiều giải cho mình”, trong đó có nhiều tác phẩm chưa xứng đáng của Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Trắc, Hồ Khải Đại,…
Cũng trong thời gian đó, tại Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 24-2-1956, Khrushchev cho công bố “các tội ác của Stalin”. Liên Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết dưới thời Stalin. Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô Phadeiev tự sát22. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng”. Chút ít không khí dân chủ xuất hiện.
Tháng 9-1956, khi kiểm điểm những sai lầm trong cải cách ruộng đất, Hội nghị Trung ương 10 nhấn mạnh việc “tăng cường mở rộng tự do dân chủ”. Trường Chinh, tác giả Đề Cương Văn Hóa Việt Nam, phải từ chức tổng bí thư. Người hùng Điện Biên Võ Nguyên Giáp được cử đứng ra “xin lỗi nhân dân về những sai lầm trong cải cách”.
Giữa lúc ấy, “lãnh tụ” của khuynh hướng đòi tự do, Nguyễn Hữu Đang, được giao tổ chức lớp học dân chủ mười tám ngày cho Hội Văn nghệ. Tại đây, các văn nghệ sĩ đã chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi “thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa”. Hoài Thanh viết bài “Nhận lỗi tả khuynh trong phê bình Trần Dần”. Tháng 10-1956, Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ra thông báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất Định Thắng. Nhưng ngày vui đã không kéo dài. Trước đó, ngày 29-8-1956, Giai Phẩm Mùa Thu tập I ra đời đăng bài Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ của Phan Khôi. Báo Nhân Văn số 123, đã phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do, dân chủ.
Phan Khôi là một chí sỹ chủ trương đấu tranh bất bạo động, gắn bó cuộc đời hoạt động của mình với phong trào Duy Tân. Năm 1925, khi Phan Châu Trinh về Việt Nam, Phan Khôi được coi như là người đón nhận “di sản tinh thần” cụ Phan. Cùng với Trương Tửu, Phan Khôi phê phán bệnh sùng bái cá nhân. Ông phê phán đích danh tác phong lãnh đạo văn nghệ quan liêu, hách dịch, bè phái của Trường Chinh, Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi. Phan Khôi còn chỉ trích việc Hồ Chí Minh viết truyện mẫu định cho các nhà văn viết theo. Đây là giai đoạn mà theo Trương Tửu: “ Một số văn nghệ sĩ non gan… biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức… Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên”24.
Ngày 20-10-1956, báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm chủ nhiệm kiêm chủ bút ra số 1. Trong thời gian tồn tại của mình, với mười một số, Trăm Hoa đã đăng: “ Vì những sai lầm nghiêm trọng cần phải xét lại toàn bộ Giải thưởng văn học 1954-1955”, bài “Chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Trăm Hoa cũng cho công bố Thông báo của Hội nghị Trung ương 10 về sai lầm trong Cải cách ruộng đất và viết bài “ Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước”,…
Tháng 11-1956, ở trong nước người dân ở vùng Công giáo Quỳnh Lưu, Nghệ An, tổ chức bạo loạn. Ở Hungary, chính phủ của Thủ tướng Nagy tuyên bố Hungary trung lập. Liên Xô đưa quân sang, các phong trào dân chủ bị dập tắt.
Ngày 20-11-1956, Nhân Văn xuất bản số 5: Lê Đạt với bút danh Người quan sát viết Bài Học Ba Lan Và Hungary; trong bài Hiến Pháp Việt Nam Năm 1946 Và Hiến Pháp Trung Hoa Bảo Đảm Tự do Dân Chủ Thế Nào, Nguyễn Hữu Đang viết: “Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hungary là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?”25.
Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký “Sắc lệnh về chế độ báo chí”, buộc người dân ra báo phải xin phép, chấm dứt trên miền Bắc thời kỳ ai muốn làm báo chỉ cần đăng ký mà người dân An Nam được hưởng gần một thế kỷ dưới thời thực dân Pháp26.
Ngay trong ngày báo Nhân Dân công bố sắc lệnh của Hồ Chí Minh, 15-12-1956, tờ Nhân Văn số 6 bị giữ lại ở nhà in. Ngày 18-12-1956, Ủy ban Thành phố Hà Nội có quyết định ngưng phát hành báo Nhân Văn, Giai Phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm, đồng thời Nhà Xuất bản Minh Đức bị đóng cửa. Tháng 1-1957, Trăm Hoa bị đình bản. Một chiến dịch báo chí cũng được tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm.
Cuối tháng 12-1956 Minh Đức vẫn cho ra tập san Tự Do Diễn Đàn và ngay lập tức ấn phẩm này bị cấm. Tập san bị cấm có các bài: "Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh Văn nghệ" của Nguyễn Hữu Đang, "Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích Chính sách" của Phan Ngọc, "Sinh hoạt Văn hóa" của Trương Tửu và Trần  Đức Thảo. Đặc biệt, tờ Tự Do Diễn Đàn đã cho công bố bản tham luận gây chấn động Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường: "Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, Xây dựng Quan điểm Lãnh đạo".27. Đầu năm 1957, Minh Đức còn xuất bản Sách Tết, với gần đủ mặt nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm.
Ngày 20-2-1957, khai mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, Trường Chinh kêu gọi “đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 28-2-1957, “Đại hội bế mạc. Cụ Hồ đến. Nhiều công an quá. Mấy công an đi theo dõi mấy văn nghệ sĩ, nghe họ nói đổng về báo cáo là có kẻ phá hoại. Nhao cả lên”28. Thời gian này, Trường Chinh vừa bị mất chức tổng bí thư. Sau lời kêu gọi của ông, “bọn Nhân Văn Giai Phẩm” vẫn nhiều người được bầu vào ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam và các hội thành viên.
Cuối năm 1957, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch “chống phái hữu”. Nhiều nhà văn bị phê phán như Trần Xí Hà, Đặng Thác; nữ nhà văn Đinh Linh, người được Giải thưởng văn học Stalin, bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc và bị bắt29. Cũng trong thời gian ấy, nhân chuyến thăm Liên Xô, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên, Hồ Chí Minh ghé Bắc Kinh. Khi ông trở về, Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường được cử sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm đấu tranh “chống phái hữu”. Tờ Nhân Dân xuất hiện nhiều bài viết “chống phái hữu” ký tên Trần Lực, một bút danh của Hồ Chí Minh30.
Ngày 6-1-1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác Văn nghệ31. Cuối tháng 1-1958, Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ Nhất được tổ chức tại ấp Thái Hà32  với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự. Từ 3-3 đến 14-4-1958, cũng tại ấp Thái Hà, diễn ra Lớp học đấu tranh tư tưởng lần Hai với 304 cán bộ văn hóa. Theo Đại tá Thái Kế Toại: “Hai lớp học này đã dùng thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, vu cáo, bịa đặt tội lỗi cho những thành viên nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Kết quả là không cần điều tra người ta đã có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để quyết định bắt họ, kỷ luật họ”.
Gần cuối ngày họp, 10-4-1958, công an Hà Nội bắt giam Nguyễn Hữu Đang, Thụy An và Trần Thiếu Bảo. Ngày 4-6- 1958, trước Hội nghị Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Tố Hữu, người chủ trì chiến dịch ấp Thái Hà đã “tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”33. Bài “tổng kết” của Tố Hữu được ví như một “cáo trạng”, như một “nhát gươm chính thức kết liễu số phận Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao phủ”34.
Ngày 5-6-1958, dưới sự chủ trì của Tố Hữu, “800 văn nghệ sỹ” đã ký vào một nghị quyết “hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm”. Ngày 7-7-1958 Ban Chấp hành Hội Nhà văn ra thông báo “kỷ luật nhóm Nhân Văn”35. Số văn nghệ sỹ, gọi là “tham gia Nhân Văn Giai Phẩm” tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội quản lý, khoảng 170 người36. Số bị xử lý nặng khoảng gần 100 người, còn “số bị đưa vào danh sách để phân loại xử lý tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn”37.
Người nặng thì bị đi tù, nhẹ hơn thì đi cải tạo lao động trong vòng từ ba đến sáu tháng tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã. Một số văn nghệ sỹ phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên, Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực… Đầu năm 1961, Phùng Cung bị bắt, do: “Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn, chống đối, phản động”. Lê Đạt gọi thời kỳ “hậu Nhân Văn” là những ngày “khôn ngoan không dám làm người”. Phần lớn các nạn nhân, vốn là những văn nhân tài hoa, đều phải cúi đầu, tự mình viết bài xỉ vả mình38. Họ được ở lại Hà Nội và sau một thời gian lao động phần lớn được trở lại hành nghề. Cũng có những nhà văn, nhà thơ bỏ về rừng như Hữu Loan, Nguyên Hồng. Nhưng, cái giá mà họ và gia đình họ phải trả là vô cùng đau đớn.
Theo Nguyên Ngọc: “Sau một đêm, Nguyên Hồng vứt hết chức tước, tem phiếu, đưa gia đình về định cư ở vùng Yên Thế. Ông nói: tao không chơi được với chúng mày nữa”. Hữu Loan bỏ Hà Nội về quê Thanh Hóa. Từ đó, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim đi thồ đá, người vợ hiền của ông vừa cày hai sào ruộng vừa xay bột làm bánh. Ba người con trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ ba giờ sáng, kéo ba chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách hai cây số bán rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ bảy cây số đi học. Vì lý lịch cha mẹ mà một người con của Hữu Loan thi đạt điểm du học nước ngoài vẫn không được đi, những người con khác của ông cũng không ai được vào đại học.
Tố Hữu gọi Văn Cao, tác giả của Quốc Ca, là một đảng viên mang “chủ nghĩa cá nhân”, “chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng chính trị đối địch và đường lối văn nghệ tư sản trụy lạc, đã câu kết và tích cực giúp sức cho bọn phá hoại hoạt động, làm ‘tay trong’ cho chúng”39. Tháng 11-1959, Văn Cao “được phân công dịch sách tại garage Hội Nhà văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực”. Năm 1960, có hai lần ông bị đưa đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên, tháng 8 ốm nặng, được về. Từ đó, sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống”40.
“Văn Cao bị một ám ảnh là luôn luôn thấy có người theo dõi. Tâm trạng bệnh tật. Càng ngày càng bất mãn”41. Ngày 18-10-1959, Nguyễn Huy Tưởng gặp Văn Cao: “Khổ vì tập Vạch Mặt Nhân Văn nêu tên Văn Cao từ đầu chí cuối. Bị thành kiến. Trong khi đó thì ốm, chỗ dạ dày bị mổ thỉnh thoảng lại đau... Phải nuôi mẹ già và một em. Khổ nhất là có một đứa con mới đẻ, lao. Tốn vào đó. Không đi đâu được. Rơm rớm nước mắt nói: vợ lại chửa. Vẫn phải đi làm để nuôi thân. Văn Cao phải ở nhà ẵm con. Bấn không đi đâu được. Lo cái chết trước mặt. Thấy có nhiều khả năng để làm việc, và thấy phải làm việc, làm một cái gì. Suốt ngày đánh đàn. Nhưng khuya, vợ hét”42.
Tác giả của những câu thơ: Y êu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét./ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu…", ông Phùng Quán, đã phải mất hai thập kỷ sống bằng “cá trộm, văn chui, rượu lủi”, có lúc đã định tự sát, không dám làm đám cưới vì không có tiền và vì… không ai dám in tên một “tên Nhân Văn” lên… thiệp cưới.
Nguyễn Hữu Đang được coi là người Việt Nam duy nhất không hề nếm mùi “chiến tranh chống Mỹ”. Ông bị bắt từ năm 1958, bị đưa lên một nhà tù ở tận Hà Giang cho đến năm 1973. Năm 1930, Nguyễn Hữu Đang cũng từng bị thực dân Pháp bắt khi hoạt động trong Hội Sinh viên thị xã Thái Bình, một tổ chức của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội43. Khi đó, ông thoát án giam vì chưa tới tuổi thành niên. Nhưng sau “Cách mạng”, ông đã bị tù đày không một ngày ân xá.
Năm 1973 ra tù, Nguyễn Hữu Đang bị đưa trở lại quê cũ Thái Bình, làm ruộng. Giữa thập niên 1985, ông lại bị bắt và bị tạm giam bốn tháng vì “tự tiện sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi”44. Nguyễn Hữu Đang - người xây đài Độc lập, để trong ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đứng trước nhân dân tuyên ngôn về tự do - kể từ khi được tạm tha, được “sống trong trại lợn của hợp tác xã”.
“Tội” của Nguyễn Hữu Đang là đã đích thân bán từng bộ áo quần lấy tiền để nhóm Nhân Văn ra báo45   đăng những ý kiến tâm huyết đề nghị Đảng xây dựng một nền pháp trị thay cho đảng trị; đề nghị nhà nước “cần phải chính quy hơn”46.
Thời hoạt động công khai, Nguyễn Hữu Đang từng “ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội giàu có nào, vay vàng, tiền cho cách mạng mà những người trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì”47. Nguyễn Hữu Đang của năm 1988, khi Phùng Quán đến Thái Bình thăm, không vợ, không con, không cửa không nhà, rách rưới và tiều tụy48.
Vụ “Nhân Văn Giai Phẩm” từ lâu bị coi như là một vụ án văn chương và gần như chỉ có số phận các nạn nhân nhà văn là được quan tâm. Trong khi đó, theo Đại tá Thái Kế Toại: “Các đợt học tập chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy. Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ”.
Trong thập niên 1950, đại học Việt Nam có được những trí thức ưu tú nhất của nền giáo dục Pháp. Giáo sư Hoàng Tụy đang dạy toán ở Đà Nẵng đã ra Việt Bắc chỉ vì nghe ở đó có nhà toán học Lê Văn Thêm bỏ Pháp về Việt Nam theo kháng chiến. Nhiều sinh viên, giảng viên đại học chỉ mong được nhìn thấy những trí thức tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo.
Mô hình tự chủ đại học được Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Trương Tửu chủ trương từ rất sớm. Người đứng đầu ngành đại học lúc đó là Tạ Quang Bửu muốn xây dựng một nền đại học tạo cơ hội như nhau cho mọi người nhưng từ chối thêm điểm vào đại học cho giai cấp công, nông. Quan điểm của ông bị phê phán là “tinh hoa chủ nghĩa”. Chỉ vì ủng hộ những quan điểm này mà Giáo sư Hoàng Tụy đã bị kiểm điểm tới…tám mươi cuộc.
Sau những cuộc đấu tố liên miên đó, nhiều giáo sư như Trần Đức Thảo, Lê Văn Thêm đã luôn bị tự kỷ ám thị. Đêm đêm, Giáo sư Trần Đức Thảo vẫn nằm dưới gậm giường vì sợ. Còn Nguyễn Mạnh Tường thì từ năm 1958 không những bị tước hết mọi chức vụ mà hơn ba mươi lăm năm, vị luật sư tài ba có hai bằng tiến sỹ Pháp ấy và gia đình đã phải sống trong đói khát.
Năm hai mươi hai tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại Đại học Montpellier. Một tháng sau, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn chương. Khi Nguyễn Mạnh Tường “vinh quy”, người Pháp đã gặp và gợi ý đưa ông vào làm thượng thư trong Triều Bảo Đại nhưng ông từ chối.
Những người như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo có thể đã trở thành những trí thức được sủng ái nếu như không lên tiếng phê bình những sai lầm của chế độ49.
Lúc còn học ở trường Albert Sarraut, Trần Đức Thảo đã để lại không ít huyền thoại về sự thông minh. Ông đỗ tú tài triết học năm 1935, và năm sau ông đỗ đầu trong kỳ thi vào trường Normale Superieure  của Pháp. Trần Đức Thảo tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp năm 1942, khi mới hai mươi lăm tuổi. Ông được nhiều thế hệ trí thức Việt Nam ngưỡng mộ từ huyền thoại “kết thúc cuộc tranh luận với nhà hiện sinh Jean-Paul Sartre trên thế thắng”.
Sau Hội nghị Fontainebleau,  Hồ Chí Minh đã tìm gặp và đề nghị Trần Đức Thảo về Việt Nam. Cuối 1951, sau khi lấy xong tiến sỹ, vì say mê chủ nghĩa Marx, Trần Đức Thảo đã về nước theo hành trình Paris - London - Praha - Moscow - Bắc Kinh - Tân Trào. Thế nhưng, khi cùng tham gia viết về dân chủ trên báo Nhân Văn, Trần Đức Thảo đã bị Tố Hữu xếp chung với “bọn gián điệp, phản động”50. Báo Nhân Dân sau đó đã đăng nhiều bài báo bôi nhọ ông51.
Cho dù đã phải “khấu đầu tạ tội”52   trên báo Nhân Dân, Trần Đức Thảo vẫn bị “đưa ra khỏi biên chế” nhà nước, phải “cải tạo tư tưởng” bằng nhiều tháng đi lao động ở Tuyên Quang, phải đi chăn bò ở nông trường Ba Vì. Đã có những lúc triết gia nổi tiếng Paris này phải đi vác từng bao bột mì để nhận lại vài ổ bánh mà sống53.
Những người ưu tú nhất bị đặt ra ngoài cuộc như Lê Văn Thiêm, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo. Con cái các nhà tư sản, địa chủ, con cái của những người bị chế độ coi là có vấn đề đều không được vào đại học. Nhưng nền giáo dục sau Cách mạng tháng Tám 1945 không chỉ chịu những tổn thất ấy. Sau vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, nhiều thế hệ sinh viên, học sinh Việt Nam đã được dạy dỗ trong một nền giáo dục gần như chỉ biết vâng lời. Nền văn học, nghệ thuật, báo chí và tinh thần tự do vừa mới định hình hồi cuối thập niên 1930, đầu thập niên 1940, đang khao khát trưởng thành thì nhận được “vết chém ngang lưng”54. Chính trị và các tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa bắt đầu ngự trị các chương trình giảng dạy văn chương, nghệ thuật. Những giá trị căn bản của người Việt Nam không chỉ bị phá vỡ ở “thượng tầng”, từ trong từng ngõ ngách làng xã, trong mỗi gia đình cũng đã nhận được biết bao bi kịch.
Miền Nam “giải phóng”
Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được nói là để giải phóng miền Nam đã thực sự mở mắt cho người dân miền Bắc. Tuy chính quyền miền Nam tìm mọi cách để hạn chế báo chí đối lập, nhưng Sài Gòn trước ngày 30-4 vẫn là một nơi có luật pháp để phục vụ quyền tự do ngôn luận.
Những tờ tạp chí in bốn màu, những bộ tiểu thuyết diễm tình, đồng hồ Seiko, máy nghe nhạc cassette, akai, tivi, tủ lạnh và những con búp bê biết khóc được các anh bộ đội đưa về đã đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc. Miền Nam bắt đầu có vô tuyến truyền hình từ năm 1965, trước miền Bắc hơn một thập niên. Nhưng điều quan trọng là các chương trình phát thanh, truyền hình ở miền Nam được phát đi một cách đa dạng và phong phú.
Công cuộc giải phóng nào cũng phải mất thời gian. Những chuyển động của điện ảnh, sân khấu, văn chương, báo chí không xuất hiện ngay sau 1975, nhưng nó âm ỉ từ bên trong, thay đổi dần dần và căn bản.
Có lẽ vì sự thay đổi chế độ ở Sài Gòn trong ngày 30-4-1975 được tiến hành bằng những chiếc tăng T54 thay vì bằng một hiệp định đình chiến như Hà Nội vào năm 1954; cũng có lẽ bởi người Sài Gòn đã học được bài học “Nhân Văn Giai Phẩm”; nên, kể từ ngày 30-4-1975, không hề có bất cứ một nhà xuất bản, một tờ báo tư nhân nào còn hoạt động, cho dù ở Sài Gòn trước đó có hơn hai mươi tờ nhật báo, hàng trăm tạp chí và nhà xuất bản. Một số lớn văn nghệ sỹ, đội ngũ báo chí Sài Gòn kịp di tản trước khi quân đội miền Bắc kéo vào. Số ở lại cho dù không phải đi cải tạo thì sự nghiệp của nhiều người cũng coi như chấm dứt.
Ngày 23-4-1975, Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư điện vào Trung ương Cục: “Đề nghị các anh cho chuẩn bị khẩn trương để kịp ra báo Cờ Giải Phóng ngay từ đầu khi mới giải phóng Sài Gòn”55. Tuy tờ Cờ Giải Phóng sau đó không ra kịp ngày “Sài Gòn giải phóng”. Nhưng, không chỉ có hai phát thanh viên mặc quân phục xuất hiện trên đài truyền hình vào tối 1-5-1975, một thế hệ những người viết mặc áo lính, theo các cánh quân từ R kéo về hoặc từ miền Bắc lần lượt được điều vào, đã “cách mạng triệt để” nền báo chí Sài Gòn, nền báo chí đã có tờ báo đầu tiên từ 110 năm trước đó.
Ngày 1-5-1975, ông Võ Văn Kiệt triệu tập một nhóm cán bộ tuyên huấn, báo chí gồm Tô Hòa, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thành Lê,… đến trường Petrus Ký, nơi Đảng ủy Đặc biệt của Ủy ban Quân quản Sài Gòn đang tạm đóng. Cuộc họp đi đến thống nhất, Đảng bộ Thành phố sẽ ra một tờ báo lấy tên là Sài Gòn Giải Phóng. Tuyên huấn Trung ương Cục tạm thời làm “chủ quản”. Lê Điền, một cán bộ của báo Nhân Dân, làm tổng biên tập. Nguyễn Thành Lê phụ trách nội dung.
Ngày 5-5-1975, Sài Gòn Giải Phóng ra số đầu tiên, chủ yếu đăng lại những mệnh lệnh của Ủy ban Quân quản. Sau mười hai số báo đầu tiên, Sài Gòn Giải Phóng được giao về cho Thành ủy. Tổng biên tập thứ hai của báo là ông Võ Nhân Lý, thường gọi là Bảy Lý, một người tâm phúc của ông Nguyễn Văn Linh, có nhiều năm làm phó cho ông Linh ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục. Ngoài truyền hình và phát thanh, báo chí cách mạng xuất bản tại Sài Gòn ngay sau 30-4-1975 còn có: Giải Phóng, một tờ báo đã từng được in ấn ở Chiến khu D, Phụ Nữ Thành Phố, 17-5-1975, Công Nhân Giải Phóng, 28- 7-1975, Tuổi Trẻ, 2-9-1975. Đội ngũ văn nghệ sỹ, báo chí từ Việt Bắc trở về Hà Nội năm 1954 và tạo ra một phong trào “Nhân Văn” gồm những người trở về từ một cuộc chiến tranh giành độc lập, tiếp tục khát vọng dân chủ tự do. Còn đội ngũ từ R hoặc từ miền Bắc trở về Nam năm 1975 đã thấm nhuần chủ nghĩa Marx-Lenin. Đúng như Tố Hữu viết trong công điện ngày 23-4-1975, họ là một thế hệ “cán bộ viết báo”56.
Về Sài Gòn, nhiều người trong số những “cán bộ viết báo” ấy tiếp tục làm báo với tư thế của những người chiến thắng. Những người chiến thắng chưa muốn chấm dứt cuộc chiến “ai thắng ai” với “ngụy quân, ngụy quyền”, với “tư sản mại bản”, và các “tàn dư của chế độ cũ”. Nhiều báo vẫn lấy những bài vở được sản xuất từ bộ máy tuyên huấn R57.
Sau khi các tờ báo quốc doanh đã hoạt động ổn định, Bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Võ Văn Kiệt triệu tập một cuộc họp, nêu yêu cầu: “Thành phố cần phải cho ra một số tờ báo tư nhân”. Theo ông Tô Hòa, người phụ trách nội dung từ số 13 của tờ Sài Gòn Giải Phóng: “Kể từ khi từ miền Bắc trở về, tôi chưa từng nghĩ là mình lại có báo tư nhân, nhưng tư tưởng của Sáu Dân là như vậy. Trung ương Cục và Thành ủy bàn tới, bàn lui cuối cùng quyết định sẽ cho ra ba tờ báo tư nhân: một tờ sẽ giao cho nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, một tờ giao cho ông Nam Đình, tờ thứ ba lúc bấy giờ chưa biết giao cho ai cả”58.
Cho tới lúc đó, ông Võ Văn Kiệt và những đồng chí khác của ông như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng chưa thực sự làm việc trong môi trường xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp của họ là vận hành cuộc chiến tranh ở miền Nam cả bằng đấu tranh võ trang và đấu tranh chính trị, bao gồm cả những công cụ như biểu tình, báo chí. Họ hiểu khá rõ sự khác biệt giữa các nhóm dân chúng miền Nam đối với chế độ mới và nhận thức được vai trò của báo chí trong việc thuyết phục các tầng lớp dân chúng ủng hộ công cuộc của những người cách mạng. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Ý tưởng cho ra báo tư nhân được anh Lê Đức Thọ và anh Lê Duẩn ủng hộ”.
Thế nhưng phía “tư nhân” lại không nồng nhiệt đón nhận sáng kiến này. Nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba vốn là những nghị sỹ đối lập với chính quyền Sài Gòn thì nhận lời. Trong khi đó Nam Đình, một “Việt Cộng nằm vùng”, thì từ chối. Theo ông Tô Hòa: “Nam Đình giải thích: tôi, chính trị không biết, làm báo kiểu này trên đe dưới búa thôi!”. Ông Tô Hòa nhận xét: “Nam Đình chỉ cần nói thế đủ thấy ông ta hiểu chế độ mới và rất cáo già về chính trị”.
Ba tháng sau, chính quyền thuyết phục được hai nhóm nhân sỹ nhận giấy phép ra báo tư nhân: Nhóm linh mục khuynh tả Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, làm tờ Đối Diện trước 1975, nhận Giấy phép số 0159, ngày 4-7-1975, ra tờ bán nguyệt san Đứng Dậy. Cùng ngày 4-7-1975, nhóm linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh nhận Giấy phép số 02, ra tờ Công Giáo & Dân Tộc. Phải tới ngày 22-7-1975, nhóm dân biểu đối lập Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, mới nhận Giấy phép số 03 ra tờ Tin Sáng.
Ông Hồ Ngọc Nhuận nhớ lại: “Tôi và Ngô Công Đức gặp nhau sớm. Chúng tôi cũng rất bối rối vì tình hình mới chưa hiểu sẽ như thế nào. Nhưng, đích thân ông Võ Văn Kiệt gặp nói: Anh Sáu Thọ cũng rất sốt ruột”. Theo ông Nhuận: “Khi tình hình chưa ổn định, chính quyền muốn có một tờ báo được lòng quần chúng mà thân mấy ổng. Tôi hỏi: làm thì làm như thế nào? Trần Bạch Đằng bảo: làm y như cũ”.
Đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Các anh làm báo cộng sản như… cộng sản”. Ngay từ những ngày đầu, Tin Sáng đã hăng hái tham gia các “chiến dịch” như tập trung cải tạo, đổi tiền và đánh tư sản mại bản. Đặc biệt, tháng 9- 1975, Hồ Ngọc Nhuận được đưa ra Hà Nội trong “Đoàn đại biểu miền Nam dự Hội nghị Hiệp thương Thống Nhất”. Khi trở về, trong bài Đi Thăm Một Làng Quê Miền Bắc, ông Nhuận viết: “Chúng tôi tin rằng, độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc phải được gắn liền với chủ nghĩa xã hội”60.
Chủ nghĩa xã hội là một thực thể chỉ có thể hiểu được một cách đầy đủ bằng sự trải nghiệm. Nếu nhà văn Pháp có khuynh hướng cộng sản, A. Gide (1869-1951), năm 1936 không tới Liên Xô thì có thể ông đã không viết sách chỉ trích Liên Xô. Nếu Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Ngọc Lan không làm báo sau 1975 thì không thể hiểu đầy đủ “tự do báo chí” dưới thời Cộng sản.
Trước năm 1975, trong mười năm, có 360 lần tờ Tin Sáng bị tịch thu báo, sáu lần bị đóng cửa. Nhưng, cho dù hà khắc, Sài Gòn vẫn là một chế độ có luật pháp. Những bài báo có khuynh hướng ủng hộ Mặt trận Giải phóng và chống Mỹ có thể bị kiểm duyệt. Nhưng một nhà báo thường viết cho không chỉ một tờ và các chủ báo, đặc biệt là các chủ báo chính trị như Hồ Ngọc Nhuận, thường có đôi ba tờ báo, nên chính quyền thu tờ này thì viết lên tờ kia phản đối.
Năm 1969, khi Hồ Chí Minh từ trần, ngay giữa Sài Gòn, tờ Đất Nước dám ra một số riêng cho “người nằm xuống”, với tất cả các bài viết trong đó đều nói về Hồ Chí Minh, “kẻ thù” của chính quyền miền Nam. Sau Hiệp định Paris, linh mục Trương Bá Cần còn có thể cho đăng trên tờ Đối Diện bài viết “Hai mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”. Còn Giáo sư Nguyễn Văn Trung thì viết trên tờ Đất Nước: “Cộng sản, người anh em của tôi”. Tháng 3-1975, trên tờ Đối Diện, hai vị Linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan dám vẽ bản đồ Việt Nam, đánh dấu những nơi đã nằm trong tay quân miền Bắc rồi chú thích: “Này anh em ơi/ Quốc gia đến ngày giải phóng”61.
“Giải phóng” xong, đội ngũ làm báo từ trước 30-4-1975 bắt đầu tan tác: một số kịp di tản, một số bị đưa đi cải tạo hoặc bị bắt do tham gia các “tổ chức phản động”, số có may mắn được làm báo như Đối Diện, Tin Sáng chỉ chiếm một phần rất nhỏ nhoi. Những người làm báo chí, phát thanh, truyền hình quân đội như Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Y ên phải đi cải tạo từ mười đến mười ba năm. Nhà báo Trần Tuấn Nhậm, một trong những người chủ trương làm tờ Trình Bầy, năm 1971, khi ra tranh cử nghị sỹ đã dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” với tranh minh hoạ hình Nixon vẽ râu Hitler. Năm 1979, ông Nhậm vượt biên nhưng bị bắt, và sau đó chết trong trại giam Bến Sắn.
Nhà báo Nguyễn Khắc Nhân, thư ký tờ Tiền Tuyến, chỉ phải đi cải tạo một năm nhờ có anh rể là Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Trần Trọng Tân. Nhưng khi vừa từ trại về, ông Nguyễn Khắc Nhân đã được anh rể lấy tình thân nói thẳng: “Cậu làm tờ báo phản động nhất miền Nam, cậu không thể nào làm báo dưới chế độ này được”.
Chính quyền mới không có chế độ kiểm duyệt báo chí. Thậm chí khi Tin Sáng làm công văn xin Ban Tuyên huấn đưa người tới viết xã luận và duyệt bài, chính quyền cũng không thèm cử người. Trong khi đó, Thành ủy lại còn “chăm sóc về vật chất rộng rãi hơn” so với nhiều ngành nghề hoạt động khác: “Riêng về xăng, ta đã cung cấp cho họ mỗi quý hơn 7.000 lít năm 1979, và 5.650 lít năm 1980”62.
Nhưng, trong nội bộ tờ báo, an ninh đã cài vào không ít đặc tình63. Trong một báo cáo gửi “anh Sáu Dân, anh Chín Đào”, Văn phòng Thành ủy đã yêu cầu: “Cơ quan an ninh cần tăng cường các biện pháp nghiệp vụ chặt chẽ hơn và tinh tế hơn nữa, để nắm chắc mọi hoạt động của các đối tượng trọng điểm trong Tin Sáng”64. Nhiều bài viết của tờ báo này bị phát hiện ngay khi chưa kịp lên khuôn.
Tư Trời Biển Ngô Công Đức trước 1975 dám viết bài đả kích tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Cũng Tư Trời Biển ấy, năm 1979, chỉ định viết bài cho báo Tết nhân danh bà hàng xóm ước mong: “Ngày mồng Một ra đường được gặp một nụ cười xuân, Nụ cười xuân nở trên môi anh cảnh sát”65, đã lập tức bị “đặc tình” tố cáo. Ngày 11-1-1979, Phòng An ninh Bảo vệ Cơ quan Văn hóa PA 25 đã gửi công văn khẩn lên Thành ủy, “yêu cầu xử lý” 66 Tư Trời Biển vì cho rằng bài báo ám chỉ “xã hội ngày nay mất cả nụ cười”.
Năm 1978 tờ Đứng Dậy phải đóng cửa67. Cuộc chơi báo tư nhân còn kéo dài tới năm 1981. Nhưng, Hồ Ngọc Nhuận thừa nhận không làm báo ở đâu căng thẳng như làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Khác với bán nguyệt san Đứng Dậy, Tin Sáng là tờ nhật báo có lượng độc giả lớn nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ. Bạn đọc của Tin Sáng là một tầng lớp công chúng mà chính quyền vừa e ngại vừa muốn chinh phục. Tháng 4- 1981, tại Hội nghị Công tác Tư tưởng toàn quốc, Lê Đức Thọ nêu một số dấu hiệu đáng lo trên tờ Tin Sáng.
Ngày 23-4-1981, Văn phòng Thành ủy dự thảo một bản báo cáo để ông Võ Văn Kiệt gửi Trung ương 68. Cho đến lúc này, ông Võ Văn Kiệt và Thành ủy vẫn muốn “tiếp tục duy trì tờ Tin Sáng với bề ngoài như hiện nay để phục vụ một cách có lợi nhất cho yêu cầu chính trị của ta nhằm tuyên truyền tác động một cách có hiệu quả vào một số đối tượng quần chúng mà một tờ báo Đảng công khai thâm nhập vào khó hơn, ít tác dụng hơn”69.
Tuy nhiên, ngay trong báo cáo ngày 23-4-1981, Thành ủy đã lo rằng: “Hoạt động của họ bộc lộ ý thức gây ảnh hưởng, tạo thế chính trị trong trí thức, nhân sĩ, Việt kiều và cả trong một số cán bộ trí thức của ta”. Cũng trong năm 1981, lực lượng Công đoàn Đoàn kết liên tục tổ chức biểu tình ở Ba Lan, cho dù quân đội Ba Lan đã bỏ tù hàng nghìn người trong đó có Lech Walesa và thiết quân luật trên toàn quốc. Sự kiện Công đoàn Đoàn kết đã đặt Hà Nội trong một sự cảnh giác cao độ hơn. Thường vụ Thành ủy sợ rằng: “Nếu có tình hình đột biến do địch gây ra, thì Tin Sáng có thể gây tác hại, vì những người cầm đầu này chưa phải là người đã nhập cuộc với chế độ ta, tuy họ có thể viết nhiều bài ca ngợi chế độ, ca ngợi chủ nghĩa xã hội”70.
Tháng 6-1981, ông Võ Văn Kiệt đi Hà Nội. Sau khi gặp trực tiếp Tố Hữu và ông Trường Chinh, ông Kiệt nhận rõ “thái độ với Tin Sáng” của Trung ương là rõ ràng và ý kiến “chấm dứt hoạt động Tin Sáng” của ông Trường Chinh phải được hiểu là một quyết định thay vì một lời gợi ý. Sáng sớm ngày 29-6-1981, ông Võ Văn Kiệt cho mời ban lãnh đạo Tin Sáng lên gặp. Ngô Công Đức và Dương Văn Ba đi. Ông Kiệt nói ngắn gọn: “Các anh ở Hà Nội có ý là Tin Sáng nên ngưng. Nhưng, ngưng ngay hay kéo dài thêm một tháng để chuẩn bị dư luận thì các anh Tin Sáng cho ý kiến”. Cả Dương Văn Ba và Ngô Công Đức lập tức đồng ý ngưng ngay. Hồ Ngọc Nhuận khi nghe báo lại cũng tán thành. Sau gần sáu năm làm báo cộng sản cả ba đã vô cùng mệt mỏi. Trong một hội nghị cán bộ, diễn ra ngay trong sáng 29-6-1981, sau khi thừa nhận những đóng góp của Tin Sáng, ông Võ Văn Kiệt giải thích: “Chúng ta đã xác định kinh tế còn năm thành phần, nhưng văn hóa chỉ có một là văn hóa dân tộc và xã hội chủ nghĩa. Đã đến lúc tất cả những tiếng nói đều phải là tiếng nói yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội để chiến đấu và chiến thắng, không có tiếng nói khác được”71.
Trong “Thư gửi bạn đọc”, đăng trong số báo “hoàn thành nhiệm vụ” ra ngày 30-6-1981, Ngô Công Đức viết: “Chia tay, bạn đọc cũng như anh chị em Tin Sáng đều có những ngậm ngùi của tình cảm. Nhưng chia tay ở đây để sẽ còn gặp lại ở một vị trí mới, trong cái chiến tuyến chung của tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta”72. Trong các “công điện mật” trao đổi giữa Thường vụ Thành ủy và Ban Bí thư sau ngày 29-6-1981, chính quyền tỏ ra hài lòng với phản ứng của những người làm Tin Sáng73.
Tờ báo bị đóng cửa nhưng đội ngũ nhà báo giàu kinh nghiệm ở đó đã được ông Võ Văn Kiệt thu xếp đưa về các tờ báo của Thành phố như Tuổi Trẻ, Phụ Nữ và cả tờ Sài Gòn Giải Phóng. Họ đã trở thành nòng cốt trong việc tạo ra một môi trường báo chí thực sự trong các tờ báo của Sài Gòn, đặc biệt là tờ Tuổi Trẻ 74. Trước đó, trong văn học, nghệ thuật cũng đã âm thầm chuyển động. Trong những thời khắc bị đưa tới tận cùng, lịch sử, tự thân nó, lại thai nghén những nhu cầu thay đổi. Cuối thập niên 1970 trí thức, văn nghệ sỹ miền Bắc bắt đầu suy ngẫm về những giá trị mà họ có thể tiếp cận ở miền Nam, qua sách báo, tivi, tủ lạnh. Trong khi tại Sài Gòn, Vũ Hạnh, Trần Trọng Đăng Đàn, Thạch Phương, Trần Văn Giàu…  75  viết sách, viết báo, lăng mạ văn nghệ sỹ miền Nam thì ở miền Bắc, thanh niên bắt đầu tìm đọc các tác phẩm của họ. Từ trước khi chiến tranh kết thúc, nhiều nhà văn miền Bắc đã thay đổi cách nhìn hiện thực và có không ít người cảm thấy xấu hổ với những trang viết của mình.
Năm 1969, khi viết Dấu Chân Người Lính, thông qua bi kịch của một nhân vật là đại đội trưởng Việt Cộng yêu một phụ nữ từng có chồng là “lính ngụy”, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra, có những vùng “đất giải phóng” nhưng con người vẫn không được giải phóng. Năm 1972, khi viết Lửa Từ Những Ngôi Nhà, Nguyễn Minh Châu cảnh báo: một người hùng trong chiến tranh, khi trở về có thể thành người đốn mạt!
Cũng trong năm 1972, Hoàng Cát viết Cây Táo Ông Lành; Nguyễn Đỗ Phú viết Một Đêm Đợi Tàu, đưa ra một cách tiếp cận khác về chiến tranh. Năm 1974, Ngô Văn Phú có Sẹo Đất, Vũ Tú Nam có Cảm Hứng, Nguyễn Khải có Đối Mặt và đặc biệt Phạm Tiến Duật có Vòng Trắng, với những câu thơ mô tả chiến tranh thật hơn: "Khói bom lên trời thành những vòng đen/ Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng/ Tôi với bạn tôi đi trong im lặng/ Khăn tang trên đầu như một số không".
Ở thời điểm này, những tác phẩm đó đã bị coi là có “không khí nhân văn mới”. Cách mô tả nông thôn miền Bắc qua câu chuyện của hai người lính trong Một Đêm Đợi Tàu đã bị Trường Chinh phản ứng. Hoàng Cát khốn khổ vì Cây Táo Ông Lành. Lành là bí danh của Tố Hữu còn cây táo, thì ai đã từng học phổ thông ở miền Bắc cũng đều biết cây táo đầu nhà Tố Hữu lúc nào cũng “rung rinh quả ngọt”. Cám cảnh trước sự bầm dập của Hoàng Cát - một thương binh cụt chân, các đồng nghiệp của ông đã nhắn Tố Hữu bằng thơ: “Hoàng Cát không làm gì hung/ Anh Lành chớ gây điều dữ”.
Phạm Tiến Duật khi ấy, đang được “cơ cấu” làm lãnh đạo và đang nổi như cồn với những bài thơ viết về Thanh niên xung phong, về “tiểu đội xe không kính”, đã bị theo dõi và có nguy cơ bị bắt. May mắn cho họ là Chiến thắng 30-4-1975 đã mang tới niềm vui như thác lũ cho các nhà lãnh đạo để “lỗi lầm” của các văn nghệ sỹ tạm được quên đi. Nhưng đấy là một sự thức tỉnh chứ không chỉ là những phút giây xúc động. Tiểu thuyết Những Người Đi Từ Trong Rừng Ra và tập tiểu luận Trang Giấy Trước Đèn của Nguyễn Minh Châu xuất bản sau năm 1975 bắt đầu cho thấy một cái nhìn mới. Ông cho rằng: “Lâu nay ta viết về chiến tranh không thật. Ta không viết cái thực sự xảy ra mà viết cái ta muốn nó xảy ra”.
Năm 1979, khi lý luận hóa ý kiến của Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Về Một Đặc Điểm Văn Hóa Nước Ta, nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã gọi điều mà Nguyễn Minh Châu phê phán là “chủ nghĩa hiện thực phải đạo”. Bài viết của Hoàng Ngọc Hiến bị đánh tơi bời, vẫn bởi những “công cụ” mà Tố Hữu đã sử dụng thời “Nhân Văn”. Hoàng Ngọc Hiến bị coi là “đã xúc phạm đến máu, đến một nền văn học xây bằng máu đấu tranh cho độc lập tự do”. Cũng trong năm 1979, đời sống văn nghệ xôn xao trước bản “Đề dẫn” của Nguyên Ngọc. Khi Nguyên Ngọc, một nhà văn quân đội đeo quân hàm đại tá, được đưa về trường Nguyễn Ái Quốc, ông lọt vào “mắt xanh” của Tố Hữu. Ở thời điểm này, Tố Hữu có ý định thay thế số lãnh đạo nhà văn từng lập công thời “Thái Hà ấp” như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi bằng một thế hệ nhà văn “trưởng thành qua chiến tranh”. Nguyên Ngọc, người có mười ba năm ở chiến trường miền Nam, được chọn.
Tháng 11-1978, ông được đưa về làm phó tổng thư ký kiêm bí thư Đảng-Đoàn Hội Nhà văn. Nguyên Ngọc gần như chắc chắn có một “ghế” ở Trung ương nếu ông thuận theo cơ cấu của Tố Hữu. Nhưng, chưa đầy hai tháng sau khi Nguyên Ngọc nhận chức, kế hoạch này đã phá sản vì bài phát biểu về sau gọi là bản “Đề dẫn” do Nguyên Ngọc đọc tại hội nghị đảng viên của Hội Nhà văn bàn về sáng tác, tổ chức tại Hà Nội ngày 10-3-1979.
Trong bài “Đề dẫn” này, sau khi đánh giá lại chặng đường gần hai mươi năm của văn học Việt Nam là khá mờ nhạt, Nguyên Ngọc cho rằng sở dĩ có sự “chậm trễ, thô thiển” kéo dài là do: “Phê bình, lý luận đã dung tục hóa mối quan hệ giữa hiện thực và văn học, tuyệt đối hóa hiện thực, và kết quả là buộc văn học phải khiếp nhược trước hiện thực, người nghệ sĩ phải khiếp nhược trước đời sống. Như vậy thực chất là nó phủ nhận khả năng cải tạo trở lại hiện thực của con người, của văn học. Nó hạ thấp văn học xuống thành một sự sao chép hiện thực, coi giá trị văn học cao nhất là làm sao cố sao chép cho đúng nguyên hiện thực”. Cũng phê phán “chủ nghĩa hiện thực phải đạo”, nhưng Nguyên Ngọc đã vượt qua Nguyễn Minh Châu và Hoàng Ngọc Hiến khi chỉ ra căn nguyên của nền văn học xoay xở dưới trần “thượng tầng kiến trúc” của chủ nghĩa cộng sản.
Không phải tự nhiên mà Nguyên Ngọc kêu gọi trong văn học phải nhận thấy “số phận con người”. Ông thừa nhận là đã nghĩ tới bản “Đề dẫn” này trong chuyến đi của đoàn nhà văn Việt Nam tới Campuchia ngay sau khi quân đội Việt Nam tràn vào thủ đô Phnom Penh, chứng kiến một đất nước phố không có số nhà, người không có số tù. Nguyên Ngọc nói: “Hitler nói là tàn bạo nhưng vẫn cho mỗi người tù một con số, còn Pol Pot thì không. Ở Campuchia, nhân dân đã bị đảng cầm quyền biến thành vô danh tính. Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết”76.
Trong ba ngày đầu hội nghị, bản “Đề dẫn” đã tạo ra một không khí hân hoan. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Chế Lan Viên hồ hởi còn Xuân Diệu thì nhảy cẫng lên”. Chế Lan Viên than: “Từ lâu, ta đã có Ba Giai, Tú Xuất, Học Lạc nhưng ta đã giết nó rồi”77. Một người rất cứng rắn như nhà phê bình Vũ Đức Phúc cũng phải cho rằng: “Văn học không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống mà còn đi sâu vào khám phá quy luật bí ẩn của cuộc sống. Nhưng ở nước ta có cái gì thoát khỏi đường lối của Đảng ta không? Không. Cả khi con người đi nghỉ, khi yêu nhau… cũng thấy rõ các vấn đề đường lối”78.
Nhà thơ Bảo Định Giang ví dụ: “Tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 của Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên chỉ vì cái bìa vẽ một nhà ga không có người mà bị đình bản, Ban Bí thư Trung ương can thiệp. Ở một tỉnh Nam Bộ, dựng lại hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu chiến đấu đến cùng, nhưng không thắng, không cho diễn. Tỉnh ủy đòi tả Nguyễn Đình Chiểu phải thắng, lúc nào cũng thắng. Vậy Nam Kỳ Khởi Nghĩa thì sao? Xô Viết Nghệ Tĩnh thì sao? Về quân đội, không được viết ta thua. Nhưng ai đã từng tham gia chiến đấu đều biết ta cũng thua nhiều lắm”79.
Nguyễn Đình Thi thừa nhận người trí thức có vấn đề khi ở trong chế độ cộng sản. Ông nói: “Bài học cho người trí thức cộng sản thật khó khăn. Ở Trung Quốc, sau 1949, những trí thức lớn không viết được gì: Mao Thuẫn, Ba Kim, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược. Chỉ có một người viết được là Lão Xá. Ông là nhà văn có tài nhất Trung Quốc... (Nhưng), Lão Xá tự tử ở cầu Bắc Hải, nơi ông bảo ông vào nghề văn. Ở chủ nghĩa xã hội có những cái ghê gớm. Chúng ta nhìn lại, thấy mình còn may lắm”80.
Ngày thứ ba, Tố Hữu đến. Ông cho rằng, ai không “sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa”, không “hiểu hiện thực theo quan điểm Marxist”81   là sai. Năm 1979, nền kinh tế Việt Nam đang ở mức khốn cùng nhưng Tố Hữu yêu cầu các nhà văn phải “nhận ra nhịp đi của lịch sử” để thấy: “Dân tộc ta đang ở khúc chóp đỉnh, chỏm nón của thời đại”82. Tố Hữu đã nói về “những bế tắc của xã hội Pháp” bằng “một sự buồn và khinh bỉ”83.
Ngay sau khi leo lên bục phát biểu, Tố Hữu đã nói: “Cái bục này đối với tôi cao quá, đối với anh Nguyên Ngọc thì còn cao hơn. Tôi vừa đi Cao Bằng, nơi tôi gặp các nông dân. Đừng đứng ở đây mà phê phán hiện thực. Cuộc sống còn cao cả hơn hư cấu”. Theo Nguyên Ngọc, Tố Hữu giận nhất là câu “chủ nghĩa tập thể bầy đàn”. Ông dùng Khổng Tử để nhắc nhở Nguyên Ngọc: “Những người ảo tưởng tưởng mình là nhà chính trị, đồng thời là nhà thơ, nhà tư tưởng lớn là người điên. Ta không phải là người điên, phải trang bị cho mình trí tuệ của thời đại, tức trí tuệ của Đảng, trí tuệ của nhân dân”84.
Tố Hữu phát biểu xong, Nguyên Ngọc vẫn kết luận: “Hội nghị hoàn toàn nhất trí với đề dẫn”. Tố Hữu bước ra mặt hầm hầm. Một vài nhà văn lớn lo lắng chạy theo. Nguyên Ngọc kể: “Tối hôm đó nhiều người cảm thấy phẫn uất, anh em tụ lại ở trụ sở Văn Nghệ Quân Đội, số 4 Lý Nam Đế. Chế Lan Viên đi bộ từ 51 Trần Hưng Đạo tới nói: ‘Để mình dẫn Nguyên Ngọc tới nhà anh Lành xin lỗi’. Tôi cám ơn và nói: ‘Nếu thấy cần đi tôi sẽ đi một mình”. Sau Hội nghị đó, trong Đảng Đoàn Hội Nhà văn duy nhất chỉ có Hoàng Trung Thông nói: “Ngọc không sai”. Nguyễn Khải bỏ vào Sài Gòn còn Tô Hoài, như thường lệ, lại “trốn vô bệnh viện”. Không có nỗ lực tự cởi trói nào của giới văn nghệ có thể tồn tại trong thời gian Tố Hữu nắm quyền85.
Đầu thập niên 1980, môi trường văn nghệ Việt Nam còn một thời kỳ bức bối, nhất là sau vụ bắt hai nhà thơ Hoàng Hưng và Hoàng Cầm. Nhà thơ Hoàng Hưng bị bắt chiều ngày 17-8-1982, khi ông đến số 5 Bát Đàn gặp Trần Thiếu Bảo, giám đốc Nhà Xuất bản Minh Đức, để lấy tập thơ Về Kinh Bắc. Tập thơ được coi là vô giá không chỉ vì thơ mà còn vì nó được chép tay, được minh họa bằng một bức “lá diêu bông” của Văn Cao và bốn phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ đội nón quai thao, mặc áo tứ thân. Ba ngày sau, 20-8-1982, cơ quan an ninh văn hóa bắt Hoàng Cầm. Một bản chép tay khác trước đó đã được chuyển vào Sài Gòn cho giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Việt kiều Canada. Nhưng, nhờ cấp báo của Dương Tường, Giáo sư Hùng đã kịp gửi lại tập thơ Về Kinh Bắc để có thể vượt qua vòng khám hành lý ở sân bay. Tại nhà giam, Hoàng Cầm “nhận tội” rằng, những tuyệt tác thơ tình đó của ông được làm để “chống Đảng và đả kích chế độ”.
Theo Hoàng Hưng: Trong tập Về Kinh Bắc có ba bài thơ, Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi - thường được gọi là bộ ba cây - lá - quả, được rất nhiều thế hệ người đọc chuyền tay, và cũng không ít người diễn dịch bài thơ như những lời oán trách của “em” (văn nghệ sĩ) với “chị” (Đảng), đại khái “em” yêu “chị”, nhưng “chị” đã lừa “em”, cho “em” ăn toàn “quả rụng”, rồi bỏ mặc “em” bơ vơ để đi lấy chồng. Năm 1974, công an Hà Nội đã gọi Hoàng Cầm lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ “có nội dung xấu” ấy. Hoàng Cầm phai ngưng. Nhưng sau 1975, Về Kinh Bắc có thêm độc giả ở miền Nam.
Năm 1979, một số Việt kiều có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên có “bộ ba cây - lá - quả”. Một nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin Hoàng Cầm gửi cho một số bài thơ. Về sau mới biết bà là đệ tử của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng khi mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị86.
Cởi ra…
Đầu thập niên 1980, Đạo diễn Trần Văn Thủy bấm máy bộ phim tài liệu Hà Nội Trong Mắt Ai. Bộ phim sử dụng rất nhiều tích cũ dễ khiến cho người nay giật mình. Nhất là đoạn nói về việc “phê đơn” của bà Huyện Thanh Quan. Bà Huyện có chồng đang làm tri huyện ở miền Trung. Một hôm, chồng đi vắng, bà nhận đơn của “Nguyễn Thị Đào” xin được cải giá vì chồng đi lính thú. Thương cảm cho người phụ nữ xa chồng, Bà Huyện đã mạnh dạn phê vào đơn: “Phó cho con Nguyễn Thị Đào/ Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai”. Cô Đào vừa đi bước nữa thì chồng trở về, phát đơn kiện. Hậu quả là ông Huyện bị mất chức. Trong phim, Trần Văn Thủy bình: “Mới biết  cái máu me văn nghệ  dính vào việc quan trường gây ra nhiều sự rắc rối là thế!”.
Phim cũng nói đến Nguyễn Trãi, người cùng với em họ là Trần Nguyên Hãn “nếm mật nằm gai” phò Lê Lợi suốt mười năm kháng chiến chống quân Minh. Khi Trần Nguyên Hãn bị Lê Lợi bức tử, Nguyễn Trãi cũng bị “tạm giam”. Lê Lợi có lần vào ngục thăm ông rồi hỏi nên viết quốc nhạc như thế nào. Phim kể là Nguyễn Trãi đã bình thản mà rằng: “Thưa bệ hạ, thương yêu dân chúng thì hãy làm những việc nhân đức. Đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy. Đừng vì giận ai mà phản bội. Đó là cái gốc trường tồn nhất của quốc nhạc!”. Ngay tại xưởng phim nơi bộ phim ra đời, lãnh đạo xưởng đã thấy “có gì đó không ổn”. Bộ phim bị coi là “ám chỉ”.
Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy: “Có lần bộ phim đã được chiếu đi, chiếu lại tới bốn lượt trong một buổi sáng tại Quân ủy Trung ương. Ủy ban Khoa học Xã hội đã phải tổ chức một cuộc toạ đàm, có các đại biểu của Viện Sử học, Viện Triết học, Viện Hán Nôm cùng tham gia. Các đại biểu không tìm ra bất kỳ một sai sót nào của phim. Nhưng, Hà Nội Trong Mắt Ai vẫn bị cấm chiếu".
Chiều ngày 18-10-1983, đích thân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã xem Hà Nội Trong Mắt Ai. Rồi ngay sau đó, ông Phạm Văn Đồng yêu cầu phải “tổ chức chiếu công khai bộ phim này cho nhân dân xem”. Nhưng, cho dù có lệnh của chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Hà Nội Trong Mắt Ai cũng chỉ được chiếu trong một thời gian ngắn.
Bộ phim sau đó đã được đưa tới Văn phòng Trung ương Đảng chiếu cho ông Trường Chinh xem. Theo Đạo diễn Trần Văn Thủy thì trong buổi chiếu, có ông Lê Xuân Đồng, phó ban Tuyên huấn, người cực lực phản đối bộ phim này và ông Đặng Xuân Kỳ, viện trưởng Viện Triết học, con trai Trường Chinh, người rất nhiệt thành ủng hộ. Nhưng, liền sau đó, bộ phim đã “tuyệt đối không được chiếu nữa”. Từ đó cho đến sau Đại hội VI, theo ông Thủy: “Vợ mình bảo mình điên. Đồng nghiệp, cứ bảy rưỡi, tám giờ sáng là tề tựu ở cơ quan lo xem Trần Văn Thủy đã… bị bắt chưa!”.
Khi ấy, hai đầu đất nước thì chiến tranh, trong mỗi con người thì đói rét. Ở nông thôn, nông dân đã “đồng khởi” bằng những làn sóng khoán chui. Trong các nhà máy, xí nghiệp, công nhân bắt đầu “xé rào” làm “ba lợi ích”. Giữa năm 1983,
Trường Chinh bắt đầu đi cơ sở. Tuy vẫn được coi là một thành trì cứng rắn nhưng, từ cuối năm 1983, Trường Chinh bắt đầu thận trọng và chịu lắng nghe hơn. Tháng 9-1985, uy tín của Tố Hữu gần như không còn, sau thất bại của giá-lương- tiền. Tại Đại hội VI, tháng 12-1986, các đại biểu đã gạch tên ông trong phiếu bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cho dù đang có vụ án “hai nhà thơ họ Hoàng”, đang có vụ “Trần Văn Thủy”, trong khoảng thời gian này, giới văn nghệ sỹ bắt đầu nuôi khát vọng thoát ra khỏi cái ngột ngạt của quan liêu cả về kinh tế và chính trị.
Cũng như văn học, nền sân khấu xã hội chủ nghĩa cũng từng phải thể hiện cái hoành tráng của cuộc chiến tranh. Khi chưa giành được thắng lợi, mọi thứ hãy đang trong chờ đợi thì sự hoành tráng đó có thể che đậy được những khao khát cá nhân. Nhưng, khi kết thúc chiến tranh, người dân nhận ra những điều mà họ chấp nhận hy sinh tuổi xuân để chiến đấu cho, không tới.
Những người cầm quyền có lương tâm cũng cảm thấy đắng cay còn nhân dân thì thất vọng. Trước thực tế đó, nghệ thuật tuyên truyền càng được huy động, tưởng có thể che đậy những khát khao rất cụ thể của nhân dân, hóa ra lại càng giúp con người nhận ra sự chơi vơi, trống rỗng. Chiến thắng mà không thấy gì cho mình. Theo nhà phê bình sân khấu Ngô Thảo: “Giữa lúc ấy thì các đoàn kịch, cải lương từ miền Nam ra, dựng sân khấu diễn khắp hang cùng ngõ hẻm miền Bắc. Những Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu với từng số phận hiện ra rất rõ, tuy có vẻ như bế tắc nhưng thật con người. Dân chúng đổ xô đi xem. Các đoàn ca, kịch miền Bắc mất dần khán giả”.
Khác với văn học, sự thất bại trong sân khấu bao gồm cơm áo của cả một đội ngũ. Đời sống bức bách buộc các đoàn nghệ thuật sân khấu phải chòi đạp. Cái gì bắt đầu từ cuộc sống thì cũng mang theo chính hơi thở của nó. Có thể nói là trong các hoạt động nghệ thuật đòi dân chủ hóa xã hội, sân khấu đã đi đầu. Cuối năm 1985, trong Hội diễn Sân khấu tại Sài Gòn, các đoàn miền Bắc đưa vào năm vở kịch, được ví với “năm cỗ xe tăng” của tinh thần dân chủ87.
Theo Ngô Thảo: “Nhân Danh Công Lý đã bị duyệt đi duyệt lại nhiều lần. Mùa Hè Ở Biển thì tới phút cuối Đoàn Nam Định mới được Tỉnh ủy cho phép dự hội diễn. Quân đội lúc đầu cũng định không cho Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần diễn Bài Ca Giữ Nước. Báo Nhân Dân có bài gay gắt ‘đánh’ Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt và Hà Mi Của Tôi, còn Hình Và Bóng thì bị cấm”.
Cho dù không phải là tác giả của đường lối đổi mới Đại hội VI, nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với những tuyên bố nồng nhiệt ban đầu đã tạo ra nhiều cảm hứng dân chủ hóa cho một xã hội đã bị trói buộc khá lâu trong vòng bao cấp.
Tháng 5-1987, phim Hà Nội Trong Mắt Ai được chuyển tới Nguyễn Văn Linh. Theo ông Trần Trọng Tân, khi ấy ông vừa được điều từ Campuchia về làm trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trần Văn Thủy đưa phim Hà Nội Trong Mắt Ai cho ông. Ông Tân nói: “Coi xong thấy hay quá, tôi hỏi Thủy: sao phải đưa tôi coi? Thủy nói: Trên không cho chiếu. Tôi về hỏi người giúp việc thì được anh cho biết: Cụ Trường Chinh nói phim này ám chỉ nên không cho phát hành. Khi đó, tôi tính, mình mới về nếu mình cũng cấm thì không hay mà mình nói cho thì… tế nhị nên điện thoại cho anh Nguyễn Văn Linh: Anh rảnh mời anh coi cái phim của anh Thủy. Tôi coi thấy hay nhưng trước đây, anh Trường Chinh đã không cho chiếu. Anh Linh thu xếp coi, xong anh bảo: Hay! Cứ cho chiếu, còn giữa tôi và anh Trường Chinh thì để tôi lo”.
Theo ông Trần Văn Thủy thì sau đó Ban Văn hóa Văn nghệ của Trần Độ cũng đã làm khá bài bản. Theo chỉ thị của tổng bí thư, Ban triệu tập một buổi chiếu Hà Nội Trong Mắt Ai cho tất cả những người có trách nhiệm về quản lý văn hóa, văn nghệ, tổng thư ký các hội văn học, nghệ thuật xem và bỏ phiếu. Vì tổng bí thư đã khen, “100% người xem bỏ phiếu thuận”.
Ngày 25-9-1987, Văn phòng Trung ương Đảng có văn bản truyền đạt ý kiến của Ban Bí thư, chỉ thị Ban Tuyên huấn, Bộ Văn hóa phổ biến rộng rãi Hà Nội Trong Mắt Ai. Tháng 3-1988, tại Liên hoan Phim Việt Nam ở Đà Nẵng, Hà Nội Trong Mắt Ai đoạt một lúc bốn giải thưởng: Bông sen vàng cho phim tài liệu, Biên kịch xuất sắc nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Quay phim xuất sắc nhất.
Đổi mới cũng đã thực sự “cởi trói” cho lĩnh vực sân khấu. Những vở kịch gai góc không còn có số phận long đong như trước đây. Những Tào Mạt, Xuân Trình, Doãn Hoàng Giang, và đặc biệt, Lưu Quang Vũ, nhanh chóng trở thành những ngôi sao của sân khấu.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948. Năm 1965, Vũ khai gian tuổi để vào bộ đội. Tuy nhiên, môi trường quân đội mà anh trải qua đã không lý tưởng như những gì mà anh tưởng tượng khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Máu văn nghệ và kỷ luật quân đội là hai “phạm trù” mâu thuẫn. Là lính thợ sửa máy bay ở sân bay Bạch Mai, trong khi, người yêu của anh, diễn viên điện ảnh Tố Uyên nổi tiếng và xinh đẹp, thì đang ở Hà Nội: "Không có em anh cũng chẳng là anh/ Biết ơn bàn tay chỉ sắc màu hạnh phúc/ Em là rễ nối liền anh với đất/ Lại là chồi nở búp đón sương mai". Vũ thường xuyên trốn về gặp Tố Uyên và kết quả là năm 1970, Lưu Quang Vũ bị loại ngũ vì liên tục vi phạm kỷ luật.
Trở về thành phố, không sổ gạo, không hộ khẩu, Lưu Quang Vũ được Tạ Đình Đề 88  đưa về làm ở xưởng cao su Đường sắt. Rồi, có lúc làm sửa lỗi chính tả ở Nhà Xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, làm bích báo, vẽ pano, khẩu hiệu. Năm 1978 Vũ được cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận can thiệp cho về Tạp chí Sân Khấu. Ở đây, anh được Đạo diễn Phạm Thị Thành đặt hàng viết một vở kịch về Lý Tự Trọng. Và Vũ đã viết vở kịch đầu tay của anh: Mãi Mãi Tuổi 17.
“Cởi trói” đã biến Lưu Quang Vũ trở thành nhà viết kịch đắt hàng nhất. Những tràng vỗ tay của khán giả khi xem kịch Lưu Quang Vũ đã đưa các trưởng đoàn kịch từ khắp các tỉnh thành phải về “ăn dầm nằm dề” ở nhà anh để chờ kịch bản.
Năm mươi vở kịch đã được Lưu Quang Vũ viết, chủ yếu trong những năm giữa thập niên 1980. Nếu như sân khấu đã gây dấu ấn ở Hội diễn 1985 thì Hội Nhà văn lúc đó lại “gần như dửng dưng với đổi mới”. Tờ báo Văn Nghệ cho tới đầu năm 1987 ế tới mức không còn tiền mua giấy. Tổng Biên tập Đào Vũ gửi thư cho Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương tuyên bố đóng cửa tờ báo.
Trưởng ban Trần Độ không chấp nhận đóng cửa Văn Nghệ, thúc giục Hội phải nhanh chóng tìm người thay thế. Trong một cuộc họp nội bộ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đề nghị “mời Nguyên Ngọc”. Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu gặp Trần Độ báo cáo. Trần Độ thúc Hội làm thủ tục ngay để điều Nguyên Ngọc về nhưng Nguyễn Đình Thi cứ chần chừ cho đến khi Tướng Trần Độ cử người đến Hội yêu cầu.
Tháng 6-1987, Nguyên Ngọc có quyết định về làm tổng biên tập tờ Văn Nghệ. Khi đó, tờ báo này đã “đình bản” liên tục bốn số liền, Võ Văn Trực và Ngô Ngọc Bội đang chuẩn bị cho ra một tờ “bốn số gộp”. Bản thảo số báo này có truyện ngắn Tướng Về Hưu, một truyện ngắn được gửi tới báo Văn Nghệ từ khá lâu, tác giả của nó khi đó chưa ai biết đến.
Ngô Ngọc Bội cho rằng đó là một truyện ngắn hay, nhưng Tổng Biên tập Đào Vũ mấy lần xếp lại. Theo Nguyên Ngọc, khi biết ông sẽ về thay thế Đào Vũ, Võ Văn Trực có tham khảo ông và ông đã khuyến khích Võ Văn Trực cho đăng. Tướng Về Hưu ngay sau khi công bố đã định danh một nhà văn tài năng: Nguyễn Huy Thiệp. Cuộc tranh luận về Tướng Về Hưu trên nhiều diễn đàn ngay sau đó đã làm cho Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng và tờ Văn Nghệ được chú ý hơn.
Ông Nguyên Ngọc kể: “Nhận chức, tôi họp anh em nói, báo Văn Nghệ hơn các báo ở chỗ có chất văn, nhưng đã báo thì phải có tính chiến đấu. Muốn lôi cuốn độc giả thì phải đưa đời sống vào báo, phải làm sống lại mảng phóng sự văn học, lấy phóng sự làm mặt trận chính của báo”.
Phóng sự đầu tiên gây xôn xao trên báo Văn Nghệ viết về ông Nguyễn Văn Chẩn, còn được gọi chết tên là “Vua Lốp”, người bị Hà Nội khởi tố vì “thu gom phế liệu” một ngành “độc quyền nhà nước”. Bài phóng sự do Trần Quang Huy viết có tên Lời Khai Của Một Bị Can nhanh chóng được nhiều tờ báo đăng lại hoặc lên tiếng ủng hộ, kể cả báo Nhân Dân. Sau Lời Khai Của Một Bị Can, Văn Nghệ có thêm những bài báo thu hút dư luận như Người Đàn Bà Quỳ và đặc biệt là Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì? của Phùng Gia Lộc.
Phùng Gia Lộc là một người viết văn ở Thanh Hóa. Giữa thập niên 1980, ông có một số bài viết đụng chạm đến những tiêu cực ở địa phương. Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa bấy giờ là ông Hà Trọng Hòa, một người mà bài vè “Thanh Hóa dô tá, dô tà” gọi là “vua không ngai”. Bị đe dọa, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội. Theo Nguyên Ngọc: “Anh em văn nghệ ở Thanh Hóa tổ chức đưa Phùng Gia Lộc lên tàu, cử hai người đứng hai đầu toa để canh chừng. Ra Hà Nội, thoạt đầu Lộc ở nhà Bế Kiến Quốc, sau thấy nhà Quốc không an toàn, anh em đưa Lộc về sống tạm ở tòa soạn báo Văn Nghệ”.
Tại Tòa soạn báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc kể lại câu chuyện chính quyền Thanh Hóa theo lệnh của bí thư, tịch thu xe đạp, phích nước và lợn gà của những gia đình thiếu thóc nghĩa vụ. Năm ấy Thanh Hóa mất mùa, đói kém, bí thư chỉ thị: “Lợi ích của người lao động phải hy sinh cho lợi ích nhà nước”.
Câu chuyện xảy ra trong một gia đình có một cụ già bệnh nặng, sắp tới lúc gần đất xa trời. Gia đình đã giấu vào trong cỗ quan tài đóng sẵn của bà cụ một ít thóc để lo “hậu sự”. Gần một giờ sáng, “dân quân ập vào… tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu eng éc như bị chọc tiết,… dân quân, công an lật cỗ quan tài dưới gầm bàn thờ, lúa chảy rào rào. Đấy là lúa tạ, hai cô con gái mua cho để sau hôm bà già chết, đãi khách”.
Phùng Gia Lộc kể, cả tòa soạn Văn Nghệ ngồi nghe, rồi khóc. Nguyên Ngọc nói: “Tôi bảo Lộc viết ngay đi”. Lộc cầm bút và bài ký Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì của anh, đăng trên Văn Nghệ số ra ngày 23-1-1988, đã gây chấn động. Các báo cho đăng lại. Cuộc chiến của báo Văn Nghệ, Phùng Gia Lộc với Bí thư Thanh Hóa Hà Trọng Hòa từ đó bắt đầu được gần như tất cả các báo theo dõi và đăng bài ủng hộ.
Năm 1987 có thể coi là năm của Nguyễn Văn Linh. Câu nói tưởng như vô trách nhiệm của ông với văn nghệ sỹ, “hãy tự cứu mình trước khi trời cứu”, đã tạo ra những ảnh hưởng không ngờ. Bản chất của lao động sáng tạo là độc lập. Điều mà giới văn nghệ sỹ cần là tự do. Được lời của tổng bí thư, ai cũng sốt sắng tự mình cởi trói.
Nhiều tác phẩm gây xôn xao dư luận, xuất bản trong thập niên 1990, đã thai nghén trong giai đoạn Nguyễn Văn Linh. Sau Nguyễn Huy Thiệp, xuất hiện thêm Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh,… Những nhà văn đã có tác phẩm trước đó như Dương Thu Hương, Nguyễn Minh Châu cũng bắt đầu viết bằng những hơi thở mới.
Sau Nghị quyết 05 Bộ Chính trị, công an và các cơ quan liên quan triển khai “làm chính sách cho các đối tượng Nhân Văn Giai Phẩm”. Đại tá Thái Kế Toại, người được A25 giao viết báo cáo về “tình hình các đối tượng Nhân Văn” cho biết, công an đã “đề xuất phương hướng giải quyết chế độ chính sách” theo hướng: Phục hồi hội tịch Hội Nhà văn cho Trần Duy, Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ lương hưu cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
Cũng trong năm 1987, lần đầu tiên kể từ sau Nhân Văn, Nhà Xuất bản Văn hóa in cho Hoàng Cầm tập thơ Mưa Thuận Thành; Báo Quảng Nam-Đà Nẵng in cho Phùng Quán trường ca Cây Cà. Năm 1988, Nhà Xuất bản Tác phẩm mới in tập thơ Lá của Văn Cao.
Năm 1976, Văn Cao sáng tác ca khúc đầu tiên kể từ sau “Nhân Văn”, bài hát có tên là Mùa Xuân Đầu Tiên đã được in trên báo Sài Gòn Giải Phóng và được Đài Tiếng nói Việt Nam thu thanh. Tuy nhiên ngay sau đó, bằng một lệnh không
thành văn, Mùa Xuân Đầu Tiên biến mất. Cuối thập niên 1980, những “đêm nhạc Văn Cao” bắt đầu được tổ chức trang trọng ở Sài Gòn và Hà Nội. Cũng trong năm 1988, Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội và được cấp nhà.
Cho dù, trước khi Nguyễn Văn Linh rời chính trường, tháng 4-1991, Ban Chấp hành Trung ương mà ông đứng đầu vẫn ra thông báo về vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” và vụ “Xét lại chống Đảng 1967” với quan điểm “không thừa nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án như trước đây”. Nhưng Trần Dần,  Lê Đạt, Phùng Cung,… tiếp tục được xuất bản tác phẩm. Năm 1992, Kỷ yếu Nhà văn Việt Nam được in và tên của Phan Khôi lần đầu tiên được nhắc lại. Khát vọng tự do của người dân, đặc biệt là của tầng lớp trí thức và văn nghệ sỹ, thường không có giới hạn. Nhất là lúc đã đứng thẳng dậy. Đây cũng là thời kỳ mà chương trình “cải tổ” được Gorbachev thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô. Đây cũng là thời kỳ, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Việt Nam có thể đã khác và lịch sử có thể đã ghi nhiều dấu ấn của Nguyễn Văn Linh hơn nếu như, cuối thập niên 1980, mục tiêu ưu tiên của ông đã không được chuyển từ dân chủ hóa hệ thống chính trị và đời sống xã hội sang cứu vãn sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Chương XIII: Đa nguyên
Ông Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư vừa đúng một nhiệm kỳ (1986-1991). Người kế nhiệm ông - ông Đỗ Mười - nói rằng, thời gian thực sự làm việc của ông Linh chỉ khoảng gần hai năm vì ông thường xuyên đau ốm. Nhưng ông Nguyễn Văn Linh đã nỗ lực như một người mạnh khỏe để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa. Những nỗ lực đó có thể được Đảng Cộng sản Việt Nam ghi công nhưng cũng khiến cho di sản của Nguyễn Văn Linh trở nên rất khác.
Cải cách ở bậc đại học
Chính sách kinh tế nhiều thành phần thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VI, tháng 12-1986, đã đặt Việt Nam trước nhiều áp lực thay đổi mà trước đó chưa ai trù liệu tới. Một trong những lĩnh vực chịu áp lực đó là giáo dục. Trong bài trả lời “phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam” ngày 4-12-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thừa nhận: “Trong khi thực hiện những chính sách đúng đắn theo phương hướng đổi mới, chúng ta chưa lường trước diễn biến phức tạp cho nên đã không kịp thời xử lý tốt các vấn đề mới nảy sinh”.
Cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác, giáo dục đại học của Việt Nam đã tuân theo mô hình bao cấp. Hằng năm, căn cứ vào tính toán nhu cầu của các cơ quan, các địa phương, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước phân bổ cho các trường đại học chỉ tiêu tuyển sinh. Rồi căn cứ vào chỉ tiêu đó, ngân sách rót tiền cho các bộ chủ quản, các bộ rót tiền xuống cho các trường thuộc quyền quản lý của mình. Sinh viên ra trường được nhà nước phân công công việc.
Nhưng, từ năm 1987, nhiều lĩnh vực trước đây thuộc khu vực công bắt đầu do “các thành phần kinh tế” khác đảm trách: biên chế không còn nhu cầu, sinh viên ra trường không còn được phân công về các cơ quan nhà nước. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội có 1.000 giáo viên, năm 1987 chỉ còn được giao chỉ tiêu tuyển sinh 100 sinh viên. Các trường khác cũng rơi vào tình huống tương tự, viễn cảnh ra trường không có việc làm làm cho sinh viên không muốn học, thầy cô không muốn dạy. Bộ trưởng Đại học và Trung học Chuyên nghiệp (1987-1992), Giáo sư Trần Hồng Quân nói: “Tình hình cực kỳ nguy hiểm, nếu không thay đổi thì các trường đại học sẽ tan rã”.
Năm 1987, đang là Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Hồng Quân được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Đại học và Trung học Chuyên nghiệp. Ông Quân là cháu gọi phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Ngô Thị Huệ, là dì ruột. Không thể định lượng mối quan hệ “dượng-cháu” này đã ảnh hưởng như thế nào tới các quyết định của Bộ trưởng Trần Hồng Quân. Nhưng, đây là giai đoạn mà chính sách tuyển sinh phân biệt đối xử được bãi bỏ và nhiều quyết định của Bộ đã làm thay đổi giáo dục đại học Việt Nam89.
Mùa hè năm 1987, Bộ Đại học quyết định triệu tập hiệu trưởng và bí thư Đảng ủy các trường đại học trong cả nước về Nha Trang dự một hội nghị, về sau gọi là “Hội nghị Nha Trang”. Hội nghị đã thảo luận bốn tiền đề đào tạo: Đào tạo không chỉ cho các cơ quan nhà nước mà cho cả các thành phần kinh tế; Đào tạo theo dự báo yêu cầu tương lai; Đào tạo phục vụ nhu cầu của nhân dân về học, không kèm theo trách nhiệm phân công, sinh viên tự tìm việc làm và lập nghiệp tạo việc làm cho xã hội; Đào tạo đa dạng, có cả những loại hình phi chính quy, không chỉ bằng ngân sách mà còn thu học phí.
Lần đầu tiên, trong một hội nghị của ngành các đại biểu có thể đối thoại với cơ quan quản lý. Bộ trưởng Trần Hồng Quân nhớ lại: “Phản ứng kinh khủng, vì đào tạo không theo kế hoạch, không phân công, không ngân sách là sai nguyên lý xã hội chủ nghĩa. Nhiều bí thư đảng ủy đòi đối thoại với ông Đặng Quốc Bảo, trưởng Ban Khoa giáo Trung ương. Ông Bảo nói: ‘Cứ đối thoại với Bộ trưởng, tôi đến đây để nghe’. Tôi nói: ‘Các đồng chí bác đề án này vậy có sáng kiến gì khác để nền đại học của chúng ta tránh được sụp đổ?’. Mọi người chỉ than mạo hiểm mà không đưa ra được phương án khác nào, cuối cùng phải chấp nhận”.
Theo ông Trần Hồng Quân, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp và Bí thư Trung ương Đảng Trần Xuân Bách hoàn toàn ủng hộ kế hoạch cải cách này. Cả hai ông sau đó đã tham gia Hội nghị Vũng Tàu và ủng hộ các trường ký trực tiếp với nước ngoài về hợp tác đào tạo thay vì qua Bộ. Cho dù có những phản ứng lúc đầu, nhưng sau Hội nghị Nha Trang, khi lên tàu trở về, các hiệu trưởng bắt đầu bàn với nhau các kế hoạch thực hiện.
Ý tưởng bầu hiệu trưởng và phân cấp cho các trường bắt đầu được đề cập đến ở Hội nghị Nha Trang. Về Hà Nội, trong một lần gặp riêng tư, ông Trần Hồng Quân nói: “Tôi hỏi ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đang là phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng: ‘Chú thấy sao?’. Ông Kiệt hỏi lại: ‘Mày còn phân vân à?’. Rồi nói: ‘Nếu tao là bộ trưởng thì tao sẽ cho tiến hành’. Về, tôi cho áp dụng luôn ba hình thức: bổ nhiệm thẳng hiệu trưởng, thăm dò trước khi bổ nhiệm và bầu cử”.
Bầu hiệu trưởng đã tạo ra nhiều hiệu ứng trong các trường đại học. Trước khi bỏ phiếu, Bộ trưởng trực tiếp đối thoại với toàn thể cán bộ công nhân viên về mặt chủ trương. Sau đó, các ứng cử viên đưa ra chương trình hành động của mình và đối thoại trực tiếp với những người bỏ phiếu. Chính những cuộc đối thoại này đã làm cho các ứng cử viên luôn luôn phải động não, luôn luôn phải làm hết sức mình. Đó là một giai đoạn mà trong các nhà trường đại học, ở đâu cũng thảo luận, ở đâu cũng bàn bạc. Ngày đầu tiên có cuộc đối thoại giữa Bộ trưởng Trần Hồng Quân và cán bộ công nhân viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, hội trường Mễ Trì có sức chứa 600 người, từ sáng sớm đã chật từ bên trong đến bên ngoài, tranh luận diễn ra liên tục từ bảy giờ sáng cho tới một giờ chiều.
Tranh cử không phải là một sản phẩm của đổi mới ở Việt Nam. Hội nghị Nha Trang diễn ra khi mà ở Moscow, vào ngày 21-6-1987, Xô viết Moscow đã tổ chức bầu cử chủ tịch và các phó chủ tịch theo phương thức các đại biểu có thời gian ba ngày để thảo luận về danh sách các ứng cử viên. Thay vì chỉ được biết tên các ứng cử viên trước khi bỏ phiếu, như cách mà báo Nga gọi là “bộ máy cũ tái sản xuất ra chính nó”90.
Sinh viên và các phong trào tự phát
Cho dù không được tham gia bỏ phiếu, lực lượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ chủ trương bầu hiệu trưởng vẫn là sinh viên nhất là trong một giai đoạn “đòi tự do, dân chủ” đang trở thành một trào lưu trên thế giới.
Ở Nam Triều Tiên, chính quyền độc tài quân sự cũng bắt đầu lung lay. Một thứ trưởng ngoại giao Mỹ đã tới Seoul trao tận tay Tổng thống Chun Doo Hwan lá thư của Tổng thống Reagan, khuyên Chun đối xử nhẹ nhàng với những người biểu tình và đàm phán với bên đối lập để sửa đổi hiến pháp. Đại sứ Mỹ tại Seoul cũng đã vào tận nhà tù để gặp riêng hai lãnh tụ đối lập Kim Y oung Sam và Kim Dea Jung.
Sau bảy năm kiên trì đấu tranh, người dân Hàn Quốc đã buộc Chun Doo Hwan phải chấp nhận sửa đổi hiến pháp và chế độ bầu cử, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; thả tù nhân chính trị và cam kết, đến tháng 2-1988, khi kết thúc nhiệm kỳ sẽ trao lại quyền lực cho vị tổng thống dân sự được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, trực tiếp. Người dân Seoul đổ xuống đường ăn mừng. Báo Tuổi Trẻ ngày 7-7-1987 gọi đây là “thắng lợi của sức mạnh quần chúng”.
Khi những người tuổi trẻ ý thức được sự trưởng thành, họ không giới hạn sự đòi hỏi của mình trong những chuyện cơm ăn, áo mặc. Không khí dân chủ trong môi trường đại học đã giúp họ nhận ra và bày tỏ thái độ cả với chương trình đào tạo, thay vì cung cấp những kiến thức cần thiết cho cuộc sống, sau năm 1975 đã bị chính trị hóa91.
Từ sau Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị92, bậc “giáo dục mầm non”, dành cho trẻ từ hai đến bốn tuổi, cũng được coi là “một bộ phận rất quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới xã hội chủ nghĩa”. Ở bậc “giáo dục phổ thông” - từ hệ 10 năm của miền Bắc được thiết kế thành hệ 12 năm như miền Nam - nội dung giáo dục được yêu cầu phải “coi trọng các môn giáo dục công dân và đạo đức cách mạng”. Tham gia đoàn thể là một hoạt động bắt buộc và trở thành đoàn viên cộng sản là điều kiện tiên quyết để một học sinh được thi vào đại học. Mục tiêu đầu tiên của bậc “giáo dục đại học” là đào tạo những người “một lòng một dạ trung thành với tổ quốc xã hội chủ nghĩa”93. Chương trình học và sách giáo khoa bắt đầu được soạn mới, chính trị càng tràn ngập trong các nội dung giảng dạy.
Giữa năm 1987, tại trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, xảy ra vụ một sinh viên khoa Triết bị loại bài thi và bị trưởng Bộ môn Marx-Lenin nhận xét: “Phê phán cực đoan và có nguy cơ phản Đảng”. Nhiều sinh viên đã phản ứng. Đoàn trường Tổng hợp, hồi tháng 6-1987, đã tiến hành một cuộc thăm dò dư luận cho thấy 89% sinh viên được hỏi không thích học các môn lý luận chính trị, trong đó, 30% sinh viên cho rằng do bài giảng chính trị chất lượng kém, 20% cho rằng cách tổ chức dạy và học chưa tốt.
Ngày 18-6-1987, Chi đoàn khoa Triết năm thứ ba trường Đại học Tổng hợp tổ chức hội thảo về “giảng dạy và học chủ nghĩa Marx-Lenin”. Tại đây, các sinh viên đã phê phán “giáo viên dạy lý luận chính trị mà dựa vào sách vở như là viện dẫn kinh thánh”. Nhiều sinh viên tuyên bố không thích học chính trị theo cách giảng dạy hiện nay. Một sinh viên năm thứ tư cho rằng: “Tôn trọng thầy không có nghĩa là không có quyền nhận xét thầy dạy dở. Đã đến lúc chất lượng bài giảng, phương pháp giảng dạy, kể cả chất lượng giáo viên chính trị cần phải được đánh giá lại”.
Không dừng lại ở nội dung giảng dạy, đầu năm học 1987, hai sinh viên Đại học Kinh tế đã vẽ bốn tấm bích chương dán ở bốn ký túc xá để thu thập chữ ký đòi các Ban Quản lý Ký túc xá cải thiện điều kiện ăn ở cho sinh viên. Ở khoa Văn, Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, sau khi phản ánh nhiều lần không có kết quả, sinh viên đã xếp xe đạp thành rào chắn, chặn xe tải chạy vào xưởng cồn “cải thiện đời sống” của khoa vì xưởng cồn gây ồn, ảnh hưởng đến các lớp học. Ban Giám hiệu sau đó đã phải bố trí một nơi khác yên tĩnh hơn cho sinh viên, còn “kẻ chủ mưu” cuộc biểu tình, sinh viên Nguyễn  Ngọc Vinh, tháng  12-1987,  được bầu làm bí thư  Đoàn khoa Văn.Việc người  lãnh đạo cuộc đấu tranh với nhà trường được sinh viên tôn vinh cho thấy không gian dân chủ trong giới sinh viên bắt đầu được đánh thức.
Không chỉ tình hình Đông Âu, giữa năm 1989, sự kiện Thiên An Môn94   cũng trở thành đề tài bàn luận của sinh viên Việt Nam. Tin tức về Thiên An Môn bị Ban Tuyên giáo kiểm soát. Báo chí bị buộc phải đứng ngoài cho tới chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Liên Xô tới Bắc Kinh95. Ngày 15-5-1989, trong bản tin nói về chuyến đi của Gorbachev, báo Tuổi Trẻ mới có cơ hội lồng vào thông tin liên quan tới Thiên An Môn: “Ngày 4-5-1989, khi tiếp các đại biểu ngân hàng các nước dự hội nghị tại Bắc Kinh, Triệu Tử Dương nói, biểu tình sẽ dần lắng dịu”. Một tuần sau, tuần tin Thanh Niên, xuất bản ngày 21-
5-1989, viết rõ hơn: “Trong những ngày Gorbachev đang ở Bắc Kinh, hàng trăm ngàn sinh viên vẫn biểu tình tại Thiên An Môn và tới nay thì lôi cuốn tất cả các thành phần khác như nông dân, công nhân, các nhà khoa học, nhà giáo, kể cả nhân viên nhà nước. Hàng ngàn sinh viên đang tuyệt thực, trong đó có những sinh viên phải vào bệnh viện”.
Cho dù bị đàn áp đẫm máu96, hình ảnh đoàn xe tăng lầm lũi tiến vào Quảng trường Thiên An Môn bị chặn đứng bởi một người đàn ông vô danh97   đã khiến cho cuộc biểu tình được coi như một biểu tượng quả cảm vì tự do, dân chủ. Bí thư Đoàn khoa Văn, Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 1989, Nguyễn Ngọc Vinh nhớ lại: “Ngay từ khi ở Hàn Quốc, Thái Lan, đặc biệt là ở Thiên An Môn nổ ra biểu tình, không khí trong sinh viên đã rất sôi sục. Anh em nói: ‘Khi nào hạ lệnh là tụi em làm liền’. Tôi tìm gặp Giáo sư Lý Chánh Trung hỏi: ‘Thưa thầy, có nên biểu tình?’. Giáo sư Lý Chánh Trung khuyên không nên, ông phân tích tương quan rồi nói: ‘Trong chế độ này không nên làm cái gì mang tính đối lập”.
Đất nước lúc ấy vẫn chưa hết nghèo đói, xã hội rất bức bách, sinh viên bắt đầu trăn trở. Các thăm dò xã hội cho thấy thanh niên không hài lòng với cuộc sống hiện thời98. Cho dù không có những hoạt động mang tính tổ chức nhưng nhu cầu phản kháng trong giới sinh viên vẫn như một thùng thuốc súng. Chính yếu tố không có tính tổ chức này đã làm cho các phản ứng của sinh viên rất bộc phát và đôi khi vì những lý do nằm ngoài những bức xúc chính trị. Hai cuộc biểu tình lớn diễn ra ở Sài Gòn trong năm 1989 đều có tính chất như vậy.
Cuộc biểu tình thứ nhất xảy ra vào đêm 10-6-1989. Vài giờ trước đó, tại ngã ba Nguyễn Cư Trinh - Cống Quỳnh, dân quân Nguyễn Thanh Hùng đi xe đạp từ phía sau vượt lên va vào ghi-đông xe đạp của hai sinh viên thuộc ký túc xá Trần Hưng Đạo. Vì xe bị “tráng niền”, Hùng đánh hai sinh viên cho dù họ đề nghị Hùng mang xe về ký túc xá sửa. Thay vì can gián, một nhân viên phường đội phường Nguyễn Cư Trinh và một dân quân khác đã mang súng ra bắt hai sinh viên về cơ quan phường đánh đập. Hay tin, hàng ngàn sinh viên đã kéo lên trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố đòi phải trừng trị những kẻ đã đánh sinh viên. Chính quyền Quận 1 ngay sau đó đã phải hứa cho điều tra, khởi tố các nhân viên phường đội, sinh viên mới bằng lòng giải tán.
Cuộc biểu tình thứ hai nổ ra gần một tháng sau giữa sinh viên và bảo vệ Công viên Kỳ Hòa. Sự việc bắt đầu cũng khá đơn giản: Cuối giờ chiều ngày 6-7-1989, năm sinh viên ký túc xá Ngô Gia Tự và một số học sinh lên Thành phố dự thi đang chơi ngoài bãi cỏ Công viên Kỳ Hòa thì trời đổ mưa đột ngột. Họ cùng với những người khách khác chạy vào trú mưa dưới mái hiên Nhà kính dị dạng. Ít phút sau, bảo vệ công viên đi qua nhìn thấy một tấm kính bị vỡ nên đã mời số sinh viên này lên phòng Ban Giám đốc giải quyết. Hai bên đôi co, người bảo vệ phát hiện tấm kính vỡ đã đánh một sinh viên dập sống mũi. Một sinh viên khác liền chạy về ký túc xá Ngô Gia Tự thông báo. Một số sinh viên, trong đó có Ban Quản lý Ký túc xá đã đến Công viên Kỳ Hòa yêu cầu lập biên bản.
Cuộc làm việc chưa đi tới đâu thì bảo vệ Kỳ Hòa cho thả chó bẹc-giê ra cắn hai sinh viên bị thương. Số sinh viên đang đứng đợi dưới nhà, kêu lên: “Không đàm phán nữa, về kêu sinh viên ra đập chết chó đi”. Một thành viên trong Ban Tự quản Sinh viên trực tiếp thảo “lời kêu gọi” rồi đọc trên hệ thống loa phóng thanh của ký túc xá Ngô Gia Tự. Hơn 600 sinh viên, trong đó gồm cả sinh viên ở ký túc xá Nguyễn Chí Thanh, nghe tin cũng kéo theo, trực chỉ Hồ Kỳ Hòa. Ban Giám đốc Công viên bỏ chạy. Bảo vệ chối không có chó. Sinh viên bắt phải tìm ra con chó thủ phạm đã cắn sinh viên. Sẵn cừ tràm của một công trình đang xây dựng trong Kỳ Hòa, sinh viên bẻ cừ, đập chết con chó đồng thời làm hư hỏng thêm một số đồ vật khác.
Sinh viên vẫn đang sùng sục thì sáng ngày 9-7-1989, báo Sài Gòn Giải Phóng cho đăng “Thông báo của Ủy ban Nhân dân Quận 10”, đưa kết luận cuộc họp ngày 7-7-1989 theo hướng bào chữa cho bảo vệ Kỳ Hòa. Ví dụ, sự kiện thả chó, được nói: “Theo thông lệ, sau khi đóng cổng nhân viên trật tự đã thả chó ra trong vòng rào công viên. Không may có thanh niên trong số đông còn tụ tập sát cổng khu vực Kỳ Hòa II đã bị một con chó cào xước nhẹ”. Cũng theo Thông báo: “Nhiều tốp sinh viên ở ký túc xá Ngô Gia Tự, do nghe tin thổi phồng về tình hình xô xát đã kéo thêm đến công viên Kỳ Hòa. Một số ít thanh niên trong các tốp đó đã xông vào đập phá gây thiệt hại về tài sản cho cả các cơ sở trong hai khu vực Kỳ Hòa I & II”. Thông báo nói rằng: “Cuộc họp đã kiến nghị điều tra, xử lý nhanh chóng và nghiêm minh những người gây ra xô xát và đập phá tài sản công cộng”. Số tiền mà Kỳ Hòa dự kiến đòi sinh viên bồi thường lên tới sáu mươi triệu đồng.
Ngay sáng chủ nhật, 9-7-1989, hàng trăm sinh viên đã kéo tới Tòa soạn báo Sài Gòn Giải Phóng yêu cầu đính chính. Sài Gòn Giải Phóng không chịu, từ đường Nguyễn Thị Minh Khai, sinh viên kéo ra đường Lê Thánh Tôn, đến trước trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố. Không chỉ có ký túc xá Ngô Gia Tự, sinh viên từ các ký túc xá Trần Hưng Đạo, Nguyễn Chí Thanh và từ Thủ Đức cũng lần lượt kéo lên. Cảnh sát phải chặn sinh viên từ Thủ Đức lên ở bên kia cầu Sài Gòn. Ngay trong ngày 9-7-1989, chính quyền đã dùng biện pháp mạnh, bắt bốn người trong Ban Tự quản Sinh viên: Phạm Văn Chiến, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Phong Thanh và Nguyễn Sơn Thủy Hùng. Đồng thời, để xoa dịu tình hình, hai bảo vệ của Công viên Kỳ Hòa cũng bị bắt.
Ngày 12-7-1989, báo Sài Gòn Giải Phóng “gặp Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nguyễn Văn Bông”. Phát biểu của ông Bông cho dù vẫn với thái độ “xử lý nghiêm minh” nhưng lời lẽ rõ ràng là “nói lại cho rõ” những gì đăng trên tờ báo này hôm chủ nhật. Thay vì nói “mũi của một sinh viên bị xây xát nhẹ”, ông Bông nói rõ: “Bảo vệ Dương Quang Hiệp của Công viên Kỳ Hòa đã đánh học sinh Phạm Hữu Nghị gây thương tích ở sống mũi”. Về vụ chó bẹc-giê cắn sinh viên, ông Bông nói: “Đội phó bảo vệ Nguyễn Văn Lâm đã thả chó ra, chó cắn hai học sinh bị thương. Theo quy định của Hồ Kỳ Hòa, chỉ khi không còn khách mới được thả chó ra để bảo vệ”.
Nguyễn Sơn Thủy Hùng nhớ lại: “Khoảng bốn giờ chiều ngày 9-7-1989, chúng tôi được mời lên công an thành phố. Với sự chứng kiến của thầy hiệu phó và thầy Lý Chánh Trung họ đọc lệnh bắt, đưa lên xe u-oát chở về 3C Tôn Đức Thắng”. Lệnh bắt nói là “tạm giam bốn tháng” nhưng, người bị giữ lâu nhất là mười ngày, còn ba người còn lại chỉ bị giữ một tuần rồi cho về. Giám đốc Sở Công an, Đại tá Nguyễn Hữu Khương đã gặp bốn sinh viên ngay sau khi họ được thả ra. Ông Khương huấn dụ: “Luật không cấm các em biểu tình, nhưng biểu tình thế là nguy hiểm, là không kiểm soát được tình hình. Các em chớ dại”.
Theo báo cáo của Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp tại Hội nghị Đồ Sơn mùa hè năm 1989, tính tới tháng 8- 1989, trên cả nước có mười ba vụ “phản ứng tập thể của sinh viên” xảy ra tại Hà Nội, Vinh, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Cần Thơ và Sài Gòn. Theo báo cáo này: “Phần lớn những đòi hỏi vừa qua của sinh viên là chính đáng. Tuy nhiên, Bộ thấy rằng ở một số nơi, sinh viên có khuynh hướng giải quyết yêu cầu bằng áp lực của số đông, dẫn đến tình hình phức tạp”. Biểu tình càng bị coi là “phức tạp” hơn khi chính nó đang làm sụp đổ nhiều quốc gia cộng sản.
Đông Âu
Cuộc cách mạng diễn ra trong cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa cuối thập niên 1980 đã làm thay đổi bản đồ chính trị thế giới. Tuy nhiên, những gì mà người dân Đông Âu và Liên xô coi là cơ hội đã được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh xác định như một nguy cơ.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Chế độ khẳng định là do Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập sau khi “đánh thắng ba đế quốc to” (Nhật-Pháp-Mỹ). Trong khi, Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu chủ yếu được thiết lập sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II99   dựa trên sự áp đặt của Liên Xô. Trong đó, có những quốc gia được Liên Xô giải phóng từ tay Hitler nhưng cũng có những quốc gia vốn là nạn nhân của họ100. Ngay từ những năm đầu, người dân và một số nhà lãnh đạo Đông Âu đã không ngừng đấu tranh để chống lại sự áp đặt đó.
Sau cái chết  của Joseph  Stalin  vào ngày 5-3-1953,  hơn một  triệu người  dân Đông  Đức đã xuống  đường  biểu tình. Nhưng người dân Đông Đức đã bị đàn áp bởi xe tăng Liên Xô. Ngày 23-10-1956, người dân Hungary cũng nổi dậy, thành lập Hội đồng Lâm thời, giải tán cảnh sát an ninh nhà nước, tuyên bố rút khỏi Khối Warszawa, cam kết tái lập bầu cử tự do. Nhưng ngày 4-11-1956, Liên Xô đưa quân đội sang, người dân Hungary đã chiến đấu cho tới ngày 10-11: hơn 2.500 người Hungary và 700 binh lính Liên Xô bị chết, hai mươi vạn người Hungary phải đi tị nạn chính trị. Cựu Thủ tướng Nagy Imre bị bắt đưa sang Liên xô. Ngày 17-6-1958, ông cùng những người nổi dậy bị Tòa án Tối cao Hungary tuyên bố hành quyết.
Cho dù Liên Xô đã dựng lên bức tường Berlin101, họ chưa bao giờ khuất phục được khát vọng tự do của người Đông Âu. Từ năm 1965, ở Tiệp Khắc, mô hình Stalin được dần thay bằng mô hình “xã hội chủ nghĩa thị trường”102    với ước mơ xây dựng một chế độ thực sự có “khuôn mặt con người”103. Tháng 4-1968, Bí thư Dubček còn đề cập tới khả năng về một quá trình mười năm để Tiệp Khắc chuyển sang chế độ bầu cử dân chủ.
Nhưng, đêm 20-8-1968, Brezhnev đưa 200.000 lính, 2.000 xe tăng của “Khối Warszawa” tiến vào thủ đô Praha. Cuộc xâm lăng này đã khiến 300.000 người dân Tiệp Khắc phải bỏ nước ra đi, trong đó có 70.000 bỏ đi ngay lập tức. Ngày 19- 1-1969, một sinh viên tên là Jan Palach đã tự thiêu tại Quảng trường Wenceslas ở Praha để phản đối sự trấn áp quyền tự do ngôn luận104.
Xe tăng Liên Xô đã làm tỉnh ngộ các đảng viên cộng sản và hun đúc ý thức đấu tranh của người dân. Hơn 450.000 đảng viên rời khỏi đảng cộng sản, hoa tươi luôn được đặt nơi Jan Palach tự thiêu. Từ cuộc vận động trả tự do cho nhóm nhạc “Plastic People”, ngày 10-12-1977, Nhà viết kịch Vaclav Havel và các cộng sự quyết định thành lập nhóm “đối lập xây dựng” và cho ra đời Hiến Chương 77 đòi chính quyền tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và các quyền con người căn bản khác.
Ngày 6-1-1977, Hiến Chương 77 được công bố với 242 người Tiệp Khắc ở trong nước đồng ký tên. Trong ngày, các thông tín viên thường trực tại Praha đã loan tin Hiến Chương 77 đi toàn thế giới. Cho dù chế độ gia tăng đàn áp, cứ phát ngôn viên này bị bắt thì người khác trong nhóm lại đứng lên. Nhưng Đông Âu có thể đã phải mất nhiều thời gian để thay đổi hơn, nếu như vào ngày 16-10-1978, Karol Wojtyla, một người Ba Lan không trở thành Giáo hoàng John Paul II và đã trở về thăm quê trong hào quang vào ngày 2-6-1979. Cho dù phải gần hai năm sau, Ronald Reagan mới trở thành tổng thống, lúc ấy, từ một trang trại của nước Mỹ ông đã cùng Richard Allen105   theo dõi sát sao chuyến đi của Giáo hoàng. Từ đầu thập niên 1980, chính sách ưu tiên của Reagan là “đánh bật Ba Lan ra khỏi quỹ đạo Liên Xô”. Còn John Paul II thì gọi Lech Walesa, lãnh tụ của phong trào Công đoàn Đoàn kết, là người “được phái xuống bởi Chúa và ý Trời”. Nhưng, cả CIA lẫn Giáo hoàng cũng sẽ không làm được gì nếu tự do, độc lập không phải là khát vọng bên trong của những người dân Ba Lan, kể cả những người đang nắm quyền trong Đảng.
Trong kỷ nguyên cộng sản, người dân Ba Lan đã từng đứng dậy ba lần vào các năm 1956, 1970 và 1976; cả ba lần chính quyền đều đàn áp một cách tàn bạo. Nhưng, không phải tất cả các nhà lãnh đạo người Ba Lan đều tán thành sử dụng vũ lực để chống lại nhân dân mình. Năm 1980, khi các cuộc bãi công lại mau chóng lan rộng ra khắp đất nước Ba Lan106. Bí thư thứ nhất Gierek và bộ trưởng Quốc phòng của ông, Tướng Wojciech Jaruzelski,  không muốn sử dụng lực lượng quân sự để cưỡng bức những người bãi công trở lại làm việc cho dù họ bị Moscow đe dọa.
Ngày 31-8-1980, Chính phủ Ba Lan đã phải ký với Lech Walesa “Thỏa ước Gdánsk” chấp nhận những đòi hỏi của công nhân và đặc biệt hợp pháp hóa việc thành lập các tổ chức công đoàn độc lập. Chưa đầy một tuần sau đó, ngày 5-9, dưới sức ép của Liên Xô, Gierek mất chức. Ngày 27-3-1981, Walesa tổ chức một cuộc tổng bãi công làm cả nước tê liệt, cả Kania và Jaruzelski, lúc này đã là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan, lại bị triệu tập đến Moscow. Một trăm năm mươi nghìn quân Nga và quân của Khối Warsawa được Liên Xô triển khai dọc biên giới Ba Lan. Cả Jaruzelski và Kania cùng bị người đứng đầu KGB, Andropov, và Bộ trưởng Quốc phòng Ustinov, đe dọa sẽ can thiệp quân sự nếu Ba Lan không chịu đàn áp biểu tình.
Năm 1981, chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng, hai nhân vật quyền lực nhất thế giới và ủng hộ Công đoàn Đoàn kết mạnh mẽ nhất bị ám sát: Tổng thống Reagan bị bắn vào ngày 23-2-1981, Đức Giáo hoàng bị bắn vào ngày 13-5-1981. Nhưng, cả hai đều sống sót nhờ viên đạn chỉ “đi chệch động mạch chủ vài milimet”.
Ngày 18-10-1981, theo đề nghị “của Moscow và của tất cả các đảng cộng sản anh em”, Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan đã cách chức Kania, chỉ định Jaruzelski làm bí thư thứ nhất. Tối 4-11-1981, Jaruzelski, Walesa và Tổng Giám mục Ba Lan Glemp gặp nhau. Jaruzelski đề nghị lập “mặt trận hòa giải quốc gia” để chấm dứt những cuộc hỗn loạn ở trong nước. Đề nghị của Jaruzelski tuy chưa được Walesa tán thành nhưng vẫn làm cho Brezhnev tức giận. Ngày 21-11-1981, ông ta đã gửi cho Jaruzelski một bức thư năm trang, đòi có “một trận đánh quyết định chống lại kẻ thù giai cấp”. Trong tháng
11-1981, có 105 vụ đình công và 115 vụ đình công khác đang được dự định tiến hành.
Ngày 10-12-1981, Bộ Chính trị Liên Xô họp khẩn cấp. Nửa đêm, ngày 12-12-1981, trong vòng hai giờ, hầu hết những người thuộc Ủy ban Quốc gia vừa họp ở Gdánsk, “đòi bầu cử tự do và trưng cầu dân ý về sự tồn tại của cộng sản”, đã bị bắt; quân đội với xe tăng và bộ binh được điều vào các đường phố. Lệnh thiết quân luật vào ban đêm có hiệu lực vô thời hạn. Ngoại trừ số máy dành cho quân đội và lực lượng an ninh, tất cả điện thoại ở Ba Lan đều bị cắt. Jaruzelski lên truyền hình, tuyên bố: “Không một nơi nào được phép tụ tập đông người trừ nhà thờ”.
Danh sách những người bị bắt giữ lên tới mười nghìn, tính tới tháng 3-1982. Walesa được đề nghị gặp Jaruzelski để thương lượng nhưng ông yêu cầu tất cả những người bị bắt phải được thả ra trước khi ông xem xét đàm phán với chính quyền.
Cuộc tấn công diễn ra khi cả bộ trưởng Ngoại giao và bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đều không có mặt ở Washington. Ở Hà Nội, báo Nhân Dân bình luận: “Reagan và bọn tay chân của đế quốc Mỹ trên đất Ba Lan đã bị bất ngờ... Phần lớn bọn cầm đầu ở trung  ương  và địa  phương  bị các lực lượng quân đội và an ninh theo  dõi chặt  chẽ, khóa  tay và tống  vào  trại giam”107. Nhân Dân viết tiếp: “Bọn CIA và những tên trùm phản động cầm đầu Công đoàn Đoàn kết không ngờ rằng lực lượng cách mạng được huy động để trừng trị bọn chúng lại là quân đội nhân dân và các lực lượng an ninh nhân dân Ba Lan… Chúng nghĩ như đinh đóng cột rằng, lực lượng trừng trị chúng chỉ có thể đến từ một hướng duy nhất: Quân đội Liên Xô”108.
Ngày 7-6-1982, Reagan đến Vatican, nói chuyện không qua phiên dịch suốt năm mươi phút trong phòng Giáo hoàng. Tình hình Ba Lan không làm cho họ bi quan mà hai con người quyền lực nhất thế giới này còn tính đến khả năng Liên Xô sụp đổ. Lúc đó, Reagan bắt đầu chương trình chạy đua vũ trang, đặc biệt là “Star War”. Ông nói với John Paul II việc chạy theo chính sách hạt nhân của Mỹ sẽ làm cho Liên Xô kiệt quệ109.
Đức Giáo hoàng trở về quê hương lần thứ hai vào ngày 16-6-1983. Trước hai triệu người Ba Lan, Giáo hoàng đã ban phước cho hai linh mục đấu tranh chống lại người Nga trong cuộc nổi dậy thất bại của nhân dân Ba Lan vào năm 1863. Ngày hôm sau, John Paul II gặp Walesa. Ngay sau đó, lệnh thiết quân luật được bãi bỏ. Tháng 10-1983, Walesa được trao giải Nobel Hòa bình… Nhưng, sự thay đổi của Đông Âu còn chịu tác động rất nhiều bởi sự ra đi của “kỷ nguyên Brezhnev”.
Leonid Brezhnep chết vào ngày 10-11-1982. Người kế nhiệm ông là Yuri Andropov. Khi Walesa nhận giải Nobel Hòa bình, Andropov đã tức giận viết thư trách cứ Jaruzelski. Nhưng, ông trùm KGB này cũng chết vào tháng 2-1984. Người thay thế là Konstantin Chernenko do ốm yếu nên chỉ nắm quyền được mười ba tháng. Tháng 3-1985, Chernenko chết, Mikhail Gorbachev trở thành tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Tháng 4-1985, khi tới Ba Lan tham dự một cuộc họp của Ủy ban Tư vấn Chính trị Hiệp ước Warsawa, Gorbachev đã nán lại để nói chuyện với Jaruzelski. Trước cuộc gặp, Gorbachev nói ông chỉ có một giờ, nhưng cuộc nói chuyện đã kéo dài năm giờ.
Hai nhà lãnh đạo đã thảo luận rất lâu về Giáo hoàng và Vatican. Jaruzelski nhận ra Gorbachev không phải là một người cộng sản Liên Xô như ông thường thấy. Cả hai phân tích “nguồn gốc của hệ thống và sự cần thiết thay đổi”. Từ một người nghi ngại Jaruzelski đi theo khuynh hướng đa nguyên, Gorbachev đã ngồi bàn với Jaruzelski về việc áp dụng chủ nghĩa đa nguyên cho cả Ba Lan và Liên Xô.
Ngày 11-9-1986, Chính phủ Ba Lan tuyên bố ân xá và phóng thích 225 tù nhân từng được coi là những “phần tử nguy hiểm nhất cho quốc gia”. Trong số được phóng thích có Zbigniew Bujak, người có gần năm năm vừa trốn lệnh truy nã vừa lãnh đạo công đoàn bí mật. Lần đầu tiên kể từ tháng 12-1981, các lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết có thể tự do gặp gỡ.
Ngày 13-1-87, tại Vatican, Tướng Jaruzelski đã trao tận tay Giáo hoàng bản báo cáo về cuộc nói chuyện mang “tư duy mới” giữa ông và Gorbachev. Jaruzelski có vẻ vững tâm hơn khi bàn với Giáo hoàng về tương lai của Ba Lan trên tinh thần hòa giải, một tương lai mà cả giáo hội và phe đối lập đều có vai trò.
Tháng 4-1987, tại Praha, Gorbachev tuyên bố: “Mối quan hệ chính trị giữa các nước xã hội chủ nghĩa phải dựa trên một sự độc lập tuyệt đối. Mọi quốc gia được chọn lựa con đường phát triển riêng, được quyết định số phận và bảo vệ lãnh thổ cũng như các nguồn nhân công và tài nguyên thiên nhiên của nó”. Cho tới lúc đó, các nhà lãnh đạo Việt  Nam, kể cả Nguyễn Văn Linh, chưa có đủ sự nhạy cảm để nhận ra tuyên bố đó của Gorbachev có giá trị như pháo hiệu “giải phóng” Đông Âu110.
Cứu chủ nghĩa xã hội
Ngày 15-8-1989, tại Sài Gòn, khi phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương Bảy, Nguyễn Văn Linh đã tự tin tuyên bố: “Chúng đang hý hửng về điều mà Tổng thống Mỹ Bu-sơ (G.W.H. Bush) ngày đêm trông đợi: ‘Chúng ta đang sống ở thời kỳ kết thúc một ý tưởng, sống ở chương cuối của thể nghiệm cộng sản’111. Đó là giấc mơ giữa ban ngày của bọn đại biểu cho chủ nghĩa chống cộng khét tiếng, không đội trời chung với chúng ta”. Ngày 24-8-1989, khi ở Sài Gòn Hội nghị Trung ương Bảy về chống đa nguyên bế mạc, ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết chính thức lên cầm quyền112. Ông Linh không còn lòng dạ nào mà “hí hửng” và sau đó ông đã ứng xử rất “vội vàng”.
Ngày 25-8-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh triệu tập Bộ Chính trị họp khẩn cấp tại Cơ quan phía nam của Văn phòng Trung ương (T78 - đường Lý Chính Thắng, Sài Gòn), thành phần mở rộng có cả Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân. Theo ông Tân, Bộ Chính trị nhận định, sự kiện Ba Lan là “đảo chính phản cách mạng”. Khi ấy Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hà Đăng đi vắng nên ông Linh nói với ông Tân: “Cậu phải viết ngay một bài xã luận”. Ông Trần Trọng Tân ngồi ngay trong phòng họp Bộ Chính trị viết bài báo có tựa đề: “Sự kiện chính trị ở Ba Lan và thái độ của chúng ta”. Theo ông Tân, bản thảo bài báo được tất cả các ủy viên Bộ Chính trị dự họp thông qua rất kỹ.
Bài xã luận đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 26-8-1989 nhấn mạnh: “Những người cộng sản, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ lâu đã có tình cảm gắn bó với những người cách mạng chân chính ở Ba Lan vô cùng căm phẫn và cực lực lên án hành động của những lực lượng phản động chống phá chủ nghĩa xã hội ở Ba Lan”113. Cùng ngày, bài báo còn xuất hiện trên một số tờ báo Đảng địa phương. Theo ông Trần Trọng Tân, sau khi báo ra, ở Hà Nội, Bộ Chính trị - Ban Bí thư còn cho các đoàn thể cử người đến Đại sứ quán Ba Lan “thăm hỏi” với tinh thần là “tiếp sức cho họ”. Ông Tân nói: “Tưởng tay đại sứ thuộc phe cộng sản, ai lường hắn thuộc phe lật đổ. Tay đại sứ đã cự lại, và nói với đoàn của ta sự kiện ở Ba Lan không phải là lật đổ mà chính là sự lựa chọn của nhân dân Ba Lan”114.
Tình hình Liên Xô và Đông Âu trong năm 1989 thay đổi từng ngày, từng giờ. Ngày 9-6-1989, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô bế mạc. Đây là cơ quan nghị viện nhân dân đầu tiên ở Liên xô được bầu cử công khai với năm ứng cử viên cho một ghế dân biểu. Ba mươi lăm bí thư vùng của Đảng đã không đắc cử trong cuộc bầu cử này.
Khi Liên Xô khai mạc đại hội vào ngày 25-5-1989, nhiều đại biểu đã kêu gọi thành lập “nhóm đối lập” trong đại hội. Boris Yeltsin cũng bắt đầu xuất hiện ở đây như một chính trị gia khi ông đòi thúc đẩy nhanh quá trình cải tổ: xây dựng hiến pháp mới, ra luật về đảng,… Yeltsin bị 964 phiếu chống khi tranh cử vào Xô viết Tối cao Liên Xô, nhưng một giáo sư đại học đã nhường lại ghế của mình cho Y eltsin và điều này đã được đại hội chấp thuận.
Tổng Bí thư Gorbachev cũng đã phải “tranh cử” từ một cuộc bỏ phiếu có hai ứng cử viên để trở thành chủ tịch Xô viết Tối cao. Ông phát biểu trong phiên bế mạc: “Lần đầu tiên trong lịch sử Liên Xô, tại đại hội này đã có thảo luận công khai. Đại hội đã đưa Liên Xô lên một giai đoạn mới”. Một ủy ban cũng đã được thành lập để sửa đổi hiến pháp theo hướng “xây dựng một nhà nước ngăn chặn sự xuất hiện trở lại ở Liên Xô tệ sùng bái cá nhân, chế độ độc đoán và quản lý xã hội bằng mệnh lệnh hành chính”.
Ở Đức, từ cuối năm 1988 bắt đầu xuất hiện những cuộc biểu tình đòi cải cách kinh tế. Mùa hè năm 1989, áp lực đòi cải cách chính trị, đòi tự do ngôn luận, sửa đổi hiến pháp và đòi chính phủ từ chức qua các cuộc biểu tình càng dâng cao. Ngay sau khi Hungary từ bỏ thể chế cộng sản, mở cửa biên giới sang Áo, lập tức có mười nghìn người dân Đông Đức tràn vào đất nước này và biến nó thành nơi để trốn qua các nước phương Tây. Làn sóng trốn chạy khỏi các quốc gia cộng sản Đông Âu đã lên tới “một con số khổng lồ” vào mùa hè năm 1989. Erich Honecker, tổng bí thư của Cộng hòa Dân chủ Đức phản đối việc mở cửa biên giới sang Hungary, nhưng tiếng nói của ông vào lúc ấy không còn được ai nghe nữa.
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Quyết địng đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia, các thành viên cao cấp khác - Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng Doanh - chỉ ngồi khoang hành khách thường.
Một lễ đón đơn giản được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld rồi sau đó đoàn về khách sạn. Năm giờ chiều ngày 6- 9-1989, cuộc mit-tin lớn bắt đầu, trên lễ đài: Honecker ngồi giữa, một bên là Gorbachev, một bên là một phó thủ tướng, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc – Honecker muốn thể hiện chính sách đề cao Trung Quốc làm đối trọng với Gorbachev; Ông Nguyễn Văn Linh được ngồi hàng đầu nhưng ghế thứ hai từ ngoài vào, bên cạnh ghế hàng đầu cuối cùng của Phó Thủ Tướng Lào. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp
chính thức nào với Honecker hay một nhà lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã hội.
Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: “Phe ta đang diễn biến phức tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành động, tăng cường tình đoàn kết”.
Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho  Tổng Bí thư  Mông Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert  Mies là chấp nhận gặp. Chỉ có Helbert  Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó thủ tướng Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.
Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều phòng. Ông Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi chờ rất lâu. Ông Linh nói: “Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó”. Tôi bảo: “Tính thằng này nó hình thức thế”. Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất. Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: “Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy không đồng ý thì rất khó”. “Ông kia” đề cập ở đây là Gorbachev.
Trước khi ông Nguyễn Văn Linh rời Hà Nội, Ban Đối Ngoại đã liên lạc với phái viên Liên Xô và được Gorbachev đồng ý sẽ có cuộc gặp vào ngày 8-10-1989, hai bên đều mang theo phiên dịch Nga-Việt và Việt-Nga cho cuộc gặp. Hôm đó, ông Linh đang đau rất nặng. Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau phần đọc diễn văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, “Gorby! Gorby!”. Anh Linh chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: “Tao lạnh quá”. Tôi phải nói với một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: “Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm”. Viên tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: “Mình thấy có gì đó không bình thường, không nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định đó là triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với “bạn”. Phía CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.
Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: “Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: “Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: “Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!”. Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: “Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước”.
Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong “tình hữu nghị thắm thiết”.
Tối 8-10-1989, từ lâu đài của Gorbachev trở về, ông Nguyễn Văn Linh không dự chiêu đãi của Honecker mà đi thẳng vào bệnh viện Chính phủ ở Berlin-Buch. Ông được điều trị tại “Station 7” - nơi dành riêng cho Bộ Chính trị của CHDC Đức - mỗi khu cho một bệnh nhân có nhiều phòng cạnh nhau cho tùy tùng đi theo  cùng ở. Trong “Station  7” được trang bị truyền hình có thể bắt được các kênh phát đi từ Tây Đức. Thời gian đó, hàng trăm nghìn người dân Đông Đức đã đổ xuống đường phố Leipzig và Đông Berlin đòi phế truất Honecker.
Sau lễ mừng Quốc khánh, Honecker cũng phải vào “Station 7”, nơi ông ta có một biệt thự riêng ở đó. Honecker cầu cứu Gorbachev nhưng cũng như với Nguyễn Văn Linh, Gorbachev lại lịch sự từ chối. Ông Lê Đăng Doanh kể: “Tôi dịch cho ông Linh những thông tin trên truyền hình: Cảnh sát và người biểu tình đụng độ nhau ở khắp nơi. Cộng hòa Dân chủ Đức nói đã có 160 cảnh sát bị thương”.
Nhưng cảnh sát không thể ngăn chặn những cuộc biểu tình của người dân Đức. Ngày 18-10-1989, Eric Honecker từ chức, Egon Krenz, một ủy viên Bộ Chính trị trẻ tuổi, thay ông giữ chức bí thư thứ nhất. Ông Lê Đăng Doanh kể: “Tình hình cũng không vì thế mà có cải thiện. Chúng tôi lo lắng, nhỡ có chuyện gì xảy ra khi đang còn ở đây thì nguy, trong túi thầy trò không hề có một đồng đô-la lận lưng nào cả. Tôi bảo bác sỹ có thuốc gì tốt thì cấp cho xếp tao để ông đủ sức khỏe bay về”.
Vào lúc mười một giờ ngày 23-10-1989, trước khi rời Berlin, ông Nguyễn Văn Linh đã đến chúc mừng Egon Krenz vừa lên nhận cương vị mới. Cuộc gặp vừa để chúc mừng Egon Krenz, vừa để đưa tin công khai về sự vắng mặt dài ngày của ông Linh. Ông Linh là vị nguyên thủ duy nhất kịp bắt tay Krenz. Ngày 24-10-1989, toàn thể Bộ Chính trị và Đại Sứ CHDC Đức ra tận cầu thang sân bay Gia Lâm đón Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Lễ đón rất trọng thị, mọi người thăm hỏi sức khỏe và khuyên ông Linh nghỉ một thời gian để chữa bệnh tiếp.
Không chỉ có Erich Honecker và người kế nhiệm, ông Egon Krenz, theo Gorbachev thì chính phương Tây cũng có nhiều nỗ lực để ngăn chặn quá trình thống nhất nước Đức. Từ Thatcher (Anh), Mitterrand  (Pháp) cho đến Andreotti  (Ý ) đều “muốn ngăn chặn người Đức thống nhất thành một quốc gia hùng mạnh trở lại và họ chờ đợi Liên Xô đưa xe tăng vào Đức cùng với quân lính của Gorbachev”. Nhưng, theo Gorbachev: “Sự sụp đổ của bức tường Berlin chỉ là hồi chót của một quá trình đã diễn ra từ rất lâu. Khi Liên Xô bắt đầu tiến hành một loạt thay đổi mang tính bước ngoặt, như tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên… Khi tiến trình giải trừ quân bị bắt đầu giữa Nga và Mỹ để chấm dứt Chiến tranh Lạnh”115.
Ngày 9-11-1989, biên giới giữa Đông và Tây Đức được mở ra. Ngày 10-11-1989, người dân bắt đầu phá bỏ bức tường Berlin. Vài tháng sau, chế độ cộng sản ở Đông Đức sụp đổ. Cũng trong ngày 10-11-1989, Todor Zhivkov cũng bị phế truất sau ba mươi năm trị vì ở Bulgaria. Tại Praha, người dân đổ ra đường yêu cầu Husak từ chức. Alexander Dubcek, người bị Liên Xô bắt giữ hồi “Mùa xuân 1968” bắt đầu xuất hiện cùng với đoàn người biểu tình. Một tháng sau đó Husak từ chức. Ngày 29-12-1989, Vaclav Havel, được bầu làm tổng thống đầu tiên của Tiệp khắc.
Ở Rumani, chế độ của nhà độc tài Ceausescu đã phải sụp đổ trong một cuộc biểu tình đẫm máu. Lực lượng an ninh Rumani tấn công những người biểu tình trong khi quân đội ủng hộ dân chúng. Hàng trăm người dân bị giết chết. Chỉ hơn một tháng rưỡi sau khi tán đồng với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tổ chức một hội nghị quốc tế cứu vãn phe xã hội chủ nghĩa, ngày 25-12-1989, Tổng Bí thư Nicole Ceausescu và vợ ông đã bị những người biểu tình đem ra xử bắn.
“Đa nguyên, đa đảng”
Giữa năm 1987, Câu lạc bộ Những người kháng chiến cũ ra đời. Sáng lập Câu lạc bộ là những người cộng sản lão thành như Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Trần Văn Giàu, Trần Nam Trung, Trần Bạch Đằng... Nhưng, ngay từ đầu Câu lạc bộ Kháng chiến cũ đã gây lo ngại cho chính quyền bởi những hoạt động như: “Hội thảo, mít tinh, kiến nghị, viết báo, ra báo nhằm các mục tiêu cụ thể chống tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, ức hiếp trù dập quần chúng, tham nhũng, bè phái, bao che lẫn nhau vì đặc quyền, đặc lợi trong hàng ngũ cán bộ đảng và nhà nước”.
Tháng 9-1988, Câu lạc bộ xuất bản tờ Truyền Thống Kháng Chiến nhưng sau khi ra được hai số thì bị đóng cửa. Những người chủ trương quyết định phát hành báo trong bí mật. Khi công an “tấn công và thu hồi các bản in ở Sài Gòn”, Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng đưa tờ báo chạy xuống Mỹ Tho, vừa làm chế bản xong thì Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy ra lệnh không cho nhà in in báo. Những người kháng chiến cũ lại phải chạy xuống Cần Thơ. Nhưng hai mươi ngàn tờ báo vừa mới in ra thì có lệnh tịch thu. Ngay sau đó chính quyền đóng cửa vĩnh viễn Truyền Thống Kháng Chiến. Những người có vai vế như Trần Văn Trà, Trần Bạch Đằng rút lui khỏi Câu lạc bộ. Ông Nguyễn Văn Linh lo sợ tất cả các hoạt động dưới hình thức tổ chức cho dù tổ chức đó do ai lập ra.
Tháng 10-1988, hai đảng Dân chủ và Xã hội bị ông Nguyễn Văn Linh giải tán bằng cách yêu cầu hai đảng này tự tuyên bố “kết thúc hoạt động”. Cho dù, ông Linh biết rõ: “Tuy mang danh hiệu là Đảng Xã hội (và Dân chủ) Việt Nam, nhưng đa số các đảng viên (của hai đảng này) đều có mục đích và tôn chỉ hoạt động giống như những người cộng sản”116. Trên thực tế cả hai đảng đều được lập ra theo chỉ thị của Hồ Chí Minh nhưng “máu mủ” không phải là điều mà ông Nguyễn Văn Linh tin là có thể đem ra đảm bảo117.
Lễ tuyên bố kết thúc hoạt động của các đảng Dân chủ và Xã hội được “tổ chức trọng thể” vào ngày 15-10-1988 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Diễn văn “Tổng kết 42 năm hoạt động” của đảng Dân chủ được Tổng thư ký Nguyễn Xiển đọc thừa nhận: “Đến thời kỳ này, hầu hết đảng viên Đảng Xã hội Việt Nam đã tuổi cao, sức yếu”. Cho dù ông Nguyễn Xiển khẳng định “một lòng trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, khi đọc diễn văn đáp lại, ông Nguyễn Văn Linh vẫn cho rằng: “Các đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình”. Sau tuyên bố này của Tổng Bí thư, tên tuổi hai đảng không bao giờ còn được nhắc tới nữa118.
Giải quyết xong tình trạng “đa đảng”, ông Nguyễn Văn Linh bắt tay xử lý vấn đề “đa nguyên”. Các cuộc đụng độ trên mặt trận này bao gồm cả con người chứ không chỉ đơn thuần lý luận. Cho tới lúc đó, “đa nguyên” chưa xuất hiện trên báo chí như là một vấn đề mang tính chính trị. Tháng 10-1988, nhân có cuộc hội thảo diễn ra tại Hà Nội của các nhà khoa học xã hội đến từ các nước xã hội chủ nghĩa, ông Trần Xuân Bách, với tư cách là ủy viên Bộ Chính trị phụ trách Khoa-Giáo,  đã tới dự và phát biểu khai mạc. Bài phát biểu của ông Trần Xuân Bách bắt đầu chạm tới những vấn đề cốt lõi của lý luận và rồi sẽ bị coi như là những “lệch lạc” bước đầu.
Ông Trần Xuân Bách cho rằng chủ nghĩa xã hội mà Karl Marx dự báo “có những điểm không hoàn toàn khớp với hiện thực bảy mươi năm qua”119, trong khi: “Chủ nghĩa tư bản chứa đựng những mầm mống và tiền đề vật chất-kỹ thuật cho xã hội mới”120. Ông Bách cho rằng: “Mô hình chủ nghĩa xã hội sẽ giảm tính thuyết phục, sức hấp dẫn, nếu năng suất lao động thấp hơn chủ nghĩa tư bản, nếu mọi công dân không thực sự có quyền tự do dân chủ. Những biểu hiện dân chủ hình thức chỉ làm nảy sinh sự thờ ơ, bàng quan, làm giảm lòng tin”121. Ông Bách kêu gọi: “Các nhà khoa học xã hội Việt Nam cũng cần sử dụng đúng đắn quyền dân chủ và tự do sáng tạo của mình để nghiên cứu sâu sắc hơn, đề xuất với Đảng những ý kiến mới và cụ thể hơn liên quan đến thời kỳ quá độ… Khoa học xã hội có nhiệm vụ làm cho mọi người ý thức đầy đủ quyền tự do dân chủ của họ, giúp họ thực hiện quyền đó”122.
Theo ông Trần Trọng Tân, trong ngày báo Nhân Dân công bố phát biểu trên đây, khi gặp nhau ở Văn phòng Trung ương Đảng, ông Tân đã nói với ông Trần Xuân Bách: “Anh nói thế là sai”. Ông Bách chưa kịp trả lời thì Đào Duy Tùng, ủy viên Thường trực Bộ Chính trị tới. Trần Xuân Bách nhắc lại lời của ông Tân rồi nói: “Tôi phát biểu thế mà Hai Tân bảo sai?”. Đào Duy Tùng trả lời: “Anh nói đại sai”.
Tháng 3-1989, tại Hội nghị Trung ương 6, vấn đề “đa nguyên” bắt đầu được đưa ra. Tuy Nghị quyết chỉ nêu ngắn gọn: “Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên”. Nhưng, trong bài phát biểu bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “Hội nghị Trung ương lần này đã tỏ rõ sự nhất trí rất cao không chấp nhận tự do hóa tư sản, ‘chủ nghĩa đa nguyên’, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng. Không thể không thấy đó là âm mưu chính trị phản động của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Chúng ta quyết không mắc mưu xảo quyệt của bọn đế quốc và các loại phản động”123.
Không lâu sau đó, Trần Trọng Tân viết bài nói rõ hơn quan điểm của Trung ương “Về chủ nghĩa đa nguyên”. Sau khi dẫn gốc tiếng Anh (pluralism), tiếng Pháp (pluralisma) và ý nghĩa triết học của từ “đa nguyên”, Trần Trọng Tân viết: “Nếu hiểu đa nguyên theo nghĩa triết học thì từ lâu đã bị phê phán là sai lầm. Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên về triết học và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 vừa qua không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên không phải trong bối cảnh tranh luận về triết học… Chủ nghĩa đa nguyên mà chúng ta không chấp nhận là chủ nghĩa đa nguyên mà cốt lõi của nó là đòi sự tồn tại của đảng chống đối, của những tổ chức chính trị chống đối, bắt đầu từ việc đả kích tiến đến làm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của đảng, lái phong trào đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đề xướng một kiểu dân chủ không cần tập trung, dẫn tình hình xã hội đến chỗ hỗn loạn vô chính phủ”124.
Mùa hè năm 1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trả lời phỏng vấn báo Trud của Liên Xô. Khi phóng viên thường trú của báo này tại Đông Nam Á, Kalashnikov hỏi: “Đồng chí có cho rằng việc phản ánh trên báo chí toàn bộ sự đa nguyên của các ý kiến là điều có thể có không?”. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trả lời: “Dân chủ cần phải tồn tại trong khuôn khổ tập trung và phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng Marxist-Leninist, cần phải kiên quyết tránh để xuất hiện trên báo chí các phát biểu vô chính phủ, xa lạ với chủ nghĩa xã hội”125.
Không giới hạn những tuyên bố của mình trong phạm vi Việt Nam, ông Nguyễn Văn Linh nhấn mạnh: “Chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên như là sự đa dạng của các trào lưu chính trị khác nhau, kể cả trào lưu tư sản. Chúng tôi phản đối chế độ đa đảng, phản đối sự tồn tại của các đảng phản động, chống chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi bác bỏ những lời kêu gọi đòi hỏi sự tồn tại tự do của các trào lưu chính trị khác nhau đã xuất hiện ở một số nước. Sự đa dạng đó trên thực tế sẽ đưa đất nước chúng tôi khỏi con đường xã hội chủ nghĩa và rời bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin... Chúng tôi chăm chú theo dõi để những hiện tượng như vậy không xuất hiện ở Việt Nam. Chúng tôi cần phải đề cao cảnh giác trước những âm mưu đen tối của một số nước đế quốc đang tìm mọi cách để gây tình hình bất ổn trong sinh hoạt nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa”126.
Theo ông Hữu Thọ, khi ấy là phó tổng biên tập báo Nhân Dân: “Ông Linh yêu cầu người phỏng vấn phải đăng nguyên văn chứ không được cắt. Báo Trud đã phải cân nhắc khá lâu trước khi đăng”. Ông Hữu Thọ kể: “Sau khi báo Lao Động đăng lại bài phỏng vấn này, ông Trần Xuân Bách phê bình ông Linh là vi phạm nguyên tắc Đảng và nguyên tắc đối ngoại khi công khai đưa ra quan điểm trái với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Cho tới lúc ấy, Trung ương vẫn chưa chính thức có nghị quyết chống đa nguyên, đa đảng”.
Ngày 14-8-1989, trên báo Sài Gòn Giải Phóng Trần Bạch Đằng sử dụng nguyên một trang khổ lớn để bàn về đa nguyên “dưới góc độ triết học, kinh tế học và xã hội học”. Ông Đằng nhập đề khá mở: “Về chính trị, xã hội, kinh tế, đa nguyên luôn chủ trương tính đa dạng, sự khác nhau trong quan điểm, trong xu hướng. Với một nghĩa hẹp hơn, thuyết đa nguyên của một số học giả cộng sản chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội không theo một mô hình định sẵn”. Nhưng rồi ông kết luận: “Là những người theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Marx-Lenin, các đảng viên cộng sản Việt Nam xác định quan điểm triết học của mình và kiên trì bảo vệ nó. Coi nó là thế giới quan, nhân sinh quan khoa học đứng vững qua thử thách 1,5 thế kỷ. Nói một cách khác về triết học, chúng ta không chấp nhận thuyết đa nguyên”.
Về “đa đảng”, ông Trần Bạch Đằng viết: “Đừng coi đa đảng như một thứ thời trang khi không có nhu cầu khách quan đó. Cái then chốt của chúng ta là dân chủ. Xã hội và quần chúng đã có trong tay rất nhiều công cụ để thực hiện dân chủ như quốc hội, hội đồng nhân dân, đoàn thể rồi”. Ông Trần Bạch Đằng đặt câu hỏi: “Phải chăng đổi mới là phải xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản Việt Nam, phải có các sự kiện như Công đoàn Đoàn kết, như khôi phục Imre Nagy, như va chạm sắc tộc ở Grudia, như đổ máu ở Thiên An Môn?”. Rồi ông trả lời: “Không! Vẫn có con đường đổi mới đích thực mà không ồn ào như vậy”.
Như để trả lời từng luận điểm của ông Trần Bạch Đằng, ngày 15-8-1989, Tổng Biên tập Tô Hòa cho đăng trên Sài Gòn Giải Phóng bài viết về “Dân Chủ” của Giáo sư Phan Đình Diệu. Giáo sư Diệu định nghĩa: “Dân chủ là quyền tham gia vào việc tổ chức và quản lý xã hội, thể hiện ở quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do khác”. Giáo sư Phan Đình Diệu cho rằng: “Thực tiễn cuộc sống ở đất nước ta cũng như thế giới đang đặt ra những vấn đề to lớn mà không thể tìm ra lời giải đáp hoàn toàn ở bất kỳ một học thuyết nào… Những gì xảy ra trong thế kỷ hai mươi là điều không thể hình dung đối với những bộ óc, dù là vĩ đại, của giữa thế kỷ mười chín”.
Tuy không sử dụng khái niệm đa nguyên, nhưng Giáo sư Phan Đình Diệu vẫn nêu đầy đủ “nội hàm” của nó: “Ta đang đi tìm đường đi cho đất nước trong thế giới hiện đại. Nhiều nguồn tri thức phải được tiếp thu, nhiều cách lý giải phải được đề xuất và thảo luận. Cái gì đã rõ thì ta cũng theo, cái gì chưa rõ thì ta cần cùng nhau tìm cách làm rõ bằng việc vận dụng trí tuệ của thời đại”. Sau khi đọc bài của Giáo sư Phan Đình Diệu, từ Hà Nội, Bí thư Trần Xuân Bách gửi cho Tô Hòa một tấm danh thiếp của ông, mặt sau danh thiếp ghi: “Chuyển giùm anh Phan Đình Diệu, tôi ca ngợi bài này”.
Đây là bài báo cuối cùng mà Tô Hòa cho đăng với tư cách tổng biên tập Sài Gòn Giải Phóng. Ngày 12-8-1989, ông được Bí thư Thành ủy Võ Trần Chí mời lên hỏi: “Trước anh có viết thư xin nghỉ, giờ anh có giữ ý kiến không?”. Tô Hòa trả lời: “Tôi vẫn giữ”. Võ Trần Chí: “Vậy khi nào anh nghỉ được?”. Tô Hòa: “Ngay hôm nay”. Theo ông Tô Hòa, sở dĩ ông đồng ý nghỉ ngay là vì, nguồn tin của ông từ Hà Nội cho hay, ông Nguyễn Văn Linh “muốn Tô Hòa rời Sài Gòn Giải Phóng trước khi Hội nghị Trung ương 7, bàn về chống đa nguyên, khai mạc tại Sài Gòn vào ngày 15-8-1989”.
Trở về tòa soạn, Tô Hòa lặng lẽ viết một lá thư chia tay đăng trên số báo ra ngày 13-8, tự quyết định là sẽ bàn giao chức tổng biên tập vào ngày 15-8-1989 để có thời gian công bố hai bài viết của Trần Bạch Đằng và Phan Đình Diệu mà ông đã có trong tay trước đó.
Từ ngày 15 đến ngày 24-8-1989, Trung ương Đảng khóa VI kỳ họp thứ 7 ở Sài Gòn bàn “một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng”. Phát biểu trong phiên bế mạc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng, hội nghị đã được nhóm họp với “sự nhạy cảm sâu sắc về chính trị”. Tình hình trong nước và trên thế giới lúc ấy được Trung ương đánh giá là “diễn biến phức tạp” và “trong một số ít cán bộ đảng viên đã xuất hiện một số tư tưởng lệch lạc, sai lầm, nếu không sớm ngăn chặn và khắc phục có thể dẫn tới những tác hại không nhỏ”.
Ông Nguyễn Văn Linh cho biết: “Hội nghị Trung ương lần này đã tỏ rõ sự nhất trí rất cao không chấp nhận tự do hóa tư sản, chủ nghĩa đa nguyên, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhằm phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng. Không thể không thấy đó là âm mưu chính trị phản động của kẻ thù giai cấp và dân tộc. Chúng ta quyết không mắc mưu xảo quyệt của bọn đế quốc và các loại phản động”. Bài phát biểu của ông Nguyễn Văn Linh được đăng công khai, ít ai hiểu, những lập luận sắt đá đó còn là để đáp trả một phát biểu của ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách chủ trương: “Kinh tế thị trường và đa nguyên chính trị”.
Cách chức Trần Xuân Bách
Ông Bách sinh năm 1926, cùng quê với ông Lê Đức Thọ. Cuối năm 1977, khi Lê Đức Thọ được Lê Duẩn giao phụ trách “công tác đặc biệt” - tên gọi của một kế hoạch bí mật chuẩn bị cho cuộc tiến đánh Pol Pot trên đất Campuchia - Trần Xuân Bách được tham gia với vai trò phụ tá. Cuối năm 1978, ông Bách được cử làm phó chính ủy của chiến dịch.
Ông Trần Xuân Bách ở lại Phnom Penh cho tới năm 1982 với chức danh chính thức là “Trưởng Đoàn B68”, chuyên gia giúp Đảng và Nhà nước Campuchia. Năm 1982, ông Trần Xuân Bách được bầu vào Ban Bí thư kiêm giữ chức chánh Văn phòng Trung ương Đảng. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, ông được bầu vào Bộ Chính trị.
Vợ ông, bà Trần Thị Đức Thịnh cho biết: “Trước Đại hội VI (1986), lấy phiếu thăm dò tổng bí thư, anh Bách hơn phiếu Phạm Hùng và chỉ kém Nguyễn Văn Linh hai phiếu”. Theo ông Nguyễn Đình Hương, phó Ban Tổ chức Trung ương khóa VI: “Khi ông Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ chọn Nguyễn Văn Linh làm tổng bí thư, ông Trần Xuân Bách phản đối. Ông Bách cho rằng Nguyễn Văn Linh chẳng có trình độ gì, khi ông Linh làm tổng bí thư rồi, ông Bách vẫn coi thường ra mặt”127. Cố vấn kinh tế của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói: “Trần Xuân Bách được Lê Đức Thọ rỉ tai: Nguyễn Văn Linh là nhân vật quá độ. Ông Linh chỉ làm nửa khóa rồi đưa ông Bách lên”. Trong Trung ương lúc bấy giờ bắt đầu có tin Bí thư Trần Xuân Bách ngầm xung đột với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh128.
Khi đề cập đến vấn đề “đa nguyên” trong Hội nghị Trung ương 6, tháng 3-1986, và sau đó đưa ra Hội nghị Trung ương 7, tháng 8-1989, như một nội dung chính của kỳ họp, không những ông Nguyễn Văn Linh có thể làm suy yếu Trần Xuân Bách mà còn có thể tập hợp được sự ủng hộ của một nhà lý luận miền Bắc: Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Đào Duy Tùng. Tất nhiên, “chống đa nguyên” còn phản ánh quan điểm của ông Nguyễn Văn Linh trước những gì diễn ra trong phe xã hội chủ nghĩa ở thời điểm ấy.
Những diễn tiến quốc tế ấy giải thích thêm vì sao sau Hội nghị Trung ương 7 (8-1989) một nhà chính trị kinh nghiệm như ông Trần Xuân Bách vẫn tiếp tục trình bày công khai quan điểm của ông về đa nguyên. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Những lời rỉ tai của Lê Đức Thọ và sức khỏe của ông Nguyễn Văn Linh có lẽ là một nguyên nhân khiến ông Trần Xuân Bách nghĩ rằng thời cơ đã đến để Việt Nam có thể đi theo xu thế chung của thời đại”.
Trong năm 1989, ông Nguyễn Văn Linh đã từng phải đi Liên Xô làm phẫu thuật cắt một đoạn ruột. Ngày 23-10-1989, khi từ Berlin trở về, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh được đón tiếp rất trọng thể. Toàn bộ các ủy viên trong Bộ Chính trị đã ra sân bay đón ông. Nhưng, ngay sau khi xuống sân bay, ông Linh đã phải vào bệnh viện. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Ông Trần Xuân Bách càng đẩy nhanh các hoạt động của mình”.
Ông Lê Đăng Doanh cho rằng, Văn phòng Trung ương cho tới sau này vẫn in dấu ấn của Trần Xuân Bách, người thiết lập một mô hình và cung cách làm việc khá là khoa học kể từ khi nhậm chức chánh văn phòng. Sau Đại hội V, theo ông Lê Đăng Doanh: “Thường Lê Đức Thọ không dự họp Bộ Chính trị. Họp xong, ông Bách đi báo cáo cho ông Thọ và ông Thọ thường cho những ý kiến khác khiến ông Bách phải tìm cách lèo lái”.
Năm 1989, với tư cách là người phụ trách công tác lý luận của Đảng, ông Trần Xuân Bách chính thức hình thành một nhóm nghiên cứu gồm năm người: Lê Hồng Tâm, nhà kinh tế, Vũ Cao Đàm, viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, Bùi Thế Vĩnh, viện trưởng Viện Hành chính học, Học viện Hành chính Quốc gia, Nguyễn Mạnh Tôn, chuyên viên Ngân hàng Ngoại thương và Nguyễn Thanh Sơn, chuyên viên Ban Công nghiệp Trung ương.
Theo ông Vũ Cao Đàm: “Anh Bách giao cho mỗi người chúng tôi phụ trách một chuyên đề: Lê Hồng Tâm nghiên cứu về chính sách kinh tế để phục hưng đất nước. Bùi Thế Vĩnh nghiên cứu biện pháp giải phóng lực lượng sản xuất. Vũ Cao Đàm nghiên cứu hệ thống chính trị trong tiến trình cải cách kinh tế. Nguyễn Thanh Sơn nghiên cứu chính sách phát triển nhân lực. Nguyễn Mạnh Tôn nghiên cứu biện pháp chống lạm phát”129.
Ông Vũ Cao Đàm nói: “Trước khi khai mạc Hội nghị Trung ương 7, anh Trần Xuân Bách chuẩn bị bài phát biểu, trong đó đề cập hai nội dung về kinh tế thị trường và đa nguyên chính trị. Anh đưa bài phát biểu cho nhóm chúng tôi thảo luận để đóng góp ý kiến. Khi đó, tôi có nêu câu hỏi: ‘Anh cân nhắc thêm, xem phát biểu bây giờ liệu có quá sớm không?’. Anh Bách đã trả lời ý là không quá sớm và cũng không quá muộn”.
Bà Trần Thị Đức Thịnh kể, ông tỏ ra rất quyết tâm. Khi bà Thịnh khuyên: “Anh ơi, chưa đúng lúc, anh đưa ra bây giờ không ai ủng hộ đâu”. Ông suy nghĩ một lúc rồi nhỏ nhẹ nói với vợ: “Hay để anh lo nhà cửa cho ba mẹ con em rồi chúng ta li dị để ba mẹ con em không phải liên lụy nhé!”. Họ đã không li dị cho dù sau đó ông Trần Xuân Bách vẫn phát biểu về “đa nguyên” trước Trung ương.
Theo ông Vũ Cao Đàm, ông Trần Xuân Bách có hai lần đưa quan điểm của mình thảo luận trong khuôn khổ những diễn đàn rộng hơn: một lần với các nhà khoa học tại phòng họp của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở số 53
Nguyễn Du, Hà Nội; một  lần cũng với các nhà khoa học tại phòng  họp của Ban Khoa  giáo  Trung ương  Đảng ở số 10
Nguyễn Cảnh Chân. Còn một cuộc nói chuyện công khai nữa của ông Bách ở Ký túc xá Ngô Gia Tự, Sài Gòn, thì ngay cả những người giúp việc cũng không biết đến. Theo ông Kiều Xuân Long, vụ phó Vụ Công tác phía Nam của Ban Khoa giáo Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh, người đưa ông Trần Xuân Bách xuống Ký túc xá Ngô Gia Tự: “Chuyến đi của ông Trần Xuân Bách làm cho Thành ủy và nhiều người không thích. Về sau ông Bách bị quy kết là đã thực hiện mục đích lôi kéo sinh viên”.
Trong số các sinh viên dự nghe ông Trần Xuân Bách có Nguyễn Sơn Thủy Hùng, người bị bắt trong vụ Công viên Kỳ Hòa mùa hè năm 1989. Sau khi được tạm tha, Hùng cùng ba sinh viên khác bị “cấm đi khỏi nơi cư trú”, bởi vậy, suốt mùa hè năm 1989, anh phải ở lại ký túc xá Ngô Gia Tự tuy đã hoàn thành năm học cuối cùng. Nguyễn Sơn Thủy Hùng kể: Vào một ngày mưa lâm râm giữa tháng 9-1989, cô Mai Vinh, trưởng Ban Quản lý Ký túc xá mời các sinh viên đến hội trường “nghe lãnh đạo nói chuyện”. Từ khi được báo cho đến khi ông đến chỉ trong vòng 15 phút, khoảng 200 sinh viên trong ký túc xá ngồi nghe ông Bách nói chuyện suốt gần ba giờ.
Theo ông Kiều Xuân Long, ông Trần Xuân Bách rất ấn tượng khi thấy không có sinh viên nào nói đến cơm áo gạo tiền cho dù lúc đó các em rất thiếu thốn. Sinh viên đặt những câu hỏi, nêu những vấn đề ở tầm quốc tế, quốc gia, cho thấy các em rất quan tâm tới chính trị và tình hình đất nước. Bằng một phong thái nhẹ nhàng, ông Trần Xuân Bách phân tích tình hình Liên Xô và Đông Âu với sinh viên. Ông nói: “Xu hướng thời đại giờ đây là phải chống độc đoán. Xã hội muốn phát triển thì phải có đấu tranh giữa các mặt đối lập. Muốn có đấu tranh, phải phát huy dân chủ, muốn dân chủ thì phải tôn trọng nhân quyền. Mô hình các nước xã hội chủ nghĩa thực chất là đã không tuân thủ các nguyên tắc này. Hôm nay, chú chỉ nói với các cháu xu hướng của thời đại, của thế giới. Các cháu lớn rồi, tự các cháu suy nghĩ và quyết định”.
Cũng như khi nói chuyện ở Ký túc xá Ngô Gia Tự, trong cuộc nói chuyện ở 53 Nguyễn Du, ông Trần Xuân Bách không hề sử dụng trực tiếp từ “đa nguyên”. Dù rằng ông đã khéo léo để trình bày khá đầy đủ quan điểm của ông: “cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách chính trị”130. Ông Trần Xuân Bách nhắc lại điều mà ông nói trước cuộc hội thảo của các nhà xã hội học tháng 10-1988 rằng, “chủ nghĩa tư bản hiện đại, có nhiều cái khác với thời Mác”. Ông nói, phải có tư duy khoa học chứ “tụng từng câu Kinh Thánh trong sách Mác không bảo vệ được chủ nghĩa Mác đâu”131.
Cuộc nói chuyện ở 53 Nguyễn Du vào ngày 13-12-1989 được coi như “giọt nước tràn ly”. Phát biểu của ông Trần Xuân Bách được Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ lược ghi, quay ronéo và phổ biến. Bài viết định đăng trên tờ báo Khoa Học & Tổ Quốc của Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật, số ra ngay sau đó nhưng không thành. Tới số 3-1990, Khoa Học & Tổ Quốc mới cho đăng một tin ngắn về sự kiện Trần Xuân Bách nói chuyện tại 53 Nguyễn Du, đồng thời trên hai số liên tiếp, 3 và 4-1990, Khoa Học & Tổ Quốc cho đăng hai bài viết, một của ông Đỗ Đức Dục, cựu tổng thư ký Đảng Dân chủ và ông Đặng Kim Giang, ký tên là Lương Dân, nói về “đa nguyên, đa đảng”.
Tổng thư ký tòa soạn tờ Khoa Học & Tổ Quốc lúc đó, ông Phạm Quế Dương, kể: “Đoạn cuối trong bài của ông Đỗ Đức Dục kêu gọi ‘đa nguyên, đa đảng’, tôi định cắt nhưng ông Trần Văn Giàu khi đó là chủ tịch danh dự của Liên hiệp hội đọc và không cho tôi cắt. Báo vừa ra thì bị tịch thu và công an khởi tố vụ án”.
Đầu năm 1990, sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Đông Âu, các tổ chức “người Việt chống Cộng” ở nước ngoài, kể cả các tổ chức trước đó chủ trương vũ trang lật đổ, cũng bắt đầu ra nhiều tuyên ngôn, tuyên cáo, kêu gọi “chuyển lửa về quê hương”. Đặc biệt là bức tâm thư của nhóm các “trí thức thiên tả” ở nước ngoài, những người một thời đã đứng về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Ngọc Giao, một trí thức Việt kiều tại Pháp đã từng phiên dịch cho Lê Đức Thọ thời kỳ Hội đàm Paris: “Ngay trong nội bộ phong trào Việt kiều ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng đã có ít nhất bốn bản tâm thư kêu gọi dân chủ hóa đời sống chính trị Việt Nam, song bản tâm thư mà chúng tôi công bố có tiếng vang hơn cả, có lẽ vì nó tập hợp rộng rãi những thành viên tiêu biểu ở các nước, nội dung thể hiện một lập trường chân thành và trách nhiệm, kiên quyết mà ôn hòa”132.
Ngày 22-1-1990, nhóm Nguyễn Ngọc Giao gửi về Việt Nam bản Tâm Thư kêu gọi cải cách với mức khởi đầu có ba mươi người ký, gồm: Vĩnh Anh (Canada), Lê Văn Cát (Tây Đức), Huỳnh Trí Chánh (Nhật), Nguyễn Văn Chuyển (Nhật), Lê Văn Cường  (Pháp),  Nguyễn Ngọc Giao  (Pháp),  Lê Thành Khôi (Pháp),  Lâm Thành Mỹ (Pháp),  Bùi Văn Nam Sơn (Tây Đức), Phạm Ngọc Thuần (Pháp), Trương Phước Trường (Úc)…133.
Đầu năm 1990, bệnh tình của Lê Đức Thọ bắt đầu chuyển nặng trong khi sức khỏe của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã được cải thiện nhiều.
Theo ông Lê Đăng Doanh: “Ông Nguyễn Văn Linh bắt đầu ra tay. Ông Đỗ Mười ủng hộ. Để có thể bàn việc kỷ luật Trần Xuân Bách mà không có Trần Xuân Bách, thay vì Bộ Chính trị họp chính thức, ông Linh có sáng kiến để cho Phạm Văn Đồng, lúc này là cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, mời các ủy viên Bộ Chính trị tới nhà ông họp. Cuộc họp đầu tiên của Bộ Chính trị để phê phán Trần Xuân Bách bắt đầu vào ngày 2-2-1990 tại nhà riêng Phạm Văn Đồng”.
Tại Hội nghị Trung ương 8, khóa VI, họp trong Nhà Rùa, nằm cạnh khu Biệt thự Tây Hồ, kéo dài từ ngày 12 đến 27-3- 1990, Trần Xuân Bách bị phê phán nặng nề suốt gần một tuần và theo ông Lê Đăng Doanh, người có mặt tại Nhà Rùa trong suốt mười lăm ngày hội nghị: “Trong hai lần phát biểu ý kiến vào ngày 17 và 27-3-1990, ông Bách đã đơn thương, độc mã phê bình Nguyễn Văn Linh gay gắt”.
Phía những người muốn loại trừ ông Bách cũng có những cân nhắc, theo ông Trần Trọng Tân: “Tôi có nói với Võ Chí Công là kỷ luật Trần Xuân Bách phải nên tính toán thế nào để tránh bị bên ngoài lợi dụng. Võ Chí Công nói Bộ Chính trị đã có tính toán. Lúc đầu Ủy ban Kiểm tra cũng dự kiến chỉ khiển trách trong Trung ương. Nhưng, Trần Xuân Bách cương quá lại còn nói như dạy cho các ủy viên khác về đa nguyên nên nhiều người tức”.
Ngày Chủ nhật 25-3-1990, Bộ Chính trị lại họp tại nhà Phạm Văn Đồng. Cố vấn Phạm Văn Đồng được Bộ Chính trị nhờ làm trung gian thương lượng với Trần Xuân Bách. Ngày 27-3-1990, vào lúc 6 giờ 30 sáng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Xuân Bách sang gặp, nói: “Nếu hôm nay anh nhận lỗi thì sẽ giữ anh lại trong Trung ương. Nếu không nhận lỗi thì anh chỉ còn là đảng viên thường thôi”. Trần Xuân Bách đứng lên: “Tôi có lỗi gì đâu”. Phạm Văn Đồng khuyên: “Có lúc cũng phải mềm dẻo để tồn tại, khi gặp thời thế lại đứng lên”. Nhưng, Trần Xuân Bách nói: “Tôi có lỗi thì mới nhận được, không có lỗi mà nhận sẽ tạo ra một tiền lệ xấu cho những đồng chí khác”. Rồi Trần Xuân Bách đi về nhà, chọn bộ đồ sang trọng nhất: sơ mi trắng, vét đen mặc vào, đàng hoàng đi ra Nhà Rùa. Hôm ấy Trung ương biểu quyết, kỷ luật cách hết mọi chức vụ của ông.
Vợ ông, bà Trần Thị Đức Thịnh được tin chồng mình bị kỷ luật vào tối 28-3-1990, qua Đài Tiếng nói Việt Nam khi đang công tác ở Quảng Ninh. Phần cuối “Thông báo của Ban Chấp hành Trung ương” được đọc trên Đài và đăng trên các báo vào sáng hôm sau viết: “Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VI) đã quyết định cách chức ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Trung ương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách, vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu”.
Bà Thịnh kể: Tối hôm đó về tới nhà, anh kêu tôi ngồi xuống: “Em bình tĩnh, để anh nói em nghe”. Tôi bảo: “Trên ô tô em đã nghe Đài nói rồi. Anh đã không đội ghế lên đầu, từ bỏ những điều mà mình tin là đúng. Anh yên tâm, anh của em sẽ có sự nghiệp”. Anh ôm lấy tôi, nước mắt hai hàng: “Thịnh ơi anh đã không nhầm khi chọn em”134.
Đêm ấy, khi dọn đồ, bà Thịnh nhìn thấy một gói nhỏ trong có hai bộ quần áo màu cứt ngựa, hai áo may ô, hai quần đùi, vài thứ thông dụng và một mảnh giấy: “Nếu người ta đưa anh đi luôn thì em gửi mấy thứ này vào cho anh”. Bà sững sờ, thì ra, trong buổi sáng 27-3-1990, sau khi gặp Phạm Văn Đồng, Trần Xuân Bách đã chuẩn bị cho mình khả năng bị bắt. Ngay lúc đó, bà Thịnh tự nhủ: “Mình phải không để cho ai biết là mình buồn, mình khổ, nhất là những người ghét chồng mình nhất”. Bà nói với ông Bách: “Kể cả em phải ra đường bưng mẹt thuốc lá để bán em cũng ráng nuôi con ăn học, anh yên tâm”. Trong thời gian Trung ương đang kiểm điểm Trần Xuân Bách, bà Thịnh cho biết: “Ông Nguyễn Văn Linh mấy lần nhắn tôi sang nói chuyện để về thuyết phục anh Bách. Nhưng tôi không sang”135.
Tuy vẫn được ở lại tòa biệt thự cũ thêm một thời gian, nhưng năm ngày sau Hội nghị Trung ương 8, tiêu chuẩn sữa tươi cho ủy viên Bộ Chính trị, 2 lít/ngày, mà Ban Tài chính Quản trị Trung ương vẫn cung cấp cho ông, bị cắt. Khi ông Bách còn tại chức, ngày nào cửa hàng Tôn Đản cũng mang tới tận nhà ông nào thịt, nào cá tươi, gạo ngon, sau khi ông ra khỏi Trung ương, mọi thứ không còn nữa.
Từ năm 1984-1989, bà Thịnh vừa làm việc ở Ban Tài chính Quản trị Trung ương vừa đi học Đại học Thương mại tại chức. Khi ông Trần Xuân Bách còn đương chức, đích thân một thứ trưởng Bộ Thủy sản đến tận nhà “xin” bà Trần Thị Đức Thịnh về công tác tại Seaprodex. Quyết định điều động bà Thịnh về Seaprodex được ký vào ngày 15-2-1990. Chưa kịp bố trí chức vụ cho bà thì ông Trần Xuân Bách mất chức. Bà Thịnh nhớ lại: “Họ cử tôi ra đứng vỉa hè giữ xe gắn máy cho khách đến liên hệ với cơ quan”. Bà nói: “Tôi không để anh ấy biết, tôi không muốn anh ấy bị hẫng. Tôi tự đi mua sữa tươi, vẫn ngày hai lít. Anh tưởng tôi vẫn lấy sữa của Trung ương, kiên quyết bảo tôi phải từ chối. Suốt ba năm người ta không trả lương cho anh, còn tôi thì cả năm không được giao việc”.
Để nuôi chồng và hai con ăn học, bà Thịnh kể: “Tối tối, tôi xin đi rửa chén ở các nhà hàng. Tôi phải đi xa, trùm khăn kín mặt cả mùa đông lẫn mùa hè để không có ai nhận ra. Có thời gian, cứ nửa đêm, tôi nhận đi áp tải các xe chở sắt cho các công trường xây dựng. Chở sắt sang Gia Lâm, tôi được trả ba đồng một đêm. Anh thấy tôi đi sớm, về khuya, tưởng tôi vẫn được trọng dụng”.
Bà Thịnh kể tiếp: “Mấy năm sau, có người bạn cũ gặp lại mời tôi đi ăn bún chả. Tôi ăn một mạch hết hai bát, không còn nhớ đến có ai ở xung quanh. Ăn xong, tôi thú thật với bạn tôi, suốt hai năm trời tôi không hề được ăn một miếng thịt vì có miếng nào lại để dành cho chồng, cho con. Thỉnh thoảng, đợi anh đi ngủ tôi mới lấy miếng cơm cháy, rưới ít mỡ vào, đốt lên bếp may xo, ngồi ăn cho đỡ thèm chất mỡ. Nhưng, điều khó khăn nhất của tôi là chứng kiến sự ghẻ lạnh. Kể từ sau khi anh mất chức, những ai đã từng cười với tôi mấy lần ở đâu, tôi vẫn còn nhớ rõ và vô cùng biết ơn họ”.
Hơn một tháng sau ngày Trung ương kỷ luật Trần Xuân Bách, tại miền Nam, Tạ Bá Tòng, Hồ Hiếu, Đỗ Trung Hiếu bị bắt. Một người ủng hộ Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ, ông Lê Đình Mạnh, sau đó cũng bị bắt theo. Trước đó, vào ngày 21-3-1990, ông Nguyễn Hộ bỏ Sài Gòn về Phú Giáo, một vùng đất cách Sài Gòn sáu mươi cây số. Ngày 7-9-1990, khi ông Nguyễn Hộ đang bơi xuồng trên sông Sài Gòn thì bị bắt. Ông bị giam tại Xuân Lộc bốn tháng, sau đó được đưa về quản thúc tại nhà riêng trên đường Võ Văn Tần.
Dù vậy, các nhà trí thức trong nước vẫn lên tiếng mạnh mẽ: Hà Sĩ Phu viết bài Dắt Tay Nhau Đi Dưới Những Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ. Hoàng Minh Chính viết Gop Ý Kiên Vê Dư Thao Cương Linh. Lương Dân “Ban Vê Sư Lanh Đao Cua Đang”. Phan Đình Diệu “Kiên Nghi Vê Môt Chương Trinh Câp Bach Nhăm Khăc Phuc Khung Hoang Va Tao Điêu Kiên Lanh Manh Cho Sư Phat Triên Đât Nươc”. Trần Quốc Vượng viết Nôi Ám Ảnh Cua Qua Khư. Nữ nhà văn Dương Thu Hương dự đoán “nếu Đảng không cải cách sẽ có một cuộc lưu huyết”136.
Cuối năm 1990, Đại tá Bùi Tín, phó tổng biên tập báo Nhân Dân, quyết định ở lại Paris sau chuyến đi Pháp dự lễ kỷ niệm ngày thành lập báo Humanité. Từ Paris, vào lúc 21 giờ 30 ngày 26-11-1990, Đại tá Bùi Tín gửi về nước “Bản Kiến nghị của một công dân” và sau đó liên tục trả lời phỏng vấn Trưởng ban Việt ngữ BBC Đỗ Văn, kêu gọi “xây dựng một chế độ dân chủ thực sự có tính chất nhân dân” và đề nghị “đổi tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam, thực hiện hòa giải dân tộc, thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị không liên kết và hợp tác với tất cả các dân tộc”.
Trong khi dân chúng, đặc biệt là cán bộ đảng viên, lặng lẽ đón nghe từng buổi phát thanh của đài BBC, nhân bản các phát biểu của nhà báo Bùi Tín, truyền đọc và bình luận thì Ban Bi thư có hai thông báo cho rằng “Bùi Tín đã có những hoat đông sai trai ơ Phap”. Sau khi nhắc lại “môt sô quan hê nam nư bât chinh” của Bùi Tín và tố cáo ông “co con trai chay sang Hông Kông giưa năm 1989 nhưng không bao cao vơi cơ quan va chi bô Đang”, Ban Bí thư cho rằng: “Cac thê lưc phan đông đa lơi dung va lôi keo Bùi Tin đê phuc vu âm mưu cua chung hong chông pha cach mang nươc ta, thưc hiên diên biên hoa binh, bôi xâu Đang va Nha nươc ta, chia re nhân dân va Đang”137. Sự kiện Bùi Tín càng củng cố những lo lắng của ông Nguyễn Văn Linh đối với giới văn nghệ sỹ.
Cũng trong thời gian đó, một số tổ chức Việt kiều và các nhà văn nước ngoài bắt đầu liên lạc gặp gỡ, mời các nhà văn trong nước đi ra nước ngoài. Trong một số lần gặp gỡ những chức sắc văn nghệ, ông Nguyễn Văn Linh cho rằng những người này đã được các “thế lực phản động nước ngoài nuôi dưỡng”. Các văn kiện chính thức cũng xếp những phát biểu này vào danh mục những “bai noi, bai viêt chông đôi chê đô va sư lanh đao cua Đang”138. Trước Đại hội lần thứ VII, tháng 6-1991, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ra lệnh bắt giam nhà văn Dương Thu Hương139.
Kết thúc “trăng mật” với báo giới
Năm đầu tiên trên cương vị tổng bí thư, ông Nguyễn Văn Linh được gọi là “người đổi mới”. Không chỉ vì truyền thông nhà nước có truyền thống chỉ nói những điều tốt đẹp về các nhà lãnh đạo, cá nhân Nguyễn Văn Linh cũng tạo được nhiều thiện cảm với báo chí. Ông xuất hiện ở Hà Nội như một chính khách thay vì với cung cách “lãnh tụ” như những người tiền nhiệm.
Thời bao cấp, du lịch là một khái niệm không tồn tại đối với thường dân. Những cán bộ có thành tích lâu lâu mới được công đoàn cho đi “nghỉ mát”. Những khu du lịch nổi tiếng thường chỉ đón các nhà lãnh đạo đến làm việc và nghỉ ngơi. Những biệt thự tốt nhất ở Đồ Sơn, Tam Đảo, Sapa và sau năm 1975, ở Vũng Tàu, Đà Lạt thường được dành riêng để “xuân thu nhị kỳ” lãnh đạo và gia đình đến ở. Dưới thời Nguyễn Văn Linh, quỹ biệt thự này được giao cho Ban Tài chính Quản trị làm “kinh tế Đảng” thay vì giữ  cho lãnh đạo sử dụng riêng. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cũng không dùng chuyên cơ khi đi lại giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Ông và tùy tùng chỉ mua một khoang riêng; máy bay chở tổng bí thư vẫn được quyền bán vé phần ghế dư ra cho khách.
Trước và sau thời ông Nguyễn Văn Linh, những người giữ các chức danh tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội thường  sử dụng một máy bay riêng khi đi lại. Những  chuyến bay này gọi là chuyên cơ. Chi phí một  chuyến chuyên cơ từ Hà Nội vào Sài Gòn theo thời giá thập niên 1980 lên đến 160 triệu đồng, trong khi chi phí mua khoang của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ mất mười sáu triệu.
Năm 1989, khi Trung ương họp tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh đã yêu cầu các ủy viên Trung ương phải đi tàu hỏa. Tuy nhiên, quy định này của ông Linh chỉ áp dụng được một lần do có nhiều ủy viên Trung ương phản ứng và do đi tàu vừa mất thời gian vừa tốn kém vì ngành đường sắt không thể bán vé cho thường dân vào buồng bốn ghế nằm đã có một hai “ông Trung ương” ở đó.
Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của tổng bí thư phải là “Volga đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh: “Ông không biết rằng, để Lada có thể chở tổng bí thư, Văn phòng phải gắn thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài sân”. Ông Linh dùng Lada thì các vị lãnh đạo khác cũng phải Lada. Không ai dám nói với tổng bí thư, tuy tiền mua Lada rẻ hơn các loại "xe tư bản" nhưng tuổi thọ xe ngắn và lượng xăng sử dụng tốn hơn rất nhiều so với “xe tư bản”140.
Trong chế độ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mọi hoạt động của tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch quốc hội đều được báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam và Đài Truyền hình đưa tin. Tần suất xuất hiện của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trên truyền thông nhiều hơn vì phong cách năng động và mối giao hảo cá nhân giữa ông và báo giới. Tuy nhiên, dưới thời Nguyễn Văn Linh, trí thức, văn nghệ sỹ bắt đầu tư duy độc lập, kể cả độc lập trong cách nhìn và đánh giá vị tổng bí thư đã hô hào “cởi trói”.
Đầu tháng 6-1988, trong chuyến đi tìm hiểu về “cải tiến cơ chế khoán trong công nghiệp” ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đưa ra khái niệm “xử lý hộp đen”141. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cho rằng: “Xử lý hộp đen là cải tiến quản lý và cải tiến kỹ thuật là khâu quan trọng lúc này cũng như về lâu dài”142.
Trước đó, ngày 10-6-1988, báo Nhân Dân tổ chức cuộc trao đổi ý kiến với nhiều giám đốc về vấn đề: “Làm thế nào để xử lý hộp đen có hiệu quả theo tinh thần các nghị quyết của Đảng và nhà nước mới ban hành”. Cuộc trao đổi do tổng biên tập báo Nhân Dân chủ trì với sự tham gia của hơn hai mươi tổng giám đốc và giám đốc các doanh nghiệp lớn. Từ đó cho tới đầu tháng 7-1988, báo Nhân Dân lần lượt đăng phát biểu của nhiều giám đốc, ai cũng trăn trở: “Làm thế nào để xử lý hộp đen”. Mặc dù, ý kiến của họ cho thấy không ai thực sự hiểu như thế nào là “hộp đen” cả.
Không thể ngồi nhìn “hộp đen” cứ “quay”, Giáo sư Hoàng Tụy và Giáo sư Phan Đình Diệu đành phải viết thư gửi báo Nhân Dân. Hai nhà khoa học nói thẳng rằng, các thuật ngữ, xuất hiện thường xuyên trên báo Nhân Dân và các báo lớn, như “hộp đen”, “xử lý hộp đen” và “quay hộp đen” đã “bị hiểu sai lạc và sử dụng tùy tiện”. Sau khi dẫn các giải thích của các nhà lãnh đạo cũng như một số “nhà khoa học” đăng trên các báo, Giáo sư Hoàng Tụy và Phan Đình Diệu kết luận: “Không có một nhà điều khiển học đứng đắn nào, không có một nhà kinh tế học nghiêm chỉnh nào lại có thể hiểu về hộp đen như thế”143.
Thoạt tiên, Giáo sư Hoàng Tụy và Phan Đình Diệu gửi ý kiến của mình đến báo Nhân Dân. Nhưng báo Nhân Dân lờ đi. Họ gửi tới Văn phòng Trung ương, nhưng không ai đủ dũng cảm để nói với tổng bí thư. Trong các cuộc họp, tổng bí thư vẫn tiếp tục “xử lý hộp đen”. Hoàng Tụy và Phan Đình Diệu đành phải đưa bài tới cho nhà văn Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc kể, ông đã gọi điện cho Tổng Biên tập báo Nhân Dân Hà Đăng, nhưng Hà Đăng nói: “Tôi không dám đăng”. Nguyên Ngọc nghĩ: “Một bài báo mấy trăm chữ mà hai bậc đại trí thức của Việt Nam phải đồng ký tên. Cái sai không chỉ là của một cá nhân tổng bí thư nữa mà có nguy cơ trở thành ‘kiến thức’ phổ thông. Nếu mình cũng sợ không đăng thì người ta sẽ nghĩ là cả nước Việt Nam không biết”. Ngày 30-7-1988, Nguyên Ngọc cho đăng bài Hộp Đen Và Quay Hộp Đen trên báo Văn Nghệ. Từ hôm đó, trên báo Nhân Dân, khái niệm “hộp đen” biến mất.
Không chỉ vì vụ “hộp đen”, cuối năm 1988, mối quan hệ giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Tướng Trần Độ, người ủng hộ báo Văn Nghệ và khuynh hướng tự do sáng tạo của văn nghệ sỹ, cũng bắt đầu rạn nứt. Theo Trần Độ: “Trước Nghị quyết 05 mối quan hệ này ấm cúng bao nhiêu thì sau Nghị quyết 05, giá lạnh bấy nhiêu. Đối với tôi đây là một điều đau xót, không chỉ trong việc chung mà cả tình cảm riêng tư”.
Cùng lúc với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được dư luận xôn xao đón nhận, trong chính trường bắt đầu xuất hiện những chỉ trích các tác phẩm này, coi đó là những “lệch lạc” trong văn nghệ. Nghị quyết 05 bị ngầm quy kết là đã góp phần tạo ra những “lệch lạc” ấy. Sự quy kết không chỉ nhắm đến Tướng Trần Độ mà còn trở thành công cụ chính trị hướng tới Nguyễn Văn Linh. Trong khi đó, trong vụ cấm vở kịch Em Đẹp Dần Lên Trong Mắt Anh, Trần Độ lại giữ thái độ không khoan nhượng ngay cả khi ông Nguyễn Văn Linh đã có ý kiến144.
Theo ông Trần Trọng Tân, trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương khóa VI: “Ông Linh đã định kiến ai thì gỡ ra rất khó. Nhưng việc Nguyên Ngọc bị mất chức tổng biên tập báo Văn Nghệ vào tháng 12-1988 và vai trò của Trần Độ bị giảm đi không chỉ vì mối quan hệ cá nhân giữa ông Nguyễn Văn Linh và họ”.
Bên cạnh những phóng sự “trực diện với đời sống” của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hồ Trung Tú,... phần sáng tác công bố trên tuần báo Văn Nghệ “thời Nguyên Ngọc” cũng gây nhiều tranh cãi. Không chỉ có những truyện ngắn lạ và mượt mà của Nguyễn Huy Thiệp như Những Ngọn Gió Hua Tát, Sang Sông..., Văn Nghệ còn cho đăng những truyện ngắn mới của ông như Vàng Lửa và Phẩm Tiết, đưa ra một góc nhìn về các nhân vật lịch sử như Quang Trung, Gia Long khác với đánh giá của nền giáo dục và chính trị đương thời. Cùng lúc, Văn Nghệ cũng cho công bố truyện ngắn Năm Ngày của Phạm Thị Hoài, một tác phẩm làm rộ lên những lời phê bình trái ngược nhau gay gắt. Đặc biệt, mảng “lý luận phê bình” bắt đầu chạm vào những lằn ranh chính trị.
Từ Moscow, Lê Ngọc Trà gửi về bài viết đầu tiên, Văn Nghệ Và Chính Trị, nhắc nhở vai trò gần như độc lập của các văn nghệ sỹ. Để rồi sau đó, Nguyên Ngọc triển khai mở rộng phần lý luận nói về mối quan hệ giữa văn nghệ và hiện thực. Ngày 5-12-1987, Văn Nghệ cho công bố bài viết, gây chấn động ngay từ đầu đề, của nhà văn Nguyễn Minh Châu: Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa, giai đoạn mà theo Nguyễn Minh Châu, các “nhà văn hiền lành, vô sự, chỉ biết ca ngợi”.
Ngày 21-11-1988, khi trả lời phỏng vấn báo Văn Nghệ, Nguyễn Minh Châu cho rằng “chúng ta đã tự trói mình”. Ông nói: “Cái lỗi lớn nhất của mỗi người chúng ta là đã khiếp hãi trước cái xấu và cái ác. Và, lâu dần dường như không làm gì được thì chúng ta coi như không có nó - cuộc đời không có cái xấu và cái ác đang hoành hành, đang chi phối số phận con người, coi như cuộc đời không có oan khiên, oan khuất”.
Cũng trong thời gian đó, Liên Xô xét lại nhiều vụ án văn nghệ được dựng lên dưới thời Stalin. Ngày 23-1-1988, Văn Nghệ cho trích dịch bài viết trên tờ Tin Moscow số ra ngày 20-12-1987 đề cập đến nhiều cuốn sách của các nhà văn Nga “bị vùi dập qua nhiều thập kỷ”. Tác giả bài báo bình luận: “Kẻ nào giấu kín quá khứ sẽ không yên lành được với tương lai”.
Ngày 16-4-1988, trên tờ Văn Nghệ, Trần Độ dẫn một tuyên bố từ tạp chí Người Cộng Sản của Liên Xô: “Ngăn đường một tác phẩm có tài nhưng không phù hợp với cái nhất thời là vô nghĩa”. Một giáo viên ở Nghĩa Bình viết: Sau khi đọc những phóng sự như Cái Đêm Hôm Ấy… Đêm Gì? của Phùng Gia Lộc, Suy Nghĩ Trên Đường Làng của Hồ Trung Tú…, làm sao chúng tôi có thể làm cho học sinh tin vào những điển hình xã hội chủ nghĩa như “Biền” trong Tầm Nhìn Xa, như Anh Chủ Nhiệm145…
Ngày 16 và 23-7-1988, trên hai số báo liền, Nguyên Ngọc cho đăng lại bài tường thuật hội thảo bàn tròn do báo Văn Học Liên Xô tổ chức: “Liệu chúng ta có từ bỏ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Bài viết dẫn lời các nhà văn Nga cho rằng: “Chủ nghĩa hiện thực đã bị Stalin áp đặt một cách tàn bạo và giáo điều hóa”. Bài viết trích lời của một nhà văn Nga: “Thời đại bị lợi dụng cho lời cầu phúc và thời đại đã nói dối, giết người rồi biện minh cho tính chất vô sản của chủ nghĩa anh hùng chúng ta”.
Không khí cải tổ trong Hội Nhà văn Liên Xô tác động một cách trực tiếp lên công tác chuẩn bị Đại hội lần thứ V Hội Nhà văn Việt Nam. Liên tục trên nhiều số, Văn Nghệ cho đăng bài kêu gọi đổi mới từ nội dung cho tới phương thức tổ chức đại hội của Hội Nhà văn. Ngày 4-6-1988, Văn Nghệ đăng tuyên bố của nữ nhà văn Dương Thu Hương: “Đại hội này là dịp cuối cùng để thế hệ 40 giành lấy quyền nói tiếng nói quyết định trong các vấn đề văn học và nhất là trong công việc của Hội, trước khi nó trở nên già cả và bảo thủ”.
Trí thức, văn nghệ sỹ có vẻ như đang bộc lộ nhu cầu mở cái “nút thắt cuối cùng: dân chủ - tự do”, thay vì chỉ có vấn đề sáng tác. Theo Nguyên Ngọc, Ban Thư ký Hội Nhà văn bắt đầu đòi can thiệp vào bài vở của tuần báo Văn Nghệ. Nhưng Nguyên Ngọc không chấp nhận, ông tuyên bố: “Tôi là tổng biên tập, tôi chịu trách nhiệm”.
Mối lo ngại không còn chỉ đến từ Ban Thư ký, từ ngày 5 đến ngày 9-9-1988, Ban Chấp hành Hội Nhà văn họp có Ủy viên Bộ Chính trị Đào Duy Tùng đến dự. Theo “Bản tin chi tiết” của Hội Nhà văn đăng trên báo Văn Nghệ ngày 1-10-1988, tại cuộc họp, Ban Chấp hành Hội Nhà văn kết luận: “Văn Nghệ đã có một số đóng góp tích cực trong công cuộc đổi mới. Song bên cạnh đó, tuần báo đã có những khuyết điểm và lệch lạc nghiêm trọng”. Trước đó, tờ báo bị phê phán là: “Đã đăng những ý kiến phủ nhận cả giai đoạn văn học trước đây, nói Hội Nhà văn có cũng như không, nói chưa bao giờ văn nghệ sỹ bị khinh rẻ như bây giờ. Nhiều ý kiến nêu rõ đổi mới nhưng không thể tách rời khỏi tình hình xã hội hiện nay. Đổi mới nhưng không được làm đổ vỡ lòng tin vào sức sống của chủ nghĩa xã hội”146.
Bên trong, theo Nguyên Ngọc, ông bị Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân phê bình: “Làm báo là làm chính trị, làm chính trị thì phải nhạy cảm chính trị, trước hết nhạy cảm với kẻ thù”. Nguyên Ngọc cãi lại: “Nhạy cảm chính trị trước hết là nhạy cảm với nỗi đau của nhân dân. Chính những kẻ làm đau khổ nhân dân mới là kẻ thù”. Đào Duy Tùng dàn hòa: “Tôi thấy anh Tân và anh Ngọc không khác nhau, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt”. Nguyên Ngọc không khoan nhượng: “Không anh, chúng tôi khác nhau về cơ bản”.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cảnh báo trước Ban Chấp hành Hội: “Đối xử với Tổng Biên tập Văn Nghệ cũng là đối xử với đổi mới… Đối với nhà văn, nơi tranh giành là trang giấy. Cái ghế không có giá trị văn học”. Nhưng, Tổng Thư ký Nguyễn Đình Thi vẫn kết luận: “Ban Chấp hành giao cho Ban Thư ký uốn nắn, chấn chỉnh tờ báo cả về nội dung và tổ chức”.
Những tuần sau đó, Nguyên Ngọc vào Sài Gòn họp cộng tác viên, giới văn nghệ miền Nam đã “đổ thêm dầu vào lửa” khi ca ngợi tờ Văn Nghệ là “đã nói tiếng nói lương tri của người cầm bút” và khen tờ báo đã “không còn hướng thượng” nữa. Ngày 12-11-1988, Tướng Trần Độ xuất hiện trên Văn Nghệ bằng một bài báo đăng trọn trang, nhìn nhận một số “thiếu sót không thể tránh khỏi” của tờ báo, đồng thời trích dẫn ý kiến của dư luận và một nhận định cũ của Ban Bí thư “Văn Nghệ lành mạnh và có triển vọng”. Rồi Trần Độ kết luận: “Văn Nghệ cần tiếp tục đổi mới”. Nhưng, tiếng nói của Tướng Trần Độ vào lúc này chỉ có tác dụng chứng minh cho những chỉ trích mà “Bản tin chi tiết của Hội Nhà văn” đã từng đề cập: “Một số hội viên đảng viên thuộc cơ quan Hội Nhà văn cho rằng báo Văn Nghệ dựa vào ô dù ở trên để vô hiệu hóa Ban Thư ký”.
Trong số báo ra ngày 3-12-1988 (trên thực tế đã phát hành từ ngày 1-12) Nguyên Ngọc cho đăng lại quyết định ngày 20-10-1988 của Bộ Chính trị Liên Xô “thừa nhận sai lầm của Nghị quyết ngày 14-8-1946”, xóa án cho Zoshchenko và Akhmatova, lãnh đạo hai tờ tạp chí Ngôi Sao và Leningrad. Zoshchenko và Akhmatova từng cho đăng những bài viết bị quy kết là “bôi đen chế độ Xô viết”. Đặc biệt, Nghị quyết 14-8-1946 cũng đã từng sử dụng cụm từ “lệch lạc nghiêm trọng” mà ngày 1-10-1988 Nguyễn Đình Thi dùng để phê bình Văn Nghệ. Đây là số báo cuối cùng của Nguyên Ngọc.
Ngay trong ngày 2-12-1988, Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu thay mặt Ban Thư ký Hội Nhà văn trực tiếp xuống trụ sở báo Văn Nghệ. Nguyên Ngọc nhớ lại: “Các vị ấy đã chuẩn bị nhiều phương án. Đầu tiên, Chính Hữu rút ra tờ quyết định thuyên chuyển tôi về làm phó Ban Trù bị Đại hội. Tôi nói, việc đó thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành. Chính Hữu liền rút ra quyết định bổ nhiệm tôi làm trưởng Ban Trù bị. Tôi cười bảo, các anh cứ làm quyết định cách chức đi”. Nhưng không hiểu sao Ban Thư ký Hội Nhà văn đã không dám dùng từ “cách chức”.
Trong số báo tiếp theo, ra ngày 10-12-1988, báo Văn Nghệ để trống mục “Tổng Biên tập” và cho đăng bài của Nguyễn Đình Thi giải thích sự “lệch” sinh ra “lạc” của tờ Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc. Báo chí Sài Gòn và miền Trung ngay sau đó đã có nhiều tin bài phản đối Hội Nhà văn. Ngày 20-12-1988, báo Tuổi Trẻ đăng hàng loạt ý kiến của giới văn nghệ phía Nam “phản đối việc thuyên chuyển tổng biên tập báo Văn Nghệ”. Trong đó, nhà thơ Thanh Thảo viết: “Tôi kịch liệt phản đối quyết định cách chức tổng biên tập báo Văn Nghệ. Chỉ có Đại hội Hội Nhà văn mới có thẩm quyền quyết định vấn đề này”.
Cũng trong tuần lễ đầu của tháng 12-1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trì họp Bộ Chính trị bàn “một số vấn đề trước mắt trong công tác tư tưởng”. Tuy không chỉ ra “những sai phạm” của báo chí, nhưng trong “bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị” Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh yêu cầu: “Cần thông tin đầy đủ và đúng đắn về tình hình đất nước… Cần làm rõ, dân chủ phải có lãnh đạo, mở rộng dân chủ phải nhằm nâng cao ý thức giữ vững kỷ luật và tuân thủ pháp luật”147.
Tại hội nghị này, Bộ Chính trị cũng đã quyết định thành lập một “Ủy Ban công tác tư tưởng của Đảng” nhằm giúp Ban Bí thư “đánh giá tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và tâm trạng chính trị của quần chúng để báo cáo định kỳ”. Tổng Bí thư kêu gọi: “Luôn luôn tỉnh táo, hết sức coi trọng công tác tư tưởng”. Không chỉ đề cập đến tình hình Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh còn nói đến chính sách cải tổ của Liên Xô. Có thể nói, ông là nhà lãnh đạo cộng sản đầu tiên nhận ra tiến trình cải tổ là vô cùng “phức tạp”148.
Ba tháng sau, Hội nghị Trung ương 6, tháng 3-1989, đã nhấn mạnh những lo ngại chính trị trong “quá trình phát huy dân chủ”, kêu gọi “phải tỉnh táo đấu tranh chống lại những lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta”. Hội nghị Trung ương 6 cho rằng, “tự do tư tưởng, thảo luận và tranh luận thẳng thắn” phải đi đôi với việc “ngăn ngừa và uốn nắn những biểu hiện lợi dụng dân chủ, công khai để xuyên tạc sự thật, kích động, phá hoại công cuộc đổi mới”. Sau khi “phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp” vai trò của Đảng, Hội nghị Trung ương 6 tuyên bố: “Không cho phép ra báo tư nhân và lập các nhà xuất bản tư nhân”. Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1988 và Hội nghị Trung ương 6 thể hiện rõ quan điểm Nguyễn Văn Linh: mở ra có mức độ về kinh tế, nhưng kiên định về lập trường chính trị.
Những người như Nguyên Ngọc hay Tổng Biên tập Sài Gòn Giải Phóng Tô Hòa có thâm niên cộng sản149. Họ tham gia cách mạng vì lý tưởng chủ nghĩa xã hội và đổi mới cũng vì nhận ra những sai lầm do áp dụng những nguyên lý không tưởng đó. Thế hệ Tô Hòa, Nguyên Ngọc tự nhận lấy phần trách nhiệm của mình trong những chính sách sai lầm của Đảng thay vì chỉ đổi mới trong chừng mực mà Đảng cho phép mở ra. Sau khi Nguyên Ngọc bị mất chức tổng biên tập Văn Nghệ, những nhà lý luận văn học cấp tiến như Trần Hữu Tá, Lê Ngọc Trà có được chỗ dựa ở Tô Hòa. Tờ báo Đảng dưới thời Tô Hòa tiếp tục tự cởi trói cho mình trong khi “vòng dây” bên ngoài vẫn âm thầm siết lại.
Sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố tại Hội nghị Trung ương 6: “Dân chủ phải có lãnh đạo”, trên trang nhất Sài Gòn Giải Phóng, ông Tô Hòa cho đăng ý kiến của “một bạn đọc” có tên là Trần Nghiên nói rằng “không ít người lo lắng là điều đó sẽ làm cho dân chủ bị chựng lại”150. Trần Nghiên nêu ví dụ, tại đại hội ở một quận, nhân danh “dân chủ có lãnh đạo”, chủ tịch đoàn đã “gò ép, hạn chế đến thô bạo quyền dân chủ tối thiểu của đại biểu là được trình bày ý kiến”. Ngày
2-7-1989, ông Tô Hòa cho đăng bài của Tiến sỹ Lê Ngọc Trà, bày tỏ khá rõ ràng lựa chọn của tờ Sài Gòn Giải Phóng: “Đấu tranh cho một xã hội tốt hơn, cho chủ nghĩa xã hội đích thực, cho dân chủ và công khai, cho đổi mới cũng là một cuộc cách mạng nhân danh con người, vì con người. Bởi vậy, đứng ở đâu trong cuộc đấu tranh này là cả một thử thách đau đớn, là thước đo cách hiểu về văn chương, quan niệm về con người và chính ngay nhân cách của bản thân những ai cầm bút”.
Cũng như khi Nguyên Ngọc bị cách chức, sự ra đi của Tô Hòa cũng được những người đổi mới coi như là một tổn thất. Nhiều người đọc thư Tô Hòa đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 13-8-1989 đã rất bất ngờ, kể cả ông Võ Văn Kiệt, người bổ nhiệm Tô Hòa giữ chức vụ này từ năm 1981. Một bạn đọc gửi tới ông bài thơ: Được thư anh viết chia tay/ Tôi băn khoăn mãi thế này là sao/ Lý do anh tuổi đã cao/ Hay còn nguyên cớ khác nào nữa đây/ Báo đang đổi mới hàng ngày/ Sao người cầm chịch chia tay bất ngờ…
Đứng bên cạnh tờ Sài Gòn Giải Phóng, những tờ báo như Thanh Niên, Tuổi Trẻ lúc ấy cũng đã như những “cánh tay nối dài” của tờ Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc. Tuổi Trẻ Chủ Nhật thường đăng lại những tác phẩm gây xôn xao dư luận trên báo Văn Nghệ như truyện ngắn Tướng Về Hưu, phóng sự Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì?... và tự mình thực hiện nhiều điều tra, phóng sự.
Nếu như những bài báo đăng trên tờ Văn Nghệ biểu lộ sự thức tỉnh của những người làm báo xã hội chủ nghĩa, những trang viết của họ là những bản tự kiểm, đụng chạm không chỉ niềm tin cá nhân mà còn cả thần tượng và ý thức hệ thì những người làm báo ở Tuổi Trẻ, cuối thập niên 1980, vẫn mang sự nhiệt thành của những thanh niên ở trong độ tuổi hồn nhiên. Đội ngũ lãnh đạo Tuổi Trẻ lúc bấy giờ gồm những người đã từng hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh trước 30-4-1975 tại miền Nam. Cho dù vẫn giữ sự đồng hành với Đảng, niềm say mê nghề nghiệp, khát khao đổi mới đã khiến họ đấu tranh không mệt mỏi bảo vệ “dân sinh” và hào hứng với các trào lưu dân chủ.
Nếu như trước đó, Tuổi Trẻ, Sài Gòn Giải Phóng thường chỉ khai thác thời sự quốc tế qua báo chí Liên Xô hoặc qua Thông tấn xã Việt Nam, thì lúc bấy giờ bắt đầu khai thác cả “báo chí tư bản” để tường thuật các diễn biến trên thế giới. Báo chí không chỉ giúp người dân, đặc biệt là sinh viên, thanh niên, hiểu được những gì đang xảy ra xung quanh mà còn khai thác những thông tin ấy theo hướng tác động trực tiếp vào những sự kiện đang xảy ra trong nước.
Giữa năm 1987, bằng cách đưa tin của mình, báo Tuổi Trẻ đóng vai trò quan trọng làm thay đổi kết quả bầu cử ở đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản Thành phố Hồ Chí Minh. Các đại biểu đã bầu Lê Văn Nuôi làm bí thư thay vì bầu Phạm Phương Thảo như phê chuẩn ban đầu của Thành ủy151. Ngay sau khi đắc cử, Lê Văn Nuôi chủ trương “bầu trực tiếp bí thư Đoàn trường học sinh” và tuyên bố: “Tổ chức của giới nào phải có thủ lĩnh của giới đó”. Trước đó, Lê Xuân Khuê, trưởng Ban Trường học Thành Đoàn, phát biểu trên báo Tuổi Trẻ ngày 2-7-1987 rằng: sinh viên không còn muốn tiếp tục bị coi là những đứa trẻ bị thầy cô cầm tay chỉ việc, thậm chí làm thay cả công tác Đoàn nữa. Khuê nói: “Chúng tôi không muốn bị coi là bé, là trẻ người non dạ mãi”.
Cho dù tất cả những sự kiện đó đều như những giọt nước tích tụ vào ly nhưng chỉ bị đánh giá là thiếu bản lĩnh chính trị chứ chưa bị coi là lệch lạc. Theo ông Nguyễn Sơn, phó Ban Tuyên huấn Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong thập niên 1980-1990: “Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, cũng như Thế Thanh, tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, cùng bị coi là chịu ảnh hưởng của những nhân vật đổi mới cực đoan như Trần Độ, Dương Thu Hương, Nguyên Ngọc… nhưng lúc đầu, Thành ủy thấy có thể quản lý được. Tuy nhiên, loạt bài về Bình Nhưỡng và ‘thư Nguyễn Ái Quốc gửi vợ’ đăng trên Tuổi Trẻ đã chạm đến hai vấn đề thiêng liêng: niềm tin vào lãnh tụ và chủ nghĩa xã hội”.
Năm 1989, sau khi dự “Liên hoan Thanh niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về, nhà báo Vũ Kim Hạnh đã có loạt bài mô tả Bắc Triều Tiên như một thành phố không còn gương mặt con người: dân chúng không được tiếp xúc với người nước ngoài; radio, tivi chỉ bắt được đài nhà nước…152. Chủ nghĩa xã hội được mô tả như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc. Lỗi này sẽ được “ghim” lại cho đến ngày 18-5-1991153.
Ngày 18-5-1991, Tổng Biên tập Vũ Kim Hạnh cho đăng trên trang nhất Tuổi Trẻ một bài báo về bức thư của Nguyễn Ái Quốc “gửi vợ” Tăng Tuyết Minh. Bài báo cùng lúc được gửi đăng trên tờ Nhân Dân Chủ Nhật (số ra ngày 19-5-1991, nhưng thực chất là xuất bản cùng ngày 18-5). Tuy cùng nội dung, nhưng trong khi tựa đề in trên tờ Nhân Dân số ra ngày 19-5- 1991 là: “Một số tư liệu nói về đời riêng của Nguyễn Ái Quốc”; thì tựa trên tờ Tuổi Trẻ của Vũ Kim Hạnh lại là: “Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi vợ năm 1928”154. Thông báo số 245 ngày 22-5-1991 do Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Võ Danh ký cho biết: “Đảng viên và quần chúng rất phẫn nộ. Liên tiếp trong các ngày 19, 20, 21, 22-5, nhiều quận huyện, nhiều người gửi văn bản, gửi thư hoặc đến trực tiếp Văn phòng Thành ủy bày tỏ thái độ bất bình và phẫn nộ… Nhiều đồng chí cán bộ hưu trí, lực lượng công an thành phố đề nghị khởi tố vụ án”.
Một tháng trước khi ông Nguyễn Văn Linh kết thúc nhiệm kỳ, nhà báo Vũ Kim Hạnh bị cách chức tổng biên tập với “hình phạt bổ sung” không công khai: vĩnh viễn không cho làm báo. Gần như các nhân tố mới xuất hiện kể từ sau khi ông Linh hô hào cởi trói đều bị truy bức. Có người bị trói lại bằng “còng”. Cho dù không thể đưa một xã hội đã bắt đầu thức tỉnh quay trở lại lồng, ông Nguyễn Văn Linh đã bỏ lỡ cơ hội để được lịch sử đánh giá như một tổng bí thư đổi mới155.
Chương XIV: Khoảng cách Linh - Kiệt
Sau thành công của “cởi trói” và “những việc cần làm ngay, “khoảng cách” giữa Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các thành viên khác trong Bộ Chính trị không còn chỉ “cách nhau sợi tóc” như ông ví von lúc đầu. Khác với Lê Duẩn và Trường Chinh, quyết định nhân sự dưới thời Nguyễn Văn Linh không còn là công việc của Ban Tổ chức. Sự quyết đoán của ông trong một số trường hợp, mở đầu bằng việc lựa chọn Đỗ Mười thay vì Võ Văn Kiệt đứng đầu Chính phủ, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tiến trình cải cách của Việt Nam. Mối quan hệ giữa Võ Văn Kiệt và Nguyễn Văn Linh tưởng như rất gần gũi, nhưng trên thực tế, trong tính cách cá nhân và trong chính trị giữa hai người có rất nhiều khác biệt.
Tại sao Đỗ Mười
Ngày 10-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời. Người kế nhiệm, ông Đỗ Mười, kể: “Anh Hùng đi đột ngột. Anh ấy đang bình thường, khỏe mạnh, ăn cơm xong nằm nghỉ trưa nghe vọng cổ rồi bị sặc cơm mà mất”. Thể theo hiến pháp, ngày 11-3-1988, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công ký quyết định cử ông Võ Văn Kiệt, phó Chủ tịch thường trực làm quyền chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng “cho đến khi Quốc hội bầu chủ tịch mới”. Ông Đỗ Mười nói tiếp: “Tôi thấy bình thường. Tôi từ khi tham gia cách mạng tới giờ Đảng bảo làm gì làm nấy, không đòi hỏi gì cả, không xin gì cả”.
Ông Đỗ Mười coi việc ông Võ Văn Kiệt tạm đứng đầu Chính phủ là bình thường không chỉ là một phát biểu xã giao. Theo ông Nguyễn Đình Hương, phó Ban Tổ chức Trung ương: “Từ Đại hội IV, năm 1976, khi đưa Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười đứng vào hàng ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đã bàn với nhau và có sự ủng hộ của Phạm Văn Đồng, thống nhất đặt ba người vào trong đội dự bị. Năm 1982 khi điều ông Võ Văn Kiệt từ Sài Gòn, ông Lê Đức Thọ nói đưa Sáu Dân ra Hà Nội là để chuẩn bị làm thủ tướng. Khi ấy Tố Hữu cũng được chuẩn bị cho chức vụ tổng bí thư. Nhưng Tố Hữu khi làm phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng vướng vào sai lầm trong vụ giá-lương-tiền  nên uy tín sút giảm. Tại Đại hội VI tuy Tố Hữu vẫn được đề cử vào Trung ương nhưng khi bầu thì không trúng”.
Tháng 6-1988, Quốc hội khóa VIII nhóm họp kỳ thứ Ba, nhiều đại biểu ngạc nhiên khi người được đề cử chính thức thay thế ông Phạm Hùng là ông Đỗ Mười thay vì ông Kiệt. Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo, một phụ nữ thân thuộc với cả ông Kiệt và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói trước Quốc hội: “Chúng tôi tha thiết đề cử đồng chí Võ Văn Kiệt. Nhân dân miền Nam, nhất là Sài Gòn rất kính trọng đồng chí Võ Văn Kiệt. Chúng tôi chỉ biết Võ Văn Kiệt, tôi tha thiết đề nghị Quốc hội bầu đồng chí Võ Văn Kiệt”.
Đại biểu Lý Chánh Trung đề nghị đưa hai ứng cử viên để Quốc hội bầu, ông nói: “Một trong những động lực giúp chúng tôi vận động bà con Sài Gòn xuống đường là để chống bầu cử độc diễn ở Sài Gòn. Bây giờ chúng ta có độc lập mà vẫn độc diễn thì chúng tôi khó ăn nói với bà con lắm”. Ý kiến của bà Ba Thi đã bị một đại biểu ở miền Bắc, bà Nguyễn Thị Kim Đính, chủ tịch Liên hiệp Xã Hải Hưng, phản đối: “Tôi đồng tình có hai ứng cử viên nhưng tôi không đồng ý với chị Ba Thi, nếu chúng tôi cũng nói là miền Bắc chỉ biết đồng chí Đỗ Mười thì sao”.
Thực ra không chỉ có các đại biểu đến từ miền Nam, Quốc hội biết khá rõ ông Đỗ Mười. Bầu “tư lệnh” của cả hai chiến dịch “cải tạo tư sản” đứng đầu chính phủ trong thời kỳ thực hiện chính sách “kinh tế nhiều thành phần” không khỏi làm cho nhiều đại biểu băn khoăn, thắc mắc.
Theo ông Vũ Mão, có 33 trên tổng số 53 đoàn đại biểu quốc hội đề cử ông Võ Văn Kiệt như một ứng cử viên thứ hai để Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; ngoài ra, còn có bốn đoàn giới thiệu Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một đoàn giới thiệu ông Nguyễn Cơ Thạch. Tuy nhiên, ông Võ Văn Kiệt kiên quyết từ chối, ông nói: “Tôi là đảng viên, tôi tuân thủ nguyên tắc Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã giới thiệu đồng chí Đỗ Mười rồi thì nếu có gì khác, chúng ta phải báo cáo Trung ương”. Ban Bí thư phải họp, và theo ông Vũ Mão, chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội: “Anh Nguyễn Văn Linh rất hay ở chỗ, dù không ưa anh Kiệt, anh vẫn đồng ý để Quốc hội bầu chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với hai ứng cử viên”.
Khi từ chối không tham gia cuộc bầu cử này, ông Võ Văn Kiệt hiểu rất rõ “ý thức chấp hành” của một quốc hội mà cho dù tỉ lệ đảng viên là bao nhiêu thì tất cả đại biểu đều là người của Đảng. Nhưng, sau cuộc họp của Ban Bí thư, giữa đêm khuya, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo tìm đến nhà ông Kiệt nói: “Ban Bí thư bàn, thấy xưa nay chưa có tiền lệ đưa hai ứng cử viên ra Quốc hội nhưng các đoàn đề nghị gay gắt quá. Đề nghị anh không rút tên”.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, Quốc hội bầu một chức danh mà có hai ứng cử viên trên lá phiếu. Việc làm này không chỉ mới mẻ với những đảng viên thường mà với cả những người trong cuộc. Theo ông Vũ Mão: “Anh Đỗ Mười nói với tôi: cả tuần nay, mình mất ngủ, không hiểu tại sao trong Đảng ta lại có hai ứng cử viên. Tôi nói: thưa anh, đấy là thành quả của đổi mới”. Chiều 22-6-1988, Quốc hội bỏ phiếu, kết quả: ông Đỗ Mười đắc cử với 296 phiếu; 168 đại biểu bỏ phiếu cho ông Võ Văn Kiệt; một đại biểu bỏ phiếu trắng.
Ông Đỗ Mười nhận chức nhưng rất lo lắng vì ông, ứng cử viên của Đảng, chỉ có được 63% số phiếu bầu thay vì 100% như tiền lệ. Điều ông lo lắng hơn là sự ủng hộ của các địa phương miền Nam. Ông Kiệt kể: “Tôi nói với anh Mười, tôi trực, tôi sẽ làm hết sức mình, còn đối với anh em miền Nam anh cứ mạnh dạn vào làm việc, tôi tin là anh em sẽ ủng hộ anh”. Nhớ lại thời kỳ này, ông Đỗ Mười nói: “Hai anh em cộng tác rất tốt, tôi với anh Kiệt cũng gắn bó lắm”.
Một năm sau, ông Kiệt nói: “Khi kiểm điểm trong Bộ Chính trị, có hai ba ý kiến đánh giá một trong những ưu điểm của tôi là cộng tác tốt với anh Đỗ Mười. Tôi nói với họ các anh nói ưu điểm thì tôi cũng vui nhưng tôi rất lạ là tại sao các anh có thể nghĩ là tôi không thể cộng tác với anh Mười. Tôi đâu có cạnh tranh, lẽ ra tôi dứt khoát rút tên nhưng Ban Bí thư đã quyết định thì tôi phải theo. Đây là công việc đâu phải là vấn đề riêng tư để tôi có thể không cộng tác với một người được Trung ương chọn”.
Đã từng là bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Linh cũng tiên liệu được sự phản ứng của miền Nam khi quyết định chọn Đỗ Mười. Trợ lý của Nguyễn Văn Linh, ông Bùi Văn Giao, kể: “Sau khi ông Phạm Hùng chết, anh Linh lên Hồ Tây họp bàn trước với hai ông cố vấn: Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Họp xong, ông Linh kêu tôi qua nói: ‘Giao à, bọn tôi bàn để Đỗ Mười thay Phạm Hùng’. Tôi kêu lên: ‘Trời ơi, sao lại Đỗ Mười’. Ông Linh: ‘Tôi biết, nhưng từ khi làm tổng bí thư tôi nói Đỗ Mười nghe rồi’. Rồi ông Linh kêu tôi chuẩn bị, hôm sau đi cùng ông. Ông Linh nói: ‘Trung ương giao tôi vào miền Nam, Võ Chí Công vào miền Trung, Nguyễn Đức Tâm đi các tỉnh miền Bắc làm công tác tư tưởng’. Ông Linh đi tới đâu cũng gặp phản ứng. Ông phải nói: ‘Đây là quyết định của Bộ Chính trị”.
Một ủy viên Trung ương thân cận của ông Nguyễn Văn Linh, Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân, kể: “Anh Linh giải thích: Hồi cải tạo, tôi với anh Đỗ Mười khác nhau lắm, đụng nhau dữ lắm. Nhưng anh Đỗ Mười có cái hay, điều gì Đảng đã quyết rồi thì anh ấy thi hành quyết liệt”. Một người từng làm trợ lý cho ông Nguyễn Văn Linh, ông Dương Đình Thảo, bổ sung: “Ông Mười Cúc đã từng cãi nhau rất găng với ông Đỗ Mười về đổi mới nhưng ông nghĩ, Đỗ Mười là người trung thành, tổ chức thực hiện kiên quyết khi đã có nghị quyết”.
Nhưng vấn đề không phải là tán thành hay không tán thành ông Đỗ Mười. Tuy Nguyễn Văn Linh sinh ra và lớn lên ở miền Bắc nhưng cuộc đời hoạt động của ông gắn với miền Nam, gắn với Sài Gòn. Năm 1956, ông Võ Văn Kiệt gặp ông Nguyễn Văn Linh lần đầu tiên và cho đến cuối đời ông Kiệt vẫn nhắc món bê non thui chấm nước mắm gừng theo kiểu Bắc mà ông Linh đãi ông năm ấy. Tại sao ông Linh đã không chọn ông Võ Văn Kiệt trở thành câu hỏi của rất nhiều cán bộ miền Nam, những người đã gắn bó với cả ông Kiệt và ông Nguyễn Văn Linh từ thời Trung ương Cục.
Ông Bùi Văn Giao kể: “Vừa nghe ông Linh nói chọn ông Mười, tôi thắc mắc ngay ‘Sao không chọn ông Kiệt?’. Ông Linh kể một loạt cái xấu của ông Kiệt rồi nói: ‘Khi tôi mất Bộ Chính trị, về Sài Gòn, Sáu Dân không bao giờ gặp tôi’. Anh Linh tốt nhưng thành kiến ai thì chết người đó”. Ông Chín Đào Phan Minh Tánh, bí thư Trung ương Đảng cho biết: “Ông Kiệt nhiều lần tâm sự, ‘Chín Đào coi mình với anh Linh có gì không đúng?’. Tôi nói với ảnh: Khi ra Hà Nội anh có thơ gởi đồng bào từ giã, trong thơ có dặn dò về anh Linh. Anh Linh cho là trịch thượng. Chị Bảy Huệ cũng đồng ý với chồng. Anh Kiệt cười: ‘Chín Đào biết mình coi anh Linh là đàn anh về tuổi, là thầy về cách mạng. Sao ảnh nỡ nói vậy. Nhưng thôi, kệ ảnh”.
Cuối năm 1981, ông Nguyễn Văn Linh được điều trở lại Sài Gòn như một động thái cơ cấu lại cán bộ chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ V họp vào đầu năm 1982. Thế chính trị của ông Linh lúc ấy rất khó khăn, ông bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị vài tháng sau đó. Phó Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Đình Hương nói: “Nếu ông Lê Duẩn còn sống tới Đại hội VI thì sẽ không có Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vì từ Đại hội V, ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã thống nhất quy hoạch Tố Hữu sẽ làm tổng bí thư, Võ Văn Kiệt làm thủ tướng và đặt ông Linh ra rìa”. Trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương nói: “Anh Ba đánh giá Mười Cúc rất thấp”. Theo ông Võ Văn Kiệt, chính ông đã đề nghị ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ điều ông Nguyễn Văn Linh trở lại Thành phố Hồ Chí Minh khi ông Linh không được dự kiến cho một chức vụ gì cụ thể.
Trong tình huống đó, trước khi chính thức ra Hà Nội nhận chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đã viết một bức thư ngỏ đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau khi chúc Tết và cám ơn “nhân dân Thành phố”, ông Võ Văn Kiệt đã giới thiệu về ông Nguyễn Văn Linh như là nói về một người tiếp theo mình chứ không rõ ra là nói về một đàn anh của mình156.
Theo ông Tô Hòa, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng: “Ông Kiệt cũng cân nhắc, viết rất trân trọng và thận trọng. Nhưng ông Linh phản ứng với tôi ngay: Sáu Dân lấy tư cách gì để giới thiệu tôi”. Ông Linh về Thành phố làm bí thư, ông Kiệt ra Trung ương làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, Thành phố cũng có nhiều việc phải trao đổi và gặp gỡ. Ông Tô Hòa nói: “Trong quan hệ, ông Kiệt cũng rất dở. Có lần ông Kiệt về nhà ở An Phú, Sài Gòn. Sáng ra khi ông đang chơi tennis với ông Ngô Công Đức thì ông Linh lên gặp. Lẽ ra nên ra tiếp ngay thì ông Kiệt lại ham bóng, cố theo cho xong trái bóng. Ông Linh rất bực”.
Cũng theo ông Phan Minh Tánh: “Trước Đại hội VI, ông Linh cũng nghi ông Kiệt vận động Trường Chinh ở lại và không bỏ phiếu ủng hộ ông Linh làm tổng bí thư”. Tại Hội nghị Trung ương 12, khóa V, khi thảo luận nhân sự cho khóa VI, theo ông Lê Văn Triết157: “Tôi nói: ‘Anh Trường Chinh nên tiếp tục làm tổng bí thư thêm một thời gian nữa rồi bàn giao cho anh Nguyễn Văn Linh. Thủ tướng thì nên để anh Võ Văn Kiệt. Chủ tịch nước, theo tôi bây giờ không ai có uy tín qua anh Giáp’. Nghe tới đó, ông Linh - đang thảo luận cùng tổ - đập bàn cái rầm, quát: ‘Thôi! Bộ Chính trị yêu cầu các đồng chí tập trung thảo luận hai vấn đề mà Bộ Chính trị hướng dẫn: cơ cấu và tiêu chuẩn. Tôi đề nghị đồng chí tổ trưởng điều hành đúng’. Ủy viên Trung ương Lê Phước Thọ thấy căng, đề nghị giải lao. Ra hành lang, Nguyễn Văn Linh nói: ‘Cậu biết gì về Sáu Dân? Tôi đề nghị cậu không được nói tới vấn đề Sáu Dân nữa. Dốt mà không chịu học. Làm Ủy ban Kế hoạch còn không xong lấy đâu ra thủ tướng’”. Không chỉ ông Triết, nhiều người bất ngờ với thái độ này của ông Nguyễn Văn Linh nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó.
Cimexcol hay “Vụ án Dương Văn Ba”
Tháng 12-1987, Bộ Nội vụ khởi tố vụ án Cimexcol, Phó Giám đốc Dương Văn Ba bị bắt. Dương Văn Ba, cựu thành viên báo Tin Sáng, là người mà năm 1971 khi tái tranh cử dân biểu tại Sóc Trăng đã được ông Võ Văn Kiệt, khi ấy là bí thư Khu ủy, cử người liên lạc và ngầm ủng hộ.
Tiền thân của Cimexcol là một liên doanh giữa Minh Hải và Thành phố Hồ Chí Minh, được lập ra để hợp tác khai thác gỗ với Công ty Phát triển miền rừng núi Lào158. Trước khi Cimexcol ra đời, với sự thu xếp của ông Trần Bạch Đằng, ông Lê Văn Bình khi ấy là ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Minh Hải đã gặp báo cáo với Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn Linh. Năm 1985, Cimexcol ra đời, Minh Hải cử ông Nguyễn Quang Sang, ủy viên thường vụ Tỉnh ủy, giám đốc Sở Tài chánh, giữ chức giám đốc, nhưng người điều hành công ty trên thực tế là Dương Văn Ba.
Việc sử dụng ông Dương Văn Ba, theo ông Đoàn Thành Vị, lúc đó là bí thư Minh Hải: “Anh Lê Quân, nguyên phó bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng, nói, lúc kháng chiến chống Mỹ, anh Kiệt có phân công anh liên hệ với Dương Văn Ba. Anh Võ Văn Kiệt nói với chúng tôi, Dương Văn Ba thuộc thành phần thứ ba, việc làm ăn bây giờ thì tôi không rành nhưng các anh sử dụng được. Bất cứ ai mà làm ăn phi pháp thì phải ở tù. Anh Kiệt dặn làm ăn với Lào thì phải lợi ích sòng phẳng, đừng đem kinh nghiệm phá rừng ở Việt Nam sang Lào phá tiếp”.
Bằng cách khai thông những con đường hiểm trở nhất, đưa gỗ từ Lào qua Vinh xuất khẩu, cả Cimexcol và phía đối tác Lào cùng kiếm được hàng chục triệu đôla và biến một vùng hẻo lánh cách biên giới Việt Nam 20km thành một thị trấn nhộn nhịp về sau gọi là thị trấn Lạc Sao.
Vào lúc công việc kinh doanh đang làm hài lòng cả Chính phủ Lào và chính quyền Minh Hải thì ngày 4-12-1987, Ngô Vĩnh Hải, tổ trưởng tổ kiều hối của Cimexcol bị bắt. Ngô Vĩnh Hải từng là một phóng viên của báo Tin Sáng, anh trai của ông là Giáo sư Ngô Vĩnh Long khi ấy đang là Việt kiều ở Mỹ. Ngày 25-12-1987, Dương Văn Ba bị bắt và sau đó, công an bắt tiếp các thành viên khác trong ban giám đốc và các trưởng phòng ban của Công ty Cimexcol.
Cũng trong tháng 12-1987, tại Thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền đưa vụ án “Hoàng Cơ Minh và đồng bọn” ra xét xử. Hoàng Cơ Minh là phó đề đốc, tư lệnh Vùng II Duyên hải, Hải quân Việt Nam Cộng hòa, di tản sang Mỹ từ tháng 4-1975. Năm 1981, ông về Thái Lan, lập căn cứ tại Udon một tỉnh gần biên giới Lào. Năm 1982, ông tổ chức đại hội thành lập Đảng Việt Tân và Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam. Trong khoảng thời gian Cimexcol đưa người sang Lào khai thác gỗ, lực lượng Hoàng Cơ Minh tổ chức nhiều cuộc thâm nhập vào biên giới Việt Nam mang tên “Đông Tiến I”, “Đông Tiến II”… nhưng tất cả đều thất bại. Hoàng Cơ Minh bị thương và tự sát vào đêm 27-8-1987.
Có thể đã không có vụ án Cimexcol nếu như tư lệnh cuộc hành quân “Đông Tiến I” không có tên là Dương Văn Tư. Một số bị can trong vụ Cimexcol đã bị thẩm vấn: “Dương Văn Tư có phải là em ruột của Dương Văn Ba không?”. Một thành viên của “Ban chuyên án Cimexcol”, ông Tống Kỳ Hiệp, phó bí thư thường trực tỉnh Minh Hải, thừa nhận: “Vụ án Cimexcol lúc đầu là vụ án chính trị, khởi tố theo thư từ tố cáo của cán bộ về hưu cũng như đương chức tỉnh Minh Hải: Dương Văn Ba đưa vào Công ty hơn bốn mươi người của chế độ cũ, thao túng và vô hiệu hóa ban giám đốc Cimexcol để hoạt động chống cách mạng”159.
Trung tướng Võ Viết Thanh, khi ấy là thứ trưởng Bộ Nội vụ, nói: “Phụ trách an ninh, tôi thấy không có cơ sở nào để tin Cimexcol sang Lào chuẩn bị chiến khu, làm cơ sở thâm nhập vào Việt Nam. Khi ấy ai cũng biết ông Võ Văn Kiệt rất ủng hộ nhóm anh em ở Cimexcol hợp tác với Lào. Trong khi giữa ông Nguyễn Văn Linh và ông Võ Văn Kiệt lại đang có vấn đề. Ông Linh chỉ đạo ông Lâm Văn Thê trực tiếp làm án. Ông Thê lúc ấy là thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh”.
Khi không tìm thấy bằng chứng của một vụ hoạt  động chính trị, lẽ ra phải đình chỉ điều tra, vụ Cimexcol  lại được chuyển qua thành vụ án kinh tế. Để có thể xét xử Cimexcol như một vụ án kinh tế, chuyện Dương Văn Ba “móc nối với một số tư nhân có xe ô tô trốn cải tạo ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai về Minh Hải hợp đồng kéo gỗ do Ba làm đại diện từ năm 1979” đã được lật lại. Cho dù Cimexcol “lãi 2,235 triệu đôla và đang có tổng tài sản trị giá mười ba triệu đôla”, nhưng các cơ quan tố tụng chỉ ghi nhận con số mà Cimexcol đang nợ ngân hàng - 5,3 triệu đô la - để đánh giá công ty làm ăn thua lỗ. Việc nhập xe gắn máy “Honda nghĩa địa” với giá từ 180-200 đôla/chiếc về bán “theo chỉ đạo của Thường vụ Tỉnh ủy cho cán bộ” với giá từ 400-600 đôla cũng bị coi là “tội” vì tuy công ty vẫn lãi gấp đôi, gấp ba nhưng so với “giá thị trường” thì giá bán này của Cimexcol đã gây “thiệt hại 1063 lượng vàng” cho Nhà nước.
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Minh Hải Lê Văn Bình, tên thường gọi là Năm Hạnh, đã bị đưa ra trước vành móng ngựa. Báo cáo trước cuộc họp ngày 9-3-1994 của Ban Bí thư tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Tống Kỳ Hiệp nói: “Lúc đầu chọn đưa anh Ba Hùng ra, vì anh Ba Hùng lúc Cimexcol hoạt động là chủ tịch, nhưng anh Nguyễn Đức Tâm nói: Ba Hùng đã về hưu đưa ra xử lý không có ý nghĩa, phải chọn người đương chức, nên chọn anh Năm Hạnh. Lúc đó anh Ba Hương (Lâm Văn Thê), thứ trưởng Bộ Nội vụ, kêu chúng tôi nói với Năm Hạnh ra tòa đừng nói gì cả, chỉ nhận là thiếu trách nhiệm được rồi, để xử lý bọn kia thôi. Nhưng anh Năm Hạnh không làm vậy, ra tòa anh còn phát biểu bào chữa cho Cimexcol”.
Ở thời điểm ấy, ông Năm Hạnh đang là chủ tịch kiêm trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Minh Hải. Ông vừa tu nghiệp ở Liên Xô về và khi ấy đang là một cán bộ có nhiều triển vọng. Việc truy tố ông Năm Hạnh Lê Văn Bình gây ngạc nhiên cho toàn miền Tây.
Đầu thập niên 1970, Năm Hạnh từng là cánh tay mặt của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt là bí thư Khu ủy Tây Nam Bộ, Năm Hạnh là bí thư Khu Đoàn được những cán bộ trẻ của Khu Tây Nam Bộ coi như thần tượng.
Phiên tòa xử vụ án Cimexcol diễn ra từ ngày 14 đến 22-4-1989 theo thủ tục kết hợp “sơ chung thẩm”, nghĩa là các bị án không có quyền kháng cáo. Theo ông Phạm Văn Hoài (Ba Hùng), người tiền nhiệm của ông Năm Hạnh: “Vì tính chất điển hình, Tòa mời đại diện các tỉnh thành thuộc B2 cũ tham dự rút kinh nghiệm, bố trí lực lượng cảnh sát dày đặc, cả công an chìm vừa để ngăn chặn biểu tình, vừa để trấn áp. Lãnh đạo cơ quan thông tin đại chúng đưa tin trước, trong và sau phiên tòa để hướng dẫn dư luận. Hơn sáu mươi phóng viên báo đài từ trung ương đến địa phương đã có mặt. Riêng tại Minh Hải thì truyền thanh trực tiếp phiên tòa và truyền hình mỗi đêm. Phải nói tổ chức một phiên tòa quá đặc biệt”. Tuy nhiên, dư luận thay vì được “hướng dẫn” bởi phiên tòa đã quay sang chia sẻ rất nhiều với các bị cáo.
Trước phiên tòa, Bộ Thông tin và Tòa án đã tổ chức họp báo tại Bạc Liêu. Báo chí và dư luận hết sức xôn xao. Tòa chưa khai mạc, báo Công An Nhân Dân đã cho xuất bản phụ san “Cimexcol trả giá đắt” đưa xuống bán 5.000 đồng một tờ ở Minh Hải. “Phụ bản đã có nhiều nội dung xuyên tạc, vu cáo, không những đả kích cá nhân mà còn xâm phạm đến uy tín danh dự của Đảng bộ và nhân dân Minh Hải. Đặc biệt, do đăng mức án theo dự kiến cho từng bị cáo trước khi phiên tòa diễn ra nên có những bị cáo như Ngô Vĩnh Hải, án theo phụ san là ba năm tù, phiên tòa đã tuyên vô tội”160.
E-kip truyền hình của Đài Cần Thơ theo dõi phiên tòa suốt bảy ngày sau đó về biên tập lại thành bảy chương trình có thời lượng tương đương với 4 giờ 30 phút. Thay vì nói đủ về hai mươi mốt bị cáo, nhà báo Ngô Hoàng Giang đã xoay quanh ba bị cáo gây tranh cãi nhất tại phiên tòa. Như tên được đặt cho chương trình, "Buộc tội và Gỡ tội", trong từng phần, ý kiến của công tố viên và luật sư được tường thuật đối nhau. Theo bà Ngô Hoàng Giang161: “Đồng bằng sông Cửu Long xem xong phản ứng dậy sóng luôn, Mười Mẫn, chủ tịch tỉnh Cửu Long, khen hết lời còn cấp ủy các địa phương trong vùng thì rất ủng hộ”. Sau khi theo dõi phiên tòa qua đài truyền hình, Ban Liên lạc đồng hương Minh Hải ở Hậu Giang, gồm hai mươi cụ đang nghỉ hưu ở Cần Thơ, gửi thư phản đối phiên tòa. Một số nhà báo ở miền Tây cũng soạn thảo một lá đơn kiến nghị.
Ngày 20-5-1989, Ban Thường trực Mặt trận Tổ quốc tỉnh Minh Hải sau khi “tham khảo dư luận xã hội đối với phiên tòa” đã có một bản báo cáo nói rằng: “Phiên tòa thể hiện thiếu dân chủ ngay từ đầu: Cáo trạng và luận tội giống nhau, bất chấp diễn tiến công khai xét hỏi và tranh luận; Cấm không cho báo chí bình luận, cấm không được hoan nghinh khi bị cáo nói đúng; Báo Công An Nhân Dân đã sử dụng tài liệu của Cục An ninh điều tra bôi nhọ các bị cáo… đầu độc tâm lý quần chúng, hướng dư luận hiểu sai sự thật. Buộc tội Lê Văn Bình thiếu trách nhiệm là không đúng, suốt thời gian Cimexcol hoạt động, Lê Văn Bình chỉ là phó chủ tịch, khi lên chủ tịch thì được đưa đi học ở Liên Xô, Lê Văn Bình trở về chỉ được bốn tháng thì Cimexcol bị thanh tra; Phiên tòa đã sử dụng Nguyễn Quang Sang, Thạch Phen để buộc tội Dương Văn Ba nên tạo thời gian cho họ mặc sức tố Dương Văn Ba trong khi khống chế thời gian bào chữa của các luật sư và bị cáo”. Báo cáo của Mặt trận Tổ quốc kết luận: “Ở những phiên tòa khác thì các bị cáo thường bị quần chúng căm ghét, nhưng ở phiên tòa này quần chúng lại xót thương và phải rơi lệ đối với tội phạm. Quần chúng vỗ tay hoan nghinh bị cáo, nhứt là với bị cáo Lê Văn Bình”.
Ngày 4-5-1989, ông Võ Văn Kiệt viết thư gửi Đài Cần Thơ: “Đề nghị các đồng chí gửi cho tôi số băng ghi chương trình đã phát. Đồng thời các đồng chí sang băng toàn bộ số băng ghi hình để làm tư liệu của Đài cho tôi mượn”. Khi mang số băng ghi hình này lên cho ông Võ Văn Kiệt, nhà báo Ngô Hoàng Giang nhớ lại: Có lẽ tình hình rất căng nên khi tôi xin ông cái biên nhận thì vợ ông, bà Cầm ngăn lại, nhưng ông la bà rồi lấy giấy ra viết biên nhận cho tôi. Xong, ông dặn: “Tiếp tục dũng cảm đồng chí con nhé!”. Tôi nói: “Chuyện người lớn con không biết, cái gì thấy đúng thì con sẽ làm”. Ngày 15-5-
1989, Văn phòng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cũng cử Trợ lý Trương Anh Dũng vào xin các cuộn băng về “vụ án Dương Văn Ba”.
Ngày 19-5-1989, Ban Bí thư điện cho Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin Trần Hoàn về “dư luận sau khi tòa án xử vụ Cimexcol” và yêu cầu kiểm tra việc đưa tin của Đài Truyền hình Cần Thơ. Bộ trưởng Trần Hoàn đã cử ông Lê Quý, giám đốc cơ quan thường  trú phía  Nam, ngay trong ngày 20-5-1989, xuống Đài Cần Thơ làm việc. Ông Lê Quý đã yêu cầu Truyền hình Cần Thơ “tạm ngưng tuyên truyền”, cho dù theo Ban Giám đốc Đài thì họ nhận được rất nhiều thư yêu cầu phát lại và đưa thêm ý kiến.
Ông Lê Quý lưu ý: “Nhiều đồng chí nói, các buổi tường thuật của Đài cho thấy tòa án của ta yếu quá, kém quá, hỏi các bị cáo nhiều câu ngớ ngẩn quá. Trong khi đó lời bào chữa của bị cáo chính và của luật sư thì vững vàng, có lý có lẽ và có tính thuyết phục”. Báo cáo nhanh ngày 22-5-1989 của ông Lê Quý viết tiếp: “Có thể đó là sự thật, nhưng nếu kết quả đối với người xem tường thuật vụ án chỉ có vậy thì đúng là cần phải rút kinh nghiệm”.
Trong hai ngày 29 và 30-5-1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng họp nghe báo cáo “diễn biến trước, trong và sau phiên tòa Cimexcol". Trong ngày 30-5, Ban Bí thư ra Thông báo 142 do chính Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký, khẳng định: “Kết quả phiên tòa xét xử cơ bản là tốt vì đã xử đúng người đúng pháp luật. Nhưng trước phiên tòa, chung quanh phiên tòa và sau phiên tòa có những luồng dư luận phủ nhận kết luận của phiên tòa và có những hoạt động không lành mạnh gây hoang mang trong dư luận”. Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng: “Sở dĩ có tình hình đó là do có những người liên quan đến can phạm và vụ án đã hoạt động chống lại việc xét xử”.
Ông Linh thừa nhận một số thiếu sót của các cơ quan tố tụng và: “Y êu cầu làm ngay các việc sau đây: a) Tỉnh ủy Minh Hải phải có thông báo đánh giá tính chất, hậu quả của vụ án, rồi đăng lên các báo khẳng định: tòa xử là đúng không phải Trung ương trù dập Minh Hải như một số dư luận loan truyền; b) Ban Tư tưởng-Văn hóa làm việc với một số trưởng ban tuyên huấn của một số tỉnh thành phía Nam và một số báo, đài để thông tin rõ cho chị em hiểu, không phải như những dư luận không đúng đã và đang loan truyền; kiểm điểm và xử lý nghiêm khắc một số cá nhân cố ý đưa tin, viết bài, quay phim một cách lệch lạc (chú ý kiểm điểm Đài Cần Thơ, Đài Truyền thanh và báo Minh Hải, báo Công An Nhân Dân). Hướng ngay báo đài viết một số bài về vụ án”.
Ngay sau đó, đích thân Thứ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin Lê Thành Tâm dẫn đầu các đoàn làm việc xuống kiểm điểm Đài Cần Thơ và nhà báo Ngô Hoàng Giang. Bà Giang nhớ lại: “Họ đặt ra cho tôi một loạt câu hỏi: tại sao đặt tên chương trình là “buộc tội và gỡ tội”, tại sao tường thuật phiên tòa lại quay cảnh nhân dân ngồi dưới loa nghe các bị cáo nói rồi khóc, tại sao quay hình ảnh bị cáo, luật sư thì đẹp còn tòa viện thì tối um…”. Cho dù bà Ngô Hoàng Giang giải trình ra sao thì trước chỉ thị của tổng bí thư, Đài Truyền hình Cần Thơ cũng phải nhìn nhận là đã “đưa tin phiến diện, một số câu hỏi sắc sảo của Viện Kiểm sát, của Tòa đã không được tường thuật”.
Phó Giám đốc Đài Cần Thơ Trần Quang Mẫn bị khiển trách vì “chủ quan, tin ở cán bộ biên tập”. Phó Giám đốc Châu Ngọc Tiếp bị cảnh cáo vì “đã theo dõi phiên tòa, hiểu vấn đề phức tạp nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm”. Phó Phòng Thời sự Ngô Hoàng Giang bị cách chức vì “vi phạm tính chân thật của báo chí cách mạng”. Ngày 10-6-1989, Tỉnh ủy Minh Hải cũng phải cho ra Thông báo số 19, yêu cầu: “Cán bộ, nhân dân Minh Hải cần tỉnh táo, nhận thức đúng đắn kết quả phiên tòa, cảnh giác các luận điệu của bọn xấu khai thác sơ hở thiếu sót của phiên tòa để phủ nhận kết quả phiên tòa hoặc gây chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Việc tổng bí thư phải chủ trì hai ngày họp Ban Bí thư và đích thân ký vào Thông báo 19 cho thấy ông Linh hiểu tính nghiêm trọng của dư luận xã hội. “Phủ nhận kết quả phiên tòa Cimexcol” là thách thức trực tiếp tới uy tín của ông ở vùng đất mà ông đã từng là bí thư Trung ương Cục. Lúc ấy, ông Linh có đủ quyền bính để kỷ luật các nhà báo không đưa tin về phiên tòa theo định hướng của ông.
Tuy nhiên, càng có nhiều nạn nhân ở miền Tây thì lòng trắc ẩn đối với những người như ông Năm Hạnh, Dương Văn Ba càng dâng lên; đội ngũ cán bộ các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trước đó kỳ vọng vào cả ông Linh giờ đây nghiêng sang gửi gắm niềm tin của họ vào vai trò của ông Kiệt. Ông Dương Đình Thảo kể: “Khi ông Linh điều tôi từ Thành phố ra trung ương giúp việc cho ông, tôi nói: tôi ra phục vụ anh nhưng tôi đề nghị, nếu anh thương Nam Bộ thì phải thương Sáu Dân. Ông Linh trả lời: thương thế nào được, tôi cứu nó bao lần rồi. Tôi bảo: anh nhớ là anh em người ta thương anh nhưng người ta cũng rất thương anh Kiệt”.
Hai tính cách
Vụ Cimexcol gây sứt mẻ không ít tình cảm giữa ông Kiệt, các đồng đội cũ ở miền Tây với ông Linh, đặc biệt là những người đã từng gắn bó với ông Kiệt, ông Linh và vợ ông, bà Bảy Ngô Thị Huệ. Một bên là chồng một bên là bạn bè, đồng đội, bà Bảy Huệ là người day dứt nhất. Ông Kiệt là người đồng hương Vĩnh Long và vẫn được bà Bảy Huệ coi như một người em trai. Ông Kiệt cũng đã từng là người kế nhiệm ông Linh cả trước và sau chiến tranh.
Năm 1960, sau ba năm thay thế ông Linh làm bí thư Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, tại Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông Kiệt được chính ông Linh giới thiệu và được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong thời gian hai ông chiến đấu ở miền Nam, bà Bảy Huệ đã chăm sóc Võ Dũng, rồi Võ Hiếu Dân, hai người con của ông Kiệt với người vợ đầu, bà Trần Kim Anh. Cũng chính bà Bảy Huệ đã tìm gặp Phan Thanh Nam, đứa con lưu lạc của ông Kiệt với bà Hồ Thị Minh. Sau vụ Cimexcol, Trần Bạch Đằng sang nhà gặp bà Bảy Huệ, sau khi văng tục theo kiểu Nam Bộ, ông Đằng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”.
Về sau, khi nhắc lại những xung đột giữa hai người, bà Bảy Huệ nhận xét: “Mỗi người đều có cái ưu, ông Sáu là người dám rẽ sóng ra khơi xa, dám chịu trách nhiệm. Nhưng mỗi ông cũng có cái nhược. Ông Sáu thì Nam Bộ phóng khoáng. Ông Mười thì kỹ lưỡng Bắc Kỳ, nội chuyện ông Sáu lấy vợ, ông Mười cũng không chịu”.
Bà Bảy Huệ đã chỉ ra điểm khác nhau tiêu biểu nhất. Nhưng, không chỉ xuất thân từ hai vùng văn hóa, từ hoàn cảnh vào đời, con đường đến với những người cộng sản, đến chuyện lấy vợ, đối xử với anh em, đồng chí của ông Linh, ông Kiệt đều có nhiều điểm khác nhau. Đặc biệt, càng về sau, cách đánh giá thời cuộc của hai ông càng có nhiều khoảng cách, sự khác biệt này có khi thể hiện trong nhiều quyết sách, có khi xảy ra một cách ngấm ngầm, chỉ những người ở rất gần mới thấy. Lớn hơn ông Võ Văn Kiệt bảy tuổi, ông Nguyễn Văn Linh sinh ngày 1-7-1915 tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. Phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Ngô Thị Huệ kể: “Cha anh là cụ Nguyễn Đức Lan làm nghề dạy học, mẹ tảo tần buôn bán kiếm thêm chút đỉnh tiền phụ vào đồng lương ít ỏi của chồng. Lên bốn tuổi anh đã mồ côi cha. Gánh nặng nuôi nấng dạy dỗ ba chị em của anh đè trĩu lên đôi vai gầy của mẹ. Năm mười một tuổi anh theo bà và chú Thụ về sống ở Hải Phòng và được chú gởi vào học trường Bonnal, trường trung học đầu tiên ở Hải Phòng do người Pháp mở”.
Ngay từ khi còn học lớp nhì, ông Nguyễn Văn Linh đã được đọc những tác phẩm văn chương  bằng tiếng Pháp như Những Người Khốn Khổ, Không Gia Đình, được học tại nhà với thầy Thế Lữ. Từ trong trường Tây, ông Nguyễn Văn Linh đã được nghe một ông thầy người Việt, đóng cửa lớp, đọc cho học sinh nghe những bài báo viết từ Paris của Nguyễn Ái Quốc. Mười bốn tuổi tham gia Học sinh Đoàn của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Mười lăm tuổi bị bắt khi đang đi rải truyền đơn, bị kết án chung thân và đày đi Côn Đảo. Từ năm 1930 đến năm 1936, ông Linh bị giam chung “Banh 1” và được giao phụ việc cho người tù lớn tuổi Tôn Đức Thắng. Tại đây, ông học thêm tiếng Pháp từ các đồng chí của mình và bắt đầu tiếp xúc với các tác phẩm của Marx-Lenin qua số sách báo mà một “thủy thủ Pháp tiến bộ” cung cấp cho tù nhân Phạm Văn Đồng.
Cho tới lúc ấy, ông Kiệt vẫn chưa một ngày rời khỏi đồng quê, chưa nghe tới hai từ “cộng sản”. Trước khi “làm cách mạng”, ông Kiệt chỉ mong kiếm được nghề lơ xe hay cắt tóc để thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn và làng quê tù túng. Thời ấy, những người dân quê ông, thấy ai nói giọng Đàng Ngoài đều cho là “đám người Huế”.
Ông Võ Văn Kiệt sinh ngày 23-11-1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Lương, huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long. Trong ấp lúc ấy chỉ có vài hương chức có nhà ngói, dân làng phần lớn phải thuê đất, thuê ruộng. Cha ông, ông Phan Văn Dựa, cũng nghèo như số đông trong làng, từ đất ở, đất ruộng, đến trâu cày đều đi thuê hết.
Tên khai sinh của ông Võ Văn Kiệt là Phan Văn Hòa, con út trong một gia đình có năm anh trai và hai chị gái. Gọi theo thứ bậc trong các gia đình Nam Bộ là Chín Hòa. Thời gian ấy, mẹ ông, bà Võ Thị Quế, phải nuôi thêm đứa trẻ cho một người bà con nên chấp nhận để Chín Hòa làm con nuôi một ông chú họ tên là Phan Văn Chi, không con, không vợ. Từ năm lên sáu, lên bảy tuổi, vào mùa gặt, Chín Hòa thường theo cha nuôi lênh đênh đi gặt mướn cho các điền chủ dọc sông Tiền, sông Hậu. Công việc của cậu là giữ ghe hoặc mót lúa. Mỗi mùa như thế, Chín Hoà cũng kiếm thêm cho cha nuôi được vài giạ. Sông nước miền Tây, khắp Cà Mau, Bạc Liêu cậu rành từ hồi đó.
Năm tám tuổi, Chín Hòa bắt đầu được đi học. Lớp học do những gia đình trung nông, địa chủ, sau ngày mùa, cất trại, rước thầy về “dạy mùa” và gần như không lấy tiền của con trẻ. Ông Hai Mẹo, một trong hai người thầy “dạy mùa” của ông, kể: “Năm 1932, lấy được mảnh bằng, tôi về làng, ông chú thấy tôi có chữ, kêu tôi dạy cho trẻ con lối xóm. Chín Hòa thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được hai năm thì tôi cũng hết chữ, rồi thôi”. Mấy năm sau, những người truyền giáo cho cất một trường học nhỏ dọc theo con đường đi qua ấp Bình Phụng. Ông Hai Chi thấy Chín Hòa khát chữ lại nhân có trường, ông nói: “Cho mày đi học tiếp”. Những lớp học ở làng không đưa lại cho Chín Hòa bằng cấp nhưng đã giúp cậu đọc thông viết thạo.
Khi tham gia hoạt động, Chín Hòa đã lấy họ Võ của mẹ rồi tự chọn tên cho mình, cái tên mà về sau thành danh: Võ Văn Kiệt. Con đường làm cách mạng của Chín Hòa cũng rất tình cờ. Trong đám giỗ 100 ngày của mẹ, cậu gặp ông Hà Văn Út, nghe ông Út nói với mấy anh lớn chuyện áp bức, chuyện bình đẳng. Chín Hoà nghe, cứ như nuốt từng lời. Ông Út để ý, lần sau về tìm cậu. Sau vài lần gặp, Chín Hoà bắt đầu được giao việc: vừa kết hợp gặp các anh chị, vừa đưa tài liệu.
Những ngày hoạt động ấy đã biến Chín Hòa trở thành một con người khác. Ông Hai Mẹo nhớ lại: “Mới mười mấy tuổi, chả họp dân, nói, ai cũng há hốc mồm nghe. Chả vận động đi cướp chính quyền, người ta xách rựa đi hết”. Năm 1940, Quận ủy Vũng Liêm chủ trương làm một cuộc mít tinh thật vang dội để “bắt mạch phong trào” chuẩn bị “khởi nghĩa”. Diễn giả chính trong cuộc mít tinh là chị Năm Hồng, 20 tuổi, bí thư Quận ủy. Chị Năm Hồng nói về tương lai mỗi nông dân sẽ có được một mảnh ruộng của mình, dân chúng nghe, ai nấy đều sung sướng.
Ông Kiệt lúc đó là bí thư xã được phân công học thuộc một bài do trên gửi xuống về “thanh niên phản đế”. Khi nói đến “đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ phong kiến địa chủ, giành bình đẳng tự do”, thanh niên bật dậy, hô to khẩu hiệu. Quần chúng cảm tình Đảng và những đảng viên trẻ hát vang “Bài ca Xích vệ”. Sau cuộc mít tinh đó, tề xã báo lên quận, quận xuống, lùng vô Đìa Chảo, thấy “mấy mươi công đất cỏ lác bị giẫm nát”. Chính quyền sửng sốt trước cuộc mít tinh. Dân chúng thì xôn xao về vụ “cộng sản diễn thuyết quốc sự”.
Ông Võ Văn Kiệt cũng chính là một trong những người chỉ huy cuộc dấy binh đêm 23-11-1940 ở Vĩnh Long: Đêm “Cộng sản dậy”, theo cách nói của dân chúng lúc đó, và “Nam Kỳ khởi nghĩa” theo cách gọi của lịch sử Đảng Cộng sản sau này.
Đêm đó, ông Kiệt - mười tám tuổi - dẫn lực lượng hai xã gần trăm người đi “lấy” đồn bắc Nước Xoáy. Anh em, toàn thanh niên, trong tay chỉ có giáo mác, gậy gộc và một ống loa làm bằng thùng sắt. Khi những người “khởi nghĩa” xáp vô, lính canh đồn đang ngủ trở tay không kịp. Đoàn quân vây bắt lại, tước súng, phân công người xuống đục chìm phà. Một số anh em lấy giáo mác chặt đứt hết dây thép, cắt đường thông tin, ông Kiệt trèo lên cổng đồn, bắc loa kêu gọi đồng bào “nổi dậy đánh đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, phong kiến địa chủ”.
Lấy xong đồn Bắc Nước Xoáy đội quân của ông Kiệt ung dung lắm, đinh ninh giờ đó, Sài Gòn, thị xã Vĩnh Long cũng đều đã “cướp chính quyền”. Nhưng đêm ấy Sài Gòn không “khởi nghĩa”, Vĩnh Long cũng không. Sau này, những người còn sống nghe nói: “Trung ương phân tích tình hình, ra lệnh ngừng cuộc khởi nghĩa”. Nhưng chính ông Quảng Trọng Hoàng, bí thư Liên Tỉnh ủy, cũng không biết.
Ông Kiệt nhớ lại: Khi trời vừa hửng sáng, thấy xe từ Vĩnh Long chạy xuống, chở toàn lính! Hết xe này đến xe khác. Biết Vĩnh Long hỏng. Anh Hoàng nói: “Ta không đối phó nổi rồi”. Các nghĩa binh bảo nhau chôn mấy khẩu súng vừa lấy được, hóa trang, trở ra. Lúc đó, khắp xóm làng dậy lên tiếng trống, tiếng mõ kêu “bắt cộng sản”. Anh Hoàng bảo: “Tụi bây về nhà rồi tìm cách bắt liên lạc sau”.
Ông Kiệt về làng mới biết đồng đội theo ông đi đánh đồn chỉ lẻ tẻ còn đôi ba người về tới nơi. Số đông bị bắt, bị giết, trong đó có người anh thứ ba của ông. Người dân hết sức hoang mang, nhiều người oán trách nghĩa binh, nhất là sau khi Quận ra lệnh đốt hết ấp Bình Phụng vì những người bị bắt khai ra “ổ cộng sản” bắt đầu từ đây. Các ấp mà Quận cho là “làm loạn” khác đều lần lượt bị đốt.
Hai cuộc hôn nhân
Sự khác nhau giữa ông Võ Văn Kiệt và ông Nguyễn Văn Linh còn thể hiện rất rõ trong tình cảm riêng tư. Trong chuyện lập gia đình, ông Võ Văn Kiệt cũng là người “xé rào”.
Ông Võ Văn Kiệt gặp người vợ đầu tiên của mình ở rừng U Minh. Năm ấy, ông hai mươi bảy tuổi, đang là ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá. Ông Kiệt nhớ lại: “Chị em cán bộ, đảng viên cùng chiến đấu cũng có quan tâm chạy lo giới thiệu. Mấy chị bảo, cán bộ lãnh đạo của Đảng, vợ con cũng phải cán bộ, đảng viên. Cho dù ở trong Nam không nặng lắm về thành phần nhưng các chị cũng muốn vợ con phải là ‘người đồng hành cùng lý tưởng’. Tôi bảo: lấy vợ chứ có phải lập chi bộ đâu. Khi đó, tôi đã bắt đầu để ý một cô gái không những không phải đảng viên mà còn là con của một người có gốc là địa chủ”. Cô gái đó là Trần Kim Anh, con thứ sáu của ông bà Trần Quang Quy và Nguyễn Thị Tạo.
Cuộc hôn nhân cũng có nhiều sức cản, kể cả phía tổ chức. Nhiều người không đồng ý cho ông Kiệt cưới con địa chủ, dù là địa chủ đã hiến gần hết đất cho cách mạng. Ông Trần Quang Hiến, anh trai kế của bà Trần Kim Anh, kể: “Trước năm 1945, cha tôi có 300 mẫu ruộng và một nhà máy xay lúa ở Ngã 5, thuộc làng Tân Long, quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá, cũng thuê mướn nhân công nhưng chủ yếu là tự làm. Ở miền Tây có 300 mẫu ruộng vẫn được coi là địa chủ nhỏ. Năm 1945, anh Năm tôi tham gia Thanh niên Tiền phong rồi sau vào Quốc gia Tự vệ cuộc. Khi Tây tấn công Ngã Năm, anh tôi đem thiết bị máy móc về, đốt nhà máy xay, đốt chợ Ngã Năm theo chủ trương ‘tiêu thổ kháng chiến’. Từ đó, cả nhà theo kháng chiến luôn”.
Đầu năm 1946, Tây chiếm hết Rạch Giá. Giữa năm đó, Việt Minh mới tổ chức lại, đánh rát. Tây bỏ Ngã Năm, U Minh giải phóng. Theo ông Trần Quang Hiến: “Năm 1949, ông già ‘hiến điền’ hết, chỉ chừa lại phần đất thừa kế của ông nội, chừng ba mươi mẫu. Em gái kế tôi, Trần Thị Kim Anh, sinh năm 1932, cũng bắt đầu tham gia các lớp bình dân học vụ. Trước năm 1945, cô Bảy - ông Hiến gọi em gái theo thứ bậc của người miền Nam - đã học hết lớp 3 ( élémentaize); sau 1945, ông già rước thầy về dạy thêm, cô cũng có tham gia một số hoạt động phụ nữ. Cô Bảy gặp ông Kiệt trong một lần ông đi thăm mấy trường học. Khi đó, cơ quan của ông Kiệt cũng đóng ở gần nhà”.
Ông Kiệt nhớ lại: “Nhà tôi khi ấy vừa bước qua tuổi mười bảy, hiền lành, ít nói nhưng cũng rất chính kiến. Là con gái áp út xinh đẹp, gia đình cũng muốn tìm nơi tương xứng để gả. Nhưng bả cứ kiên quyết với mình. Sau gia đình cũng cưng con nên chiều theo ý”.
Ông Trần Quang Hiến kể tiếp: “Anh Tư tôi không muốn em gái lấy ông Kiệt. Thuở ấy ông Kiệt mặc bộ đồ bà ba đen, quấn khăn rằn, rất đẹp trai. Nhưng, ông ấy làm gì thì nhà cũng không rõ. Bạn bè anh Tư tôi toàn người khá giả, ảnh cũng muốn em mình có nơi, có chốn, đặng nương tựa được. Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến quận Ngã Năm lúc đó là ông Lưu Văn Lai, con rể chú ruột tôi. Ông Kiệt nhờ ông Lai đi nói chuyện giùm. Gia đình cũng muốn xem mặt. Một hôm, trên đường lên Quân khu IX, tôi và ba tôi ghé nhà ông Lai, gặp khi ông Kiệt đang ở đó. Ông Kiệt ra chào hỏi, ông Lai nói, đây là người muốn hỏi chị Bảy. Xong bữa đó, khi xuống ghe về, ông già tôi nói: ‘Tao thấy thằng đó được, nhân trung sâu, nhân hậu. Người như vậy là trước sau như một. Nhưng, không biết gia thế nó thế nào’. Tôi bảo: ‘Gia thế nghèo, dân kháng chiến thôi, ba ơi’. Ba tôi nói: ‘Thôi, không kể giàu nghèo’”.
Đám cưới tổ chức đơn giản, do gia đình bên vợ bỏ tiền ra lo hết. Theo ông Trần Quang Hiến: “Tôi lấy gạo nhuộm xanh, nhuộm đỏ, rắc lên tấm kiếng thành chữ Tổ quốc rồi dựng bàn thờ Tổ quốc trước nhà. Cô Bảy và dượng Bảy đứng một bên, ông già tuyên bố tác hợp vợ chồng. Ông Tư Trí, hương chủ, làm chủ lễ bên trai, ông già tôi làm chủ lễ bên gái. Cùng dự có ông Nguyễn Thành Nhơn, khi ấy là chủ tịch Ủy ban Cách mạng tỉnh Rạch Giá và một số cán bộ Việt Minh. Cô dâu mặc áo bà ba, chú rể cũng mặc áo bà ba. Tôi nhớ khi đó trời khô ráo, khoảng chừng trước tháng 11 Âm lịch năm 1949”. Mối tình của ông Nguyễn Văn Linh và bà Ngô Thị Huệ lại diễn ra hoàn toàn khác. Thay cho những kỷ niệm lãng mạn, họ đến với nhau như một ví dụ tiêu biểu cho sự “đồng hành cùng lý tưởng” của những người cộng sản.
Bà Bảy Huệ kể: “Lần đầu gặp anh là lúc anh từ Côn Đảo trở về. Lần thứ hai, anh ra đón tôi tại ga xe lửa Sài Gòn sau khi tôi đi dự Kỳ họp Quốc hội khóa đầu tiên ở Hà Nội. Tránh sự dòm ngó của bọn mật thám, tôi đi sau anh một khoảng cách khá xa. Tôi đã thoáng nghĩ về anh: một người đồng chí chín chắn, trầm tĩnh, tự tin. Anh mặc chiếc quần cụt màu đen, áo sơ mi trắng ngắn tay, hai vai đã sờn và có lẽ chiếc áo sờn vai đó đã đi vào lòng tôi. Sau này mới biết anh đã để ý tôi ngay từ buổi đầu gặp mặt và sau một thời gian anh viết thư ngỏ ý thương tôi”. Tổ chức đã tham gia tác thành cuộc hôn nhân này bằng cách điều bà Ngô Thị Huệ về Sài Gòn bổ sung vào Thành ủy.
Không có những cuộc hò hẹn “công viên, ghế đá”, họ chỉ gặp nhau qua những lần hội họp, học nghị quyết. Theo bà Bảy Huệ, trong một cuộc họp như thế ông Linh ngỏ ý muốn gặp riêng bà. Ngay cả trong giây phút riêng tư này, họ cũng hành động như những người đồng chí.
Bà Bảy Huệ kể: “Chúng tôi đứng nói chuyện với nhau trên gác thượng. Nhìn xuống đường thấy mấy người ăn xin lê lết, tôi buột miệng nói với anh: ‘Còn có những người như thế này, mình mới thoát ly gia đình đi làm cách mạng’. Biểu thị sự đồng tình, anh nói: ‘Đúng vậy. Lầm than, bất công phải được xóa bỏ. Chúng mình hi sinh, đấu tranh là nhằm giải phóng đất nước, đem lại công bằng hạnh phúc cho dân’. Anh thường tâm sự: ‘Hai chúng mình thuộc tầng lớp nghèo, đều có trải qua tù tội, thấm thía nỗi đau của riêng mình nằm trong nỗi đau của dân tộc, những điểm giống nhau đó sẽ giúp chúng mình dễ cảm thông nhau, sẽ biết sống và biết hi sinh cho nhau”. Lễ thành hôn của họ cũng diễn ra đơn giản vào 23-5- 1948, nhân một hội nghị của Thành ủy. Chủ hôn là ông Lê Văn Sỹ, một người bạn tù thân thiết của ông Linh từ thời Côn Đảo.
Bà Bảy Huệ viết: “Sau lễ cưới, chúng tôi đưa nhau về Rạch Chanh, ở đây có sẵn mấy căn nhà nhỏ vừa được dựng lên làm chỗ nghỉ ngơi cho đại biểu về họp hội nghị. Tôi nhớ như in, đêm đó mười bốn trăng tròn vạnh, ánh trăng tràn qua cửa sổ vẽ thành những vệt sáng trải dài trên vách. Bên hè, theo từng cơn gió thoảng, những tàu lá chuối đong đưa xào xạc như múa nhảy chan hòa niềm vui hạnh phúc của hai chúng tôi”.
Trong khung cảnh lãng mạn ấy của đêm tân hôn, bà Bảy Huệ viết: “Gà đã gáy sáng mà câu chuyện tâm tình như chưa dứt được. Khi anh nhắc đến nỗi cơ cực của thời thơ ấu, chúng tôi đã không cầm được nước mắt. Trả lời câu tôi hỏi: ‘Nghe nói người cộng sản không biết khóc mà?’. Anh nói: Có chứ! Người cộng sản nếu khác người thường là khác ở chỗ biết lúc nào phải lau nước mắt”.
Theo bà Bảy Huệ, từ khi lấy nhau cho tới khi có ba mặt con, “chưa bao giờ vợ chồng được chung sống với nhau quá nửa tháng”. Chia ly và chờ đợi không phải là câu chuyện của riêng vợ chồng ông Nguyễn Văn Linh mà thực sự là một hy sinh lớn lao của những người phụ nữ có chồng theo cộng sản.
Ở Việt Bắc
Cưới vợ chưa được bao lâu, ông Võ Văn Kiệt được điều xuống Bạc Liêu làm phó Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 6-1950, ông được cử ra Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ II. Theo ông Trần Quang Hiến: “Dượng Bảy đi khi cô Bảy có bầu thằng Dũng chừng bốn, năm tháng. Dượng Bảy về thì thằng Dũng đã biết đi. Lúc ấy tôi nhớ vào độ đầu năm 1953. Hôm đó, cả nhà đang tụ họp làm bánh xèo, cô Bảy đang quét sân gạch phía sau. Tôi nhìn ra rặng trâm bầu, thấy một người đi rất nhanh vô bàu sen. Dượng Bảy. Dượng mặc bộ đồ vải ta, nhuộm lá ổi, lá trâm bầu, màu mốc. Cô Bảy nhìn thấy, liệng cái chổi, chạy vô buồng ôm mặt khóc. Tôi bước ra ôm lấy dượng. Còn chị tôi thì bảo: vô buồng hỏi thăm nó đi. Chiều đó, cả gia đình ai cũng mừng rớt nước mắt. Mấy năm trời, dượng đi, không thư từ, không ai biết ở đâu, làm gì, còn hay mất”.
Sau Đại hội II, ông Võ Văn Kiệt ở lại dự lớp “Hoa Nam” do trường Nguyễn Ái Quốc III mở tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lớp do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh giảng dạy. Một số cán bộ vừa tập huấn ở Hoa Nam, Trung Quốc về tham gia hướng dẫn thảo luận, thấy lý lịch Võ Văn Kiệt là bần nông, có đi ở đợ, rất “cốt cán”, thích lắm.
Các thầy chọn ông tham gia một tiết mục kịch, ông vào vai địa chủ. Đêm diễn vở kịch đó, có Tổng Bí thư Trường Chinh dự. Ông Kiệt nhớ lại: Mặc dù được liệt vào loại “gan to”, nhưng có ông Trường Chinh, ông cũng thấy “ớn” lắm. Trước khi bắt đầu, ông Kiệt phải xung phong làm một màn múa lân cho nóng người để lấy can đảm. Hết vở kịch, các khách mời đều khen, động viên. Ông Trường Chinh bắt tay ông: “Đồng chí diễn khá lắm, nhưng đấy là địa chủ Nam Bộ chứ không phải địa chủ Bắc Bộ”.
Ông Kiệt lúc ấy không hiểu hết lời nhận xét của ông Trường Chinh, quan điểm giai cấp của ông không hình thành từ chủ nghĩa Marx-Lenin mà từ kinh nghiệm của những ngày đi ở đợ. Ở Nam Bộ ông thấy: giàu hay nghèo thì cũng có người tốt, người xấu; người giàu cũng có người rộng rãi, người keo kiệt; tá điền cũng có người ngay thẳng, có người ton hót, hại nhau. Địa chủ sau cùng mà Chín Hòa làm thuê là ông Mười Phái, người đứng đầu hội bóng đá trong xã, nơi Chín Hoà - một thanh niên phải đi ở đợ - cũng được tham gia bó lá chuối làm banh. Mỗi khi Chín Hoà xay lúa, giã gạo, “địa chủ Mười Phái” còn lên phụ.
Năm 1950, ông Lê Đức Thọ và ông Lê Toàn Thư từ Xứ ủy Nam Bộ xuống Tỉnh ủy Rạch Giá trao quyết định giao ông Võ Văn Kiệt làm bí thư tỉnh ủy thay ông Nguyễn Thành Nhơn chỉ vì ông Nhơn là địa chủ, ông Kiệt không chịu. Ông Lê Đức Thọ nói: “Hoặc là cậu làm bí thư, hoặc là cậu chịu kỷ luật?”. Ông Kiệt đã nhận kỷ luật Đảng cảnh cáo thay vì đồng ý với lý do kỷ luật ông Nhơn. Ông Kiệt nói với mấy thầy trợ giảng ở lớp Hoa Nam: “Tôi biết địa chủ Nam Bộ, ở miền Nam không có Bạch Mao Nữ162”.
Một trong những thầy trợ giảng của lớp chỉnh huấn, ông Đào Nguyên Cát, nhớ lại: “Tôi được phân công giúp anh Kiệt tìm ‘tư tưởng chủ đạo’. Theo những gì tôi được học ở lớp ‘chỉnh phong’ bên Hoa Nam, Trung Quốc thì vào Đảng, phải giác ngộ lập trường giai cấp công nhân. Do đó, mỗi người, phải tìm xem ‘lập trường cũ’ của mình là gì để mà từ bỏ. Khẩu hiệu viết trên tấm băng đen của lớp chỉnh huấn nhấn mạnh: thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của mình là thước đo độ trung thành với Đảng. Kết quả, anh Kiệt ‘thành khẩn’ nhận: Khi vào Đảng anh mới chỉ vì để ‘giải phóng dân tộc’ chứ chưa phải vì ‘giai cấp’, cũng có lúc anh ‘dao động’, ‘nhận thức không rõ ràng về tội ác của địa chủ’ là một ví dụ. Nên tôi kết luận: tư tưởng chủ đạo của anh Kiệt là ‘tiểu tư sản’ dù anh là con của một người bần nông”.
Khi cùng Đại tá Trần Tấn Nghĩa, một người bạn học ở các lớp Hoa Nam, về lại Việt Bắc 163, ông Võ Văn Kiệt đã nói với ông Trần Tấn Nghĩa: “Mày nhớ những gì học hồi đó không? Lớp mà tao và mày học là sai lầm, mày ạ”. Có lẽ sự nghiệp của ông Võ Văn Kiệt đã khác nếu như trong thời gian ở Chiêm Hóa, ông không phạm khuyết điểm quan hệ nam nữ, khiến ông không thể đến Hoa Nam đào tạo tiếp.
Ở Đại hội II, ông Trần Tấn Nghĩa là đại biểu dự khuyết. Khi về trường, ông Nghĩa là trưởng Ban An ninh. Hơn một năm ở Chiêm Hóa, hai người chơi rất thân với nhau. Công việc mà các học viên thích hơn là đi qua thị trấn Chiêm Hóa ra bến đò vác gạo. Mặc dù theo quy định của nhà trường, các học viên phải chấp hành “ba không: không nghe, không biết, không thấy”. Nghĩa là, theo ông Nghĩa: “Đi qua không được nhìn vào thị trấn. Nhưng, đi vác gạo cũng vui. Kiệt cũng rất dí dỏm. Một lần, theo đoàn có cô Xuyến, tôi đùa: cậu vác gạo hộ Xuyến đi. Kiệt cười: bỏ cả bà Xuyến và gạo lên thì tôi cõng”. Ông Nghĩa kể: “Chúng tôi là cán bộ cao cấp đi học mà không có đồng cắc nào cả. Gần cây đa nước chảy có một quán nước của một cô gái khá xinh tên là Hạ. Chúng tôi gọi quán cô Hạ là ‘máy chém cây đa nước chảy’. Cạnh đấy có một con suối, chảy từ sông Gâm vào, nam nữ đều ra suối tắm, trong số đó có cô Hồ Thị Minh”.
Bà Hồ Thị Minh là chủ bút đầu tiên của tờ Phụ Nữ Cứu Quốc Nam Bộ, bà đã từng được cử sang Pháp dự Hội nghị Femmes Francaises. Bà Ngô Thị Huệ kể: “Minh biết mấy ngoại ngữ, trẻ trung xinh đẹp. Xứ ủy có ý định đưa Minh ra miền Bắc giúp việc bác Hồ. Thời gian ở đại hội, Minh được bố trí nằm ở cuối lán nữ, cách một bức vách nứa đan là lán nam nơi Bác ở. Qua cái vách đó hai người nói chuyện với nhau khá nhiều”.
Năm ấy ông Hồ Chí Minh đã sáu mươi mốt tuổi. Hồ Thị Minh mới ngoài hai mươi. Theo ông Trần Tấn Nghĩa: “Ở trường, trong các sinh hoạt buổi tối, Vũ Quang hay dạy nhảy Valse. Tôi để ý thấy Kiệt toàn nhảy với Minh. Thỉnh thoảng đi tuần đêm tôi cũng bắt gặp hai người ngồi với nhau ngoài bờ suối”. Năm ấy, ông Võ Văn Kiệt đang là một chàng trai hai mươi chín tuổi, ở nơi thâm sơn đó đã hơn một năm. Bà Hồ Thị Minh dính thai. Ông Nghĩa kể: “Hai đứa không dám nói với ai. Mỗi khi Minh thèm chua tôi lại đi tìm quả nhót cho cô ấy”.
Khi biết sự tình, Văn phòng Trung ương đã kín đáo bố trí cho bà Hồ Thị Minh sinh con. Ông Kiệt kể: “Năm 1952, trước khi về Nam tôi có đi thăm cháu. Hôm ấy mẹ cháu cũng tới gặp tôi. Khi về Nam, tôi nói hết với nhà tôi. Cô ấy khóc và nhắc tôi phải tìm cách đưa con về”.
Bà Trần Kim Anh
Trong thời gian ông Võ Văn Kiệt ra Bắc, bà Trần Kim Anh vẫn sống với gia đình bên ngoại. Ông Trần Quang Quy sai đứa cháu nội là Trần Quang Minh, năm ấy chín tuổi, đi theo phụ giúp cô Bảy. Ba của Minh là ông Trần Tấn Khả, từng tham gia Thanh niên Tiền Phong”, năm 1946 bị Tây bắn chết.
Đó là một thời kỳ vất vả của cô cháu bà Kim Anh. Ông Minh kể: “Ông nội tôi để lại cho cô Bảy năm công đất, cô Bảy đang mang bầu vẫn bươn chải ngoài đồng. Có hôm đi chở mạ, chìm ghe, tôi phải vớt cô lên”. Ông Kiệt từ Việt Bắc trở về, lại xuống Bạc Liêu làm bí thư, một thời gian sau thì đón bà Trần Kim Anh xuống. Họ cất một căn nhà nhỏ dưới một gốc cây ô môi cạnh bến sông. Năm 1955, bà Kim Anh sinh người con thứ hai, con gái. Ông Kiệt đặt tên con là Võ Hiếu Dân. Theo ông Trần Quang Hiến: “Cô Bảy về nhà ở chừng một năm rồi lại đi theo dượng Bảy, lang thang lên Cần Thơ. Một thời gian sau khi Hiếu Dân lớn hơn, cô Bảy về nhà đón Võ Dũng nói là sẽ đi xa một thời gian. Lần đó, cô Bảy đi Campuchia”.
Năm 1957, sau khi ông Lê Duẩn thoát qua Campuchia, Xứ ủy tạm thời lánh sang Phnom Penh. Cuối năm 1958, ông Võ Văn Kiệt cho người về đón vợ con. Võ Dũng cùng những đứa trẻ con em của các cán bộ Xứ ủy được gửi vào học trong một trường phổ thông dạy bằng tiếng Pháp. Đây là khoảng thời gian duy nhất mà gia đình ông Kiệt đoàn tụ và được sống trong cảnh tương đối thanh bình cho dù bà Trần Kim Anh có một thời gian bị bệnh. Nhưng đó là sự thanh bình tĩnh lặng của mắt bão.
Từ Phnom Penh, Võ Dũng được gửi ra Bắc, Hiếu Dân và mẹ về lại nhà ông ngoại. Ông Kiệt trở lại Sài Gòn thay ông Nguyễn Văn Linh làm bí thư Khu ủy giữa khi Chính quyền Ngô Đình Diệm đang truy lùng gắt gao những người cộng sản. Trước khi chia tay, cả gia đình kéo nhau ra tiệm ảnh, nhưng trong tình thế tiếp tục hoạt động bí mật ở miền Nam, ông Kiệt quyết định không chụp chung với vợ con, ông không biết rằng, đó là cơ hội cuối cùng để ông có một tấm hình chung với vợ.
Ở quê, gia đình bên vợ ông Kiệt cũng đang ở trong một giai đoạn khánh kiệt. Ông Trần Quang Hiến kể: “Thời Tây vườn ông già tôi ở Thạnh Trị, Sóc Trăng bị ném bom, gia đình phải dời lên Rạch Giá. Ruộng đất bán lần lần”. Ở Rạch Giá, nhiều người biết bà Trần Kim Anh là vợ Việt Cộng. Hiếu Dân lúc đó năm, sáu tuổi, đôi khi cũng hồn nhiên kể ra chuyện ba má cô ở Campuchia. Bà Kim Anh sợ “tai vách mạch rừng” nên quyết định chuyển lên Sài Gòn sống.
Một lý do khác để bà Kim Anh rời Rạch Giá, theo ông Kiệt: “Nhà tôi biết hướng công tác mới của tôi. Hồi ở Phnom Penh, bả đã quen biết vợ ông Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Tấn Phát nên hy vọng lên Sài Gòn sẽ có cơ may lần ra manh mối gặp chồng”. Theo ông Trần Quang Hiến: “Gia cảnh lúc này nghèo lắm, anh em tôi mua một căn nhà nhỏ ở hẻm Đội Có, đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận”. Anh Trần Quang Minh, một người cháu ruột của bà Kim Anh, nhớ lại: “Đó là một căn nhà lá, sàn gỗ, dựng trên ao rau muống, vợ chồng cậu Sáu Hiến, cô Bảy, tôi và Hiếu Dân ở”. Theo anh Minh: “Cô Bảy học nghề làm bánh tai yến từ một người bà con. Cậu Sáu còn ít tiền mua hai cái bếp dầu. Chiều tối, tôi xay bột đổ trong cái bồng, dằn thớt lên cho ráo nước. Khuya cô Bảy và thím Sáu dậy thắng nước đường, chiên bánh. Tôi và cậu Sáu mỗi người một xe đạp chở cô Bảy ra chợ Tân Định, chở thím Sáu ra chợ Phú Nhuận. Tiền lãi của hai người chỉ khoảng năm, mười ngàn một ngày, đủ sống”.
Khoảng tháng 9-1960, ông Võ Văn Kiệt cho người về liên lạc với bà Trần Kim Anh. Bà cũng phải ăn nói đi lại như một người hoạt động bí mật, cho dù chưa bao giờ đứng trong hàng ngũ của chồng. Ông Trần Quang Hiến nhớ: “Mỗi khi có hẹn, tôi chở cô Bảy tới một địa điểm định trước, có khi là một cây cột đèn nào đó, thả cô đấy, khi tôi đi rồi người ta mới tới rước cô. Cô Bảy đi đâu, tôi cũng không biết mà cô cũng không nói”. Lúc này, Khu ủy Sài Gòn-Gia Định đã về lập căn cứ ở Hố Bò, Củ Chi. Năm 1961, ông Kiệt đưa vợ con ra căn cứ ở một thời gian.
Những  khi chính  quyền  Sài Gòn  không    ruồng  bố gì thì  Khu ủy cũng  ở trong nhà những người  dân địa phương. Thường những người dân này hoặc là cơ sở hoặc là cán bộ công tác trong cơ quan Khu ủy. Theo anh Trần Quang Minh: “Cô Bảy lên Củ Chi thường ở trong nhà ông Tư Mai hoặc bà Mười Cước”.
Khi có thai người con thứ ba, bà Kim Anh lại rời Hố Bò, Củ Chi về Rạch Giá ở nhà ông bà ngoại. Anh Minh kể: “Đầu năm 1962, tôi chèo ghe đưa cô Bảy đi sanh, qua nhà ông Mười Nhỏ thợ may thì đau bụng phải tấp vô. Cô Bảy sanh luôn Ánh Hồng ở đó. Bà Mười nấu nước, cắt rún giúp. Cô cháu tôi ở lại Rạch Giá cho tới khi Ánh Hồng chập chững biết đi, lại bồng bế con lên Sài Gòn”. Lần này Khu ủy bố trí một ủy viên thường vụ làm “chồng bình phong” để bà Kim Anh sống hợp pháp trong thành phố.
Năm 1963, ông Kiệt lại đưa vợ ra Củ Chi, lần này bà Kim Anh và các con ở nhà một cơ sở thường gọi là ông Mười Cước. Khác với nhiều đồng chí khác, ông Kiệt vẫn không “kết nạp” vợ vào tổ chức của mình. Tuy nhiên, khi cần, ông vẫn huy động cả gia đình vợ làm việc cho Cách mạng.
Năm 1965, ông Kiệt quyết định gửi người con thứ hai ra Bắc. Bà Kim Anh chuẩn bị đồ đạc cho con, buổi sáng tiễn con gái đi, chiều bà ghé qua bệnh xá Khu ủy khám mới biết mình đang có thai đứa con thứ tư. Nghĩ khi sinh nở, chồng cũng chẳng giúp được gì nên bà Kim Anh định giữ lại Hiếu Dân, năm ấy đã lên mười tuổi. Nhưng, khi bà quay lại trạm giao liên thì Hiếu Dân đã lên đường ra Bắc cùng với vợ chồng ông Trần Đức Thuận và con trai ông Phạm Văn Xô, một cán bộ cao cấp của Trung ương Cục. Như những lần trước, mỗi khi có thai, bà Kim Anh lại trở về Rạch Giá nương tựa nhà cha mẹ mình.
Cuối năm 1965, ông Võ Văn Kiệt viết thư về nhắn vợ, sanh nở xong thì thu xếp lên chiến khu. Theo ông Trần Quang Hiến: “Trong thơ, dượng Bảy cũng nói dượng sẽ gửi tiền về nhờ mua lương thực. Cô Bảy đưa thơ cho tôi coi, băn khoăn không biết làm sao chuyển hàng lên. Tôi nói để tôi lo. Nhà cũng muốn cô Bảy từ từ hẵng đi vì khi đó cháu Chí Tâm mới hơn ba tháng tuổi. Nhưng cô Bảy cũng nóng lòng gặp chồng”.
Bà Trần Kim Anh rời Rạch Giá đúng ngày rằm tháng Chạp, tính theo lịch Tây là tháng 1-1966. Bà Ba Kiệm, một cán bộ giao liên Khu ủy đi từ Hố Bò về đón. Sau gần ba ngày di chuyển chủ yếu là để “cắt đuôi” trước khi đi tiếp về chiến khu, sáng ngày 17 tháng Chạp, bà Trần Kim Anh cùng hai con, Chí Tâm và Ánh Hồng, được giao liên đưa xuống chuyến tàu khách có tên là Thuận Phong. Tàu Thuận Phong vẫn thường chở khách đi từ Bến Cát, Bình Dương, ngược sông Sài Gòn về hướng Củ Chi và ngược lại. Đi trên con tàu ấy lúc nào cũng có Quốc gia trà trộn cùng Cộng sản. Tàu Thuận Phong xuất phát lúc 7 giờ 30, tới gần Bến Dược, chỉ còn bốn, năm cây số là tới Chiến khu Hố Bò, thì trúng rocket bắn xuống từ một máy bay trực thăng Mỹ.
Ông Trần Quang Minh, khi đó đã “ra bưng” trở thành một cán bộ tuyên huấn T4, mật danh của Khu ủy Sài Gòn, kể: “Hôm đó là ngày đầu tiên B52 thả bom ở miền Nam, dọc sông Sài Gòn trực thăng quần ầm ĩ. Tôi đi ra nhà Tư Mai, vừa thấy tôi, ông Tư nói: Minh ơi, chị Bảy và mấy đứa nhỏ chết hết rồi”. Khi đó, ông Võ Văn Kiệt đang ở Nhà Bè. Ông nghe tin tàu Thuận Phong bị bắn chìm qua Đài Phát thanh Giải phóng, biết có nhiều người phía mình hy sinh nhưng ông không ngờ trong số đó có cả ba người mà ông yêu thương nhất.
Ông Kiệt kể: “Tôi thấy ruột gan như lửa đốt, Thuận Phong là con tàu mà chị em giao liên thường xuyên đưa cán bộ theo con đường hợp pháp từ Bến Cát về Củ Chi. Chúng tôi biết trước tin địch sắp càn nhưng thấy con tàu Thuận Phong vẫn chạy thì nghĩ là chưa có vấn đề gì. Không ngờ, trận càn đó, nó bắn chìm cả con tàu chủ yếu chở dân thường hợp pháp”. Hai ngày sau ông Kiệt mới về đến Củ Chi nhận tin vợ và hai con ông đã chết. Ánh Hồng năm ấy chưa đầy bốn tuổi và Chí Tâm thì cha con chưa kịp nhìn thấy mặt nhau.
Ông Trần Quang Minh kể: “Dượng Bảy ngồi ở Xóm Thuốc chờ hai ngày. Khóc”. Nơi ông Kiệt ngồi có thể nghe tiếng máy của những chiếc ghe chạy tìm xác các nạn nhân ở trên sông, nhưng, ông không thể ra đó. Sự khốc liệt của chiến tranh đôi khi không phải ở trong lưới lửa bom đạn mà ở trong những khoảnh khắc yên lặng. Chỉ một số cán bộ hoạt động hợp pháp mới có thể ra sông tìm kiếm xác ba mẹ con bà Trần Kim Anh và những cán bộ khác cùng đi trên chuyến tàu Thuận Phong.
Từ Rạch Giá, gia đình cũng nhận được tin, ông Trần Quang Hiến kể: “Tôi lên thuê thuyền, vớt được Ánh Hồng, cháu bị bắn vỡ sọ. Nhưng, chính quyền bắt phải đưa vô nhà xác. Hôm sau có một người lính của chế độ Sài Gòn nhận cháu là con của anh ta. Bác sĩ yêu cầu tôi trình giấy tờ chứng minh là người nhà của Ánh Hồng, tôi không có. Tôi chấp nhận để cho anh lính nhận xác Ánh Hồng nhưng theo dõi nơi anh ta chôn cháu, anh lính chôn cháu ngay phía nhà thương. Tôi cắm cây thông làm dấu rồi quay ra tìm xác cô Bảy và Chí Tâm. Đến 28 Tết, lấy lý do an ninh, chính quyền không cho tiếp tục tìm kiếm, mặc dù thây vẫn còn trôi. Hai tháng sau, chính quyền cho máy ủi phía sau nhà thương, ủi mất luôn Ánh Hồng. Như vậy là ba mẹ con chết mà không còn xác”.
Tàu Thuận Phong hôm ấy chở hơn 200 khách, vớt được khoảng 100. Theo Trần Quang Minh, mãi tới mấy tháng sau, người dân miền Đông không ai dám ăn tôm, ăn cá của sông Sài Gòn.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Sau hôm từ Nhà Bè về, tôi xuống nhà ông Ba Kiệm chia buồn. Vợ ông, vì lo cho vợ chồng tôi gặp nhau mà phải chết. Tôi cũng chuẩn bị tinh thần có thể ông cũng không giữ được bình tĩnh vì mất mát đó. Nhưng không ngờ, ông nói: tôi cũng thiệt hại mà không bằng chú, chú mất cả vợ và hai đứa con”. Ông Kiệt nói tiếp: “Suốt hai cuộc chiến tranh, tôi cũng lặn lội, nhiều khi rơi vào vùng ác liệt nhất, vậy mà chưa từng dính một miểng đạn nào. Cả hai lần bị thương thì đều do giẫm phải chông của du kích. Trong khi đó vợ, con… Trước đó, anh Ba tôi cũng bị Tây càn bắn chết; ba tôi thì bị chết vì pháo kích”.
Hai người con trai
Hai anh em Võ Dũng và Hiếu Dân nhận được tin mẹ và hai em ngay sau Tết năm ấy. Đây không phải là hoàn cảnh cá biệt ở trường học sinh miền Nam. Sau năm 1954 nhiều cán bộ miền Nam không đi tập kết. Với một số cán bộ cao cấp, Đảng đưa vợ con họ ra Bắc trước như bà Ngô Thị Huệ, vợ ông Nguyễn Văn Linh, bà Nguyễn Thụy Nga, vợ miền Nam của ông Lê Duẩn. Một số gia đình đã “chia sẻ rủi ro” bằng cách gửi một vài đứa con ra Bắc trong khi cha mẹ vẫn chiến đấu ở miền Nam.
Nhiều người không ngờ miền Bắc “thiên đường của các con tôi”164    lại thiếu thốn khó khăn như vậy. Bà Bảy Huệ kể: “Chúng tôi nghèo lắm, lương của tôi, vụ phó được chín mươi ba đồng, nuôi cả bầy con. Mấy đứa trẻ như thằng Dũng, con Hiếu Dân đều ở trong nhà tôi. Tiêu chuẩn mỗi đứa được bốn thước vải mỗi năm mà chúng lớn như thổi, lại nghịch phá, quần áo cứ chẳng mấy lúc mà rách, mà ngắn, chật. Thấy tôi khó khăn, anh Phạm Hùng kêu Ban Thường Vụ Quốc hội cho truy lĩnh tiền lương đại biểu Quốc hội khóa I từ 1946-1959 của tôi, được một khoản tiền lớn, tôi đem gởi Văn phòng Trung ương xài dần”. Nhưng, thiếu thốn chưa phải là điều mà những đứa trẻ như Võ Dũng khó thích nghi với miền Bắc.
Chị Hiếu Dân kể: “Trước khi chia tay, má tôi chuẩn bị cho một xấp váy áo, cái nào cũng đẹp. Ra Bắc, một hôm tôi mặc một cái váy ngắn một chút trên đầu gối. Anh Dũng liền kêu vào nhà đánh cho tôi mấy roi và bắt thay ngay. Anh tôi sau đó đã xé đi những bộ đồ đẹp nhất mà má tôi mua cho. Lúc đầu tôi rất ấm ức. Nhưng về sau, nhìn xung quay mới thấy không có đứa trẻ nào mặc váy, không ai mặc đồ màu mè sặc sỡ, tất cả chỉ có màu lính hoặc là màu sẫm. Tôi mới hiểu vì sao anh tôi làm vậy”. Cả Hiếu Dân và Võ Dũng đều ra tới miền Bắc khi đã lên chín lên mười. Họ đã biết quan sát và so sánh giữa hai môi trường xã hội: miền Nam và miền Bắc. Bà Bảy Huệ kể: “Võ Dũng là một đứa trẻ rất hiếu động. Giữa đám trẻ không mẹ không cha ấy, Dũng nổi lên như một ‘thủ lĩnh’. Nhiều khi ra đường quậy phá, bị công an giữ, nó lại tìm cách chạy về gặp tôi nói ‘có chuyện quan trọng, cô Bảy phải ra ngay’. Thế là tôi lại phải đi bảo lãnh cho chúng nó. Hồi bọn trẻ học ở Hưng Y ên, có bữa Võ Dũng muốn đãi những bạn bè học sinh miền Nam - những đứa trẻ thiếu chất và ăn không bao giờ đủ no - một bữa tươi, nó báo với ông chánh Văn phòng Tỉnh ủy là ‘ngày mai đám giỗ mẹ’. Thế là Văn phòng Tỉnh ủy lại chuẩn bị mấy mâm cho nó mời bạn bè. Với bạn bè thì hết lòng, nhưng Võ Dũng không bao giờ chấp nhận sự áp đặt của người lớn. Hồi mới ra Bắc, bác Hồ có kêu mấy đứa trẻ con em miền Nam tới Phủ Chủ tịch. Dũng được bác Hồ gọi đến hỏi: ‘Cháu ngoan không?’. Nhìn đĩa kẹo bánh mà Bác sắp cho các cháu ngoan một cách thèm thuồng nhưng Dũng vẫn nói: ‘Cháu không ngoan’. Về nó bảo tôi: Cháu nói thật”. Theo bà Bảy Huệ: “Bình thường thì nó cũng ngoan như cháu ngoan bác Hồ, nhưng gặp chuyện ai ăn hiếp bạn bè là nó sống chết. Thông minh, gan dạ và hào hiệp lắm”.
Sau này khi gặp nhau trong chiến trường miền Nam, nghe Võ Dũng kể, ông Kiệt mới hiểu những đứa trẻ học sinh miền Nam như Dũng có mặc cảm, người lớn ở miền Bắc không bao giờ chịu nghe chúng nó. Ông Kiệt nói: “Khi mới vào nó cũng thăm dò ngay cả mình. Nó nghĩ mình cũng giống như mấy ông bà ngoài Bắc quen áp đặt, có nói lại thì không nghe không hiểu ngôn ngữ của nhau. Ở chiến trường một thời gian, nó nói, mấy chú trong này mới lắm”.
Cái chết của mẹ và hai em trở thành một động lực trực tiếp để Võ Dũng kiên quyết vào Nam, phần để “trả thù cho mẹ”, phần để thoát khỏi không gian tù túng đang bó chân một chàng trai mười tám. Năm 1969, anh nhập ngũ sau đó đi thẳng vào Trung ương Cục. Lần đầu vào chiến trường nhưng khi phải di chuyển xuống Khu IX, Võ Dũng đã chọn con đường công khai. Trong vai một Khmer kiều, Võ Dũng được người giao liên của bố anh, bà Sáu Trung, đưa về từ Châu Đốc, theo xe đò xuống Rạch Giá.
Sau khi vợ và hai con mất, ông Võ Văn Kiệt vừa cần một người thân ở bên cạnh vừa, trong thâm tâm, muốn giữ an toàn cao nhất cho con mình. Võ Dũng được đưa về ở trong cơ quan Khu ủy, cạnh cha. Bác sỹ riêng của ông Võ Văn Kiệt, ông Huỳnh Hoài Nam kể: “Ổng dặn tôi kèm Dũng, ‘có khó khăn gì mày lo’. Nhưng Dũng rất ngang bướng, nó cứ đòi xuống đơn vị. Dũng kêu: Em về đây để chiến đấu chứ đâu phải để đào hầm cho ba em núp”.
Năm 1971, sau khi lãnh đạo Khu lấy lại được tư thế sau những tổn thất ghê gớm của Mậu Thân, ông Võ Văn Kiệt phát động đưa con em cán bộ ra mặt trận. Dũng nhân đấy nói, không lẽ kêu gọi con người ta ra trận mà con mình ngồi trong cứ, thế là đòi đi. Bác sỹ Nam kể: “Ổng kêu tôi làm công tác tư tưởng. Tôi nói: ‘Dũng, em về miền Nam làm gì?’. Nó bảo: ‘Chiến đấu trả thù’. ‘Vậy em có thấy bọn anh chiến đấu không?’. Nó bảo: ‘Có, nhưng chiến đấu trong xó không hà’. Tôi lấy chuyện mẹ và các em đã mất ra khuyên can, Dũng vẫn dứt khoát. Ông Kiệt thấy thế đành bảo, thôi để nó đi”.
Dũng đòi bằng được ra một đại đội trinh sát. Ông Kiệt nhớ lại: “Ông Lê Đức Anh biết chuyện định chuyển cháu về pháo binh, chưa kịp ra quyết định thì Dũng mất”. Võ Dũng hy sinh ngày 29-4-1972 khi đang luồn qua những hàng rào dây thép gai trinh sát. Theo anh Hồ Văn Út, cận vệ của ông Kiệt: “Hôm sau, mấy bà má phải vào đồn lính, xin xác Dũng về an táng bên kênh Tư Ký, Sóc Trăng”. Ông Võ Văn Kiệt nhận được tin con trai hy sinh khi đang chủ trì cuộc họp Thường vụ Khu ủy. Gương mặt người chính ủy tái lại, nhưng ông chỉ mím môi để cho nước mắt chảy vào trong.
Những người cận vệ luôn sống cách ông vài bước chân cũng không khi nào nhìn thấy ông Kiệt khóc. Trước ba quân, vẫn là một ông Tám Thuận mạnh mẽ. Nhưng, khi trở về trong chòi riêng ông trở thành một con người khác, lặng câm, cô độc. Bác sĩ Huỳnh Hoài Nam kể: “Ông thích uống cà phê sữa nhưng dạo ấy ông thường kêu tụi tôi làm ‘chà và đen’, cách ông gọi cà phê không. Đó là loại cà phê dành cho những đêm không ngủ. Kể từ khi bà Trần Kim Anh và hai đứa con thơ mất tích trên sông Sài Gòn, có hai kỷ vật lúc nào cũng được ông Kiệt giữ bất li thân đó là bức chân dung của bà và bộ đồ bà ba may bằng lụa tơ tằm. Bác sĩ Nam kể: “Mỗi khi dời cứ, thường chúng tôi giúp ông xếp đồ. Riêng tấm hình và bộ đồ của bà thì tự tay ông làm lấy”.
Ở thời điểm ấy, một người con trai khác của ông Kiệt, Phan Thanh Nam, cũng đang ở Trung ương Cục. Từ tháng 11- 1969, Nam liên lạc được với bà Nguyễn Thị Thập, chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam. Đến lúc này, anh mới biết tên đầy đủ của cha mình là Võ Văn Kiệt. Phan Thanh Nam sinh ngày 25-2-1952. Ông Kiệt chuẩn bị lên đường về Nam trước khi Nam được sinh ra khoảng một tuần165. Ông Kiệt cho biết, sau đó, ông có được gặp mặt con trai trước khi rời Việt Bắc. Theo ông Trần Tấn Nghĩa: “Sau khi ông Kiệt đi rồi, Văn phòng Trung ương giao đứa bé cho ông Cái bên Tổng cục Lương thực đưa về tận ấp Sậu, cuối Nhã Nam, Bắc Giang, nuôi”. Nhưng, ông Cái cũng chỉ giữ Nam một thời gian ngắn. Nam không biết là cuộc đời mình đã lưu lạc qua tay những ai. Anh lớn lên trong nhà cha mẹ nuôi, ông Hà Văn Quán và bà Nguyễn Thị Mỹ, tại làng Tăng Xá, xã Tuy Lập, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Cha nuôi anh kể, một người trong họ nhìn thấy một đứa bé bị bỏ rơi cạnh bờ suối mang về cho ông, đứa bé đó chính là Nam. Khi đó, người vợ đầu của ông Quán không có con trai. Những thông tin về Nam mà người bỏ rơi anh để lại, về sau Nam được ông Quán cho biết, chỉ là: “Cha mày là người Nam Bộ, tên là Kiệt hay Việt gì đó, đặt tên mày là Nam”. Lên sáu tuổi, cha mẹ nuôi làm khai sinh cho anh đi học, đặt tên đầy đủ là Hà Văn Nam.
Ông Hà Văn Quán vốn là một cán bộ, đảng viên, khi cải cách bị quy là địa chủ, ông xin ra khỏi Đảng. Lý lịch này đã khiến ông bị kỳ thị ở địa phương. Anh Nam kể: “Ngay từ khi chúng tôi còn nhỏ, ông đã muốn các con lớn lên đi ra khỏi làng. Chính ông khuyến khích tôi đi tìm lại cha đẻ”. Từ bốn, năm tuổi, như những đứa trẻ trong làng khác, Nam đã phải ra đồng chăn trâu cắt cỏ. Học hết cấp hai, do gia cảnh khó khăn, anh phải nghỉ học. Đi khỏi vùng quê nghèo khó đó cũng là sự thôi thúc của chính Nam.
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Nhiều lần tôi viết thư ra Bắc nhờ anh em kiếm cháu giùm. Có lần tôi viết thư cho mẹ cháu, nhưng không thấy trả lời. Năm 1969, khi Bảy Dự166   ra Bắc, tôi viết thư hối thúc thêm lần nữa”. Nhưng may mắn là Phan Thanh Nam cũng chủ động tìm kiếm. Anh kể: “Lần đầu, khi tôi còn nhỏ, tôi gửi một lá thư đi tìm cha mà không có hồi âm. Sau đó, tôi tính đi bộ đội, đặng vào Nam kiếm ba tôi nhưng xã không cho đi vì có người đặt vấn đề: Cha nó trong Nam không biết theo ta hay theo địch. Một bữa đi đập lúa, trưa vắng, một người nông dân làm cùng nói: Ở miền Nam tao nghe làm chơi ăn thật, sướng lắm, sao mày không tìm ba? Ông nói: Bà Nguyễn Thị Thập, hội trưởng Hội Phụ nữ là người miền Nam, thử viết cho bà Thập xem”.
Nam viết thơ cho bà Thập, kể tỉ mỉ cuộc đời mình và nói: “Tôi có một người cha, nghe người ta nói ông tên Kiệt, chính ông đặt tôi tên là Nam. Thư tôi gởi đi cuối tháng 9, cuối tháng 10, tôi nhận được thư cô Kim Anh, thư ký của bà Thập. Cô Kim Anh kêu tôi về 39 Hàng Chuối, Hà Nội. Tháng 11-1969, cha nuôi tôi cho mười đồng bạc để tôi đi. Xuống Hà Nội, gặp cô Mười Thập. Cô hỏi thăm, cho tôi cái áo len rồi nói: ‘Ba cháu đang chiến đấu ở miền Nam’. Cô Thập dẫn tôi đi gặp một số cán bộ quen biết ba tôi vừa từ miền Nam ra như Năm Hộ, Hai Chiếc, Bảy Dự. Tôi vừa bước vô cửa, mấy ổng nói: ‘Cái dáng thằng này, vừa đi vừa lắc, đúng con ông Sáu rồi’. Sau đó, các cô bảo tôi về nhà chờ”.
Bà Nguyễn Thị Thập hứa sẽ cho người lên gặp Nam nhưng không hiểu sao Nam chờ gần một năm sau vẫn không thấy tin tức gì. Tháng 7-1970, Nam lại đánh điện xuống Hà Nội. Trong thời gian đó, ông Võ Văn Kiệt cũng viết thư cho bà Ngô Thị Nho, chị ruột của bà Ngô Thị Huệ, tha thiết nhờ tìm lại đứa con trai thất lạc. Theo bà Bảy Huệ: “Một bữa, Ban Tổ chức Trung ương cử tôi xuống làm việc với Hội Phụ nữ, chị Mười Thập tình cờ kể: Ông Kiệt có một đứa con ngoài này, nó mới đánh điện, gởi thơ. Chị Mười đưa thơ tôi coi. Tôi nói để tôi sắp xếp lên gặp cháu”.
Từ Hà Nội lên Phú Thọ tuy chỉ cách nhau hơn 200km nhưng hồi ấy đường sá khó khăn. Bà Bảy Huệ lên tới xã Tuy Lập, huyện Cẩm Khê thì đã mười giờ đêm. Bà kể: “Tới giờ đó, Nam đi tát nước vẫn chưa về, nó mặc cái quần cụt, cười giống y ổng. Tôi xin phép ba má nuôi đưa cháu lên nhà khách của tỉnh rồi đưa cháu về Hà Nội. Cho tới lúc đó, thằng Nam chưa biết sử dụng giày dép thế nào”. Anh Phan Thanh Nam nhớ lại: “Mẹ nuôi tôi rất buồn nhưng cha nuôi tôi nói, con lớn rồi phải tìm về tổ tiên”.
Ở Hà Nội, mấy dì nói cho Nam biết má ruột của anh là bà Hồ Thị Minh, khi ấy đang làm việc trong một cơ quan ở Thủ đô. Đã vài lần Nam đạp xe qua cơ quan mẹ, anh rất muốn vào nhưng rồi anh kể: “Tôi nghĩ, bao năm nay bà không liên lạc với mình có nghĩa là bà cũng có điều gì đó khó xử. Nếu có thể gặp, bà đã đi tìm”. Tháng 10-1970, Phan Thanh Nam bắt đầu hành trình vào miền Nam. Tháng 9-1971, hai tháng sau khi Nam vào tới Chiến trường B2, hai cha con gặp nhau lần đầu tiên ở Trung ương Cục. Nhưng có lẽ lần gặp nhau ở Khu IX vào tháng 11-1972 mới là cuộc gặp xúc động nhất giữa hai người.
Tháng 6-1972, hơn một tháng sau khi Võ Dũng hy sinh, Phan Thanh Nam bắt đầu đi từ căn cứ Trung ương Cục xuống Khu IX. Bác sỹ Huỳnh Hoài Nam kể: Ngày cha con gặp nhau, ông đang ở một căn cứ gần kênh Biện Nhị, xã Khánh Lân, Cà Mau. Ông ngồi đợi con, lâu lâu lại hỏi những người lính thông tin theo dõi lộ trình của các giao liên. Bác sỹ Nam kể: “Khi Nam đến, hai cha con ôm nhau nửa tiếng, không ai nói một lời, rồi cả hai cùng khóc. Chúng tôi, cũng ra phía sau, ngồi khóc”.
Đi bước nữa
Khi ấy, cả bà Bảy Huệ và ông Nguyễn Văn Linh đều coi Võ Văn Kiệt như một cậu em trong nhà. Ông Linh là một trong những người đầu tiên nghĩ tới hoàn cảnh đơn côi của ông Kiệt. Hai năm sau khi vợ mất, ông đã chú ý tìm người mai mối.
Theo bác sĩ Huỳnh Hoài Nam: Sau đợt hai Mậu Thân, Trung ương Cục yêu cầu ông Kiệt xuống bệnh viện R điều dưỡng một thời gian. Giám đốc bệnh viện lúc đó là bác sĩ Thúy Ba. Trung ương Cục cũng có ý cả. Bà Thúy Ba đẹp, nhưng tụi tôi biết khi đó ông Kiệt còn nhớ vợ. Thậm chí có lần Trung ương Cục họp, có người còn đặt vấn đề, nhưng ông Kiệt nói: “Chúng ta có tiến bộ tới đâu thì vẫn là người Á Đông, vợ tôi chết vẫn chưa mãn tang mà”.
Xuống miền Tây, cũng có người gán ghép, ông Kiệt đẩy khéo: “Hỏi mấy đứa nhỏ coi, tụi nó ưng là tôi ưng à”. Có người thiệt tình tới hỏi cánh bảo vệ, mấy cậu nói: “Nếu có người như thím Tám thì tụi tôi mới cho lấy, không là khổ ổng”. Ông Kiệt nhớ lại: “Lúc bấy giờ công việc dồn dập. Đang Mậu Thân, ở Sài Gòn, hết tấn công đợt này đến đợt khác, anh em tổn thất không biết bao nhiêu. Xuống Khu IX thì cũng tan tác, phải vực dậy từng cơ sở một”.
Sau khi ông Võ Văn Kiệt được điều xuống làm bí thư Khu ủy Khu IX, ông Nguyễn Văn Linh có thêm một nỗ lực nữa: giới thiệu bà Đỗ Duy Liên cho ông Kiệt. Bà Đỗ Duy Liên kém ông Kiệt năm tuổi, khi ông Kiệt làm bí thư Khu ủy Sài Gòn- Gia Định bà Liên làm việc bên Hội Phụ nữ. Bà đã từng làm báo công khai ở Sài Gòn, từng bị giam tại Chí Hòa hơn bốn năm. Chồng bà Liên, ông Lê Duy Nhuận, là cán bộ tuyên huấn ở Phân khu I trong Chiến dịch Mậu Thân. Tháng 10-1968, khi ông Nhuận đang mở lớp đào tạo bí thư chi bộ thì nhận được lệnh phải di chuyển cứ ngay vì B52 sắp rải bom. Là người sau cùng rời khỏi căn cứ, ông Nhuận bị dính bom, hy sinh. Cũng như ông Võ Văn Kiệt, bà Đỗ Duy Liên cũng bị ám ảnh rất lâu bởi sự hy sinh của chồng.
Bà Đỗ Duy Liên kể: “Một lần anh Sáu từ T3167   lên Trung ương Cục, anh Mười muốn cáp tôi với ảnh nên điện kêu tôi từ T4 (Khu Sài Gòn-Gia Định) về. Anh Mười lãnh đạo tôi từ hồi thanh niên. Ảnh chủ quan, nghĩ tôi thương ảnh thế thì anh bảo gì tôi sẽ nghe theo ảnh. Tôi từ chối cách gán ghép nhưng tôi vẫn đồng ý ra trạm giao liên gặp anh Sáu Dân”.
Nơi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh bố trí cho họ gặp nhau là một cái lán tranh, muốn đi tới phải qua một trảng le, một trảng lau. Ông Kiệt là người đàn ông thứ hai mà bà Liên yêu thương. Bà biết rằng nếu nhận lời lấy ông thì cả hai sẽ phần nào bù đắp cho nhau mất mát. Nhưng khi đó, ba đứa con của bà Liên đang được gửi ra miền Bắc. Trong lán tranh, khi ông Kiệt ngỏ lời, bà Liên bật khóc, trách: “Chồng tôi chết chưa lâu?”.
Bà Đỗ Duy Liên kể rằng, khi đến giờ phải chia tay, bà được giao liên dẫn đi theo một hướng, ông Kiệt được dẫn đi theo một hướng khác. Hôm đó bà bước đi mà không dám ngoái đầu nhìn lại. Ít lâu sau, bà nhận được thư ông. Bức thư ngắn: “Tư/ Sau bữa gặp, Tư đi qua cái trảng dài đó, không biết có gì không. Rất lo. Muốn biết sớm mà không sao biết được. Hôm đó, đợi Tư qua hết cái trảng rồi mới đi. Kiệt”.
Sau năm 1975, hai người cùng về Thành phố, ông làm chủ tịch rồi sau đó làm bí thư Thành ủy, bà làm giám đốc Sở Thương binh-Xã hội, rồi làm phó chủ tịch Ủy ban. Cùng ở trong rừng ra và lần đầu tiên có trong tay chính quyền, một chính quyền việc gì cũng muốn làm thay dân, công việc cứ cuốn cả hai người đi. Họ thường gặp nhau trong các cuộc giao ban, nơi ông nhiều khi sốt ruột đập bàn, đập ghế. Theo nhà báo Thế Thanh, người được cả ông Kiệt và bà Tư Liên coi như con, thỉnh thoảng bà Tư lại than: “Ba mày mất lịch sự quá, họp hành có phụ nữ mà chẳng nhẹ nhàng gì”.
Nói thế, nhưng chính bà Đỗ Duy Liên lại là người rất sợ sự nhẹ nhàng của ông. Bà Tư nhớ lại: “Sau 1975, có lần anh đến thăm, ngồi suốt một buổi sáng, hai anh em ngồi tâm tình với nhau. Trưa, ảnh nói: ‘Tư đi nấu cơm cho tôi ăn với’. Tôi biết, tôi mà đi nấu cơm là coi như tôi nhận lời anh nên cương quyết: ‘Không. Hôm nay, em không đi chợ, nhà không còn gì’. Anh nghe, đứng dậy về. Tôi để anh đi mà lòng buồn lắm. Mãi nhiều năm sau khi nghĩ tới câu chuyện này, tôi vẫn còn tự trách: ‘Có bữa cơm mà mình cũng không nấu được cho anh ăn”.
Theo bà Bảy Huệ thì con cái của hai người cũng đóng một vai trò khiến cho họ không đến được với nhau. Sau khi việc giữa bà Tư Duy Liên và ông Võ Văn Kiệt không thành, bà Bảy Huệ lại nỗ lực thêm một lần nữa, giới thiệu cho ông Kiệt một nữ bác sỹ đã từng có gia đình. Khi ấy ông Kiệt đã ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Việc mai mối được thu xếp khá suôn sẻ đến mức một hôn lễ tưởng đã diễn ra. Tuy nhiên, sau một năm ở Hà Nội, ngày 26-12-1982, ông Kiệt viết thư gửi ông Chín Đào Phan Minh Tánh, khi ấy đang là phó bí thư Thành ủy Thành Phố Hồ Chí Minh, nhờ ông Chín Đào giúp thu xếp để ông rút lui khỏi cuộc hôn nhân này.
Cũng trong bức thư đề cập đến chuyện lấy vợ này, ông Võ Văn Kiệt bắt đầu tiết lộ về một người phụ nữ khác. Thư viết: “Phần tôi, cũng dịp về hôm rồi tôi có bàn thẳng với các cháu, con tôi (cả dâu rể) - tôi không thể sống không bình thường như vậy mãi, cũng như công tác trong điều kiện ăn ở hiện nay. Không có một người hôm sớm quả là có một số cái khó. Nói chung là chúng nó đồng ý cả. Cháu Dân hôm ra Hà Nội ở gần hai tuần với tôi, cháu cũng thấy điều đó rõ hơn, nhưng người như thế nào thì chúng nó vẫn lo. Tôi cũng có trình bày, có một người mà các anh đã giới thiệu (hồi tôi còn ở Thành phố) - Anh Mười Hương, anh Năm Xuân và anh Thiện. Trước đây tôi cũng tiếp xúc một vài lần và cũng có tìm hiểu, cũng gọn và quan hệ gia đình tốt, thuộc cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở một trường đại học. Tôi thấy như vậy cũng được, tuổi cũng trên bốn mươi… (Tuy) không phải người Nam Bộ. Chúng nó có phần lo, nhưng điều này không phải là chính. Tạm bấy nhiêu để anh rõ, nhờ anh giúp như phần trên. Thân ái/ Sáu Dân”. Chi tiết “cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học” mà ông Kiệt đề cập trong thư cho thấy người phụ nữ mà ông nói tới chính là bà Phan Lương Cầm.
Bà Phan Lương Cầm sinh năm 1943 ở Huế. Năm 1945, cha mẹ chia tay. Mẹ bà, bà Nguyễn Thị Hoàng Ân, vốn là một nữ sinh Đồng Khánh. Trong những năm Việt Minh kháng chiến chống Pháp, bà Ân đi dạy học ở Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Bà Cầm khi ấy còn nhỏ nhưng đã vừa học, vừa giúp mẹ xay lúa, giã gạo, làm xáo để có thu nhập thêm.
Sau Hiệp định Geneve, bà Ân chính thức kết hôn với ông Phan Tử Lăng. Bà Cầm đổi từ họ Trần của cha đẻ sang họ Phan của cha dượng. Ông Phan Tử Lăng là một sỹ quan nổi tiếng: Ông tốt nghiệp thủ khoa khóa sỹ quan chính quy đầu tiên do người Pháp đào tạo ở Việt Nam, là chỉ huy trưởng Lực lượng Bảo an Trung kỳ. Khi chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố độc lập và mở trường Quân sự Thanh niên Tiền Tuyến, ông Phan Tử Lăng được bổ nhiệm làm giám đốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là cục trưởng Cục Quân chính Quân đội Nhân dân Việt Nam với quân hàm đại tá.
Năm 1965, sau khi tốt nghiệp đại học, bà Cầm được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1968, bà đi nghiên cứu sinh, chuyên ngành Điện hóa - Ăn mòn Kim loại ở Lomonoxov, Liên Xô; năm 1973, lấy bằng phó tiến sỹ và về trường Bách khoa dạy tiếp. Năm 1979, trong khuôn khổ một hợp tác giữa Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Delf, bà được cử đi tham gia nghiên cứu về “ăn mòn kim loại” ở Hà Lan. Bà Phan Lương Cầm gặp ông Võ Văn Kiệt lần đầu vào cuối năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Khi ấy, theo bà Cầm, bà hoàn toàn không biết những người bạn của ông Phan Tử Lăng có ý tưởng giới thiệu bà với ông Kiệt.
Cuối thập niên 1950, ông Phan Tử Lăng và ông Đinh Đức Thiện cùng làm việc với nhau ở Khu Gang Thép Thái Nguyên, ông Thiện là giám đốc và ông Lăng là phó. Bạn ông Thiện là ông Trần Quốc Hương và em trai ông, ông Mai Chí Thọ, đầu thập niên 1980, đang là Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 1980, khi bà Phan Lương Cầm từ Hà Lan về vào Thành phố, ông Đinh Đức Thiện kêu ông Mười Hương mời bà Cầm ra Tân Cảng báo cáo đề tài “ăn mòn kim loại”, cử tọa có nhiều vị lãnh đạo Thành phố, và tất nhiên, có cả ông Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt. Bà Cầm nhớ lại: “Tôi lên nói say sưa và cuối buổi thì ông Kiệt bảo là tôi có thể giúp Thành phố”. Buổi trưa, tôi được mời về nhà ông Mai Chí Thọ ăn cơm. Bà Cầm nói rằng: “Cho đến lúc này, tôi không có ấn tượng gì về ông Kiệt cả”.
Bà Cầm trở ra Hà Nội tiếp tục công việc của mình, ông Đinh Đức Thiện, ông Mười Hương tiếp tục vận động bà Ân. Hai người còn bố trí để ông Kiệt tới nhà 180/8 Nguyễn Tri Phương, Thành phố Hồ Chí Minh gặp bà Ân ở đó. Bà Cầm nhớ lại: Cả nhà tôi ai cũng muốn con gái lớn đi lấy chồng. Nhắc lại bữa cơm trưa ở nhà ông Mai Chí Thọ, mẹ tôi hỏi: “Con có biết anh Sáu cùng ăn với con hôm đó không”. Tôi nói: “Con chỉ nói chuyện ăn mòn kim loại, không biết ai là anh Sáu cả”. Rồi tôi cười nói với mẹ tôi: “Không có chuyện con lấy bí thư Thành ủy đâu”.
Ông Kiệt vẫn giữ liên lạc với bà Phan Lương Cầm trong thời gian ấy. Theo bà: “Mỗi lần ông ra Hà Nội lại nhờ anh em Văn phòng chuyển tới tôi, khi cuốn lịch, khi ký lạp xưởng. Tôi không nhận thì anh em bảo: thủ trưởng ra nhờ chút việc mà không hoàn thành thì bị phê bình chết”. Nhưng, có lẽ ông nghiêng về bà hơn sau khi ra Hà Nội, sau khi phải đối diện với những rắc rối trong các mối quan hệ với những người phụ nữ đã có con riêng.
Về phần mình, bà Cầm kể: “Ở Hà Nội một thời gian, anh béo ra, biết ăn mặc hơn, trông không khắc khổ như thời làm bí thư Thành ủy. Lên khu tập thể Khương Thượng, nơi tôi có một căn hộ ở đó, anh tháo giày vào nhà. Ngồi nói chuyện thấy bắt đầu cảm tình nhưng phải nói là bác Đinh Đức Thiện cũng công phu lắm, cả bác trai lẫn bác gái”.
Khi bắt đầu chiếm được tình cảm của bà Cầm, ông Kiệt báo cáo với Trung ương Đảng và việc này đã khiến cho bà Cầm định rút lui khi thấy Ban Tổ chức Trung ương xuống trường tìm hiểu. Cuối năm 1984 họ chính thức lấy nhau. Vừa sống với nhau được ít ngày, bà Cầm kể: “Anh nói phải đi công tác miền Nam ngay để tôi một mình chơ vơ ở Hồ Tây. Trước khi đi, anh hỏi tôi thích gì, tôi nói em thích một cái nhẫn cưới. Lần ấy, anh mang về chiếc nhẫn nửa chỉ vàng 18k tặng tôi”.
Vợ và bạn
Không chỉ là sự chênh lệch về tuổi tác, năm ấy, ông Kiệt sáu mươi hai tuổi và bà Cầm bốn mươi mốt tuổi. Cha mẹ không sống với nhau ngay từ khi bà Cầm chỉ mới hai tuổi. Khi mẹ bà đi bước nữa với ông Phan Tử Lăng, hai người làm việc ở Khu Gang Thép Thái Nguyên, bà Cầm sống một mình ở Hà Nội và đi học.
Theo ông Nguyễn Văn Hanh, em rể của bà Cầm: “Cho tới khi lấy anh Sáu, Cầm rất ít có thời gian ở trong một môi trường gia đình thật sự”. Bà Cầm thừa nhận: “Trước khi về sống với nhau, mỗi người tưởng tượng về nhau có khác. Anh Sáu ít hẫng hơn tôi vì anh có kinh nghiệm cuộc đời”. Bà kể về một kỷ niệm mà bà cảm thấy hạnh phúc: “Một lần, tôi đi miền Nam, ô tô đưa ra sân bay rồi ô tô về. Không ngờ máy bay hỏng, phải chờ tới ba giờ mà không bay được. Tôi điện thoại về kêu xe ra đón. Khi biết tôi quay lại, anh nói: hoan hô hàng không!”.
Bà Phan Lương Cầm nói: “Đôi lúc tôi cũng tủi thân. Anh toàn sống với đồng đội, muốn uống nước, tôi không pha thì đã có phục vụ nên sự chăm sóc của vợ không còn quan trọng nữa. Tôi cảm thấy những cố gắng hy sinh của mình không được đánh giá đầy đủ”. Ngay trong thời gian đầu, một cuộc chia tay tưởng như đã xảy ra, một số bạn bè thân thiết của ông Kiệt đã được “giao nhiệm vụ” đi làm “công tác tư tưởng” cho gia đình, đồng đội. Nhưng rồi ông Kiệt nghĩ lại.
Cuộc hôn nhân này không chỉ làm ông Kiệt khó xử với những đồng đội từng chia ngọt sẻ bùi với ông. Ở miền Nam nhiều người trách, “Nam Bộ thiếu gì người mà lại đi lấy người Huế”. Bà Phan Lương Cầm kể: “Có người nói tôi là người nhà ông Tố Hữu. Tố Hữu đưa tôi vào để phá anh Sáu. Khi Tố Hữu mất, có người còn chia buồn với tôi”.
Chuyện ông Kiệt, một ủy viên Bộ Chính trị, lấy bà Cầm không phải đảng viên cũng là một lý do để ông Kiệt bị chỉ trích, nhất là từ những người như ông Nguyễn Văn Linh. Bà Bảy Huệ thừa nhận: “Ông Mười kỹ lưỡng, định làm mai Lê Thị Riêng cho ông Sáu, Lê Thị Riêng chết, làm mai Đỗ Duy Liên thì không thành... Tôi thấy cô bác sỹ làm bên đài cũng có hoàn cảnh thích hợp, lấy cô ấy rồi chuyển ra làm ở ‘Tổ Y tế Một’ cũng được. Đùng một cái ổng lấy bà Cầm, ông Mười nói Sáu Dân ẩu, lấy vợ mà không thèm hỏi ai”.
Ông Võ Văn Kiệt làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng từ tháng 7-1991, ở một giai đoạn mà Việt Nam bắt đầu thiết lập quan hệ với ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Cộng đồng Châu Âu và Mỹ. Không như các chuyến thăm đến các nước trong “phe xã hội chủ nghĩa” của các lãnh tụ cộng sản trước đây, ông Kiệt thường công du cùng phu nhân, một người phụ nữ trẻ, xuất hiện trước ống kính khá lịch lãm. Hình ảnh đó góp phần làm cho thế giới nhìn thấy một Việt Nam ít cứng rắn hơn. Nhưng, bên trong, nhiều nhà lãnh đạo lão thành lại không vừa ý. Nhất là sau khi có tin đồn, các chuyến chuyên cơ chở bà Cầm đi theo ông Kiệt thường mang rất nhiều hàng hóa.
Người bày tỏ thái độ một cách công khai nhất là ông Nguyễn Văn Linh. Từ khi còn đương chức, trong các chuyến công du, ông Linh đã nổi tiếng khắt khe với cấp dưới168. Giai đoạn ông Linh làm tổng bí thư và giai đoạn ông Kiệt làm thủ tướng, vị thế của Việt Nam trong các mối quan hệ quốc tế rất khác nhau. Hai ông cũng rất khác biệt trong cách tiếp cận với thời cuộc cũng như với kẻ thù và đồng đội.
Cuộc sống và ý thức hệ
Kể từ năm 1952, khi rời Việt Bắc về Nam, năm 1973 ông Võ Văn Kiệt mới trở lại miền Bắc. Lần này, kinh nghiệm sử dụng võ trang của ông ở Khu IX đã đóng vai trò quan trọng để Hội nghị Trung ương 21 quyết định “đánh”, thay vì “gò cương vỗ béo” trước Hiệp định Paris. Nhưng chuyến đi còn giúp ông Kiệt lần đầu tiên thực sự trải nghiệm chủ nghĩa xã hội sau gần hai mươi năm áp dụng trên miền Bắc.
Lúc đó, tuy tạm thời chấp nhận sự quy lỗi nghèo đói cho chiến tranh nhưng ông Kiệt không khỏi băn khoăn khi thấy trong một xã hội đòi đấu tranh cho bình đẳng mà những người đứng đầu xã hội đó lại thi hành một chế độ không bình đẳng với ngay những người ruột thịt của mình. Theo quy định, chế độ dinh dưỡng bao cấp cho cán bộ cao cấp khác với những cán bộ bình thường cho nên trong nhiều gia đình, chồng ăn “tiểu táo” do đầu bếp của Văn phòng Trung ương nấu, trong khi vợ con phải tự nấu, tự ăn với nhau theo chế độ “đại táo”. Trước ngừng bắn, khi phải rời khỏi Hà Nội, có những cán bộ đã về nơi sơ tán một mình bằng xe hơi trong khi vợ con lếch thếch đi bộ vì không có cùng tiêu chuẩn.
Năm 1973, khi ông Võ Văn Kiệt đi gặp ông Ung Văn Khiêm169   cả bạn bè và tổ chức đều có những lời khuyến cáo ông. Tuy nhiên, với tư cách là một cấp dưới, một học trò, ông Kiệt vẫn đi thăm thầy cũ. Ông Kiệt kể: “Từ khi ông Khiêm bị kỷ luật, không ai dám đến gặp, nếu có tình cờ thấy ông thì cũng ít ai dám chào”. Mấy hôm sau, khi ông Kiệt đang ngồi với ông Nguyễn Văn Trấn thì, theo hẹn, bà vợ ông Ung Văn Khiêm đến, ông Bảy Trấn nhìn thấy, lập tức rời phòng. Hôm sau gặp lại, Bảy Trấn giải thích: “Mày ở trong kia không sao, tụi tao ở đây léng phéng qua lại với ổng là bị cắt sổ gạo, cả thuốc lá cũng không có mà hút mày ạ”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều. Cho dù ông Khiêm có sai thì cái sai đó cũng là với tổ chức; chế độ chính trị thế nào mà bày tỏ tình nghĩa anh em, đồng chí cũng không được. Một con người như ông Bảy Trấn, từng tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn năm 1945, từng làm tới chức chính ủy Khu IX, từng được coi là
‘hung thần Chợ Đệm’ mà cũng phải sống trong sợ hãi thì vấn đề không còn là của từng cá nhân nữa”170.
Ông Võ Văn Kiệt tìm thấy niềm vui và cả lợi ích chính trị khi thỉnh thoảng ngồi uống rượu và đàm đạo với các trí thức và quan chức của chế độ Sài Gòn. Ông thừa nhận, nhiều kiến thức về kinh tế, quốc tế và đặc biệt là tư duy pháp trị mà ông có được là nhờ học ở những “người thua cuộc”.
Khi chiến tranh kết thúc, cả ông Kiệt và ông Linh đều từ một căn cứ trong rừng sâu về Sài Gòn sống trong những biệt thự sang trọng. Trong khi ông Nguyễn Văn Linh vẫn giữ lối sinh hoạt của một người cộng sản khắc khổ 171 thì ông Võ Văn Kiệt bắt đầu chơi tennis. Ông Linh nhìn những cán bộ chơi tennis như những người học đòi ăn chơi, “xa rời lối sống, đạo đức cách mạng”. Còn ông Kiệt nhìn thấy ở đó, không chỉ là một thú vui thể thao mà còn là một cách để đưa Sài Gòn trở lại cuộc sống bình thường.
Ông Kiệt giải thích: “Những ngày mới về Thành phố, tôi chỉ chơi bóng bàn hoặc cầu lông với anh em. Sau, để ý thấy các sân tennis trong Thành phố đều bị bỏ hoang hoặc đem phơi củi. Đi vào trong dân, thấy các nhà khá giả vẫn treo vợt trên tường nhưng không ai chơi. Tìm hiểu thì mới biết là người ta sợ. Tôi quyết định cho sửa sân tennis Trương Định, phong trào chơi tennis mới dần được khôi phục rồi rộ lên. Anh Mười thấy, cho người phê phán trong các cuộc họp nội bộ”.
Khi được điều ra Hà Nội, ông Kiệt tiếp tục giữ sở thích chơi tennis. Khi ông Linh làm tổng bí thư, theo ông Kiệt, ông nói gần nói xa: “Các tỉnh ở dưới đua đòi làm sân tennis cũng tốn kém lắm”. Ông Kiệt kể, một lần ông Đào Duy Tùng, ủy viên thường trực Bộ Chính trị, nhắc khéo: “Có người nói anh còn khỏe mà đi chơi tennis bắt người khác mang vợt”. Theo ông Kiệt: “Tôi biết anh Tùng nói vậy là có thiện chí, mình dư sức mang cái túi vợt, nhưng thường khi xe vừa dừng thì anh em bảo vệ đã nhanh chân hơn lấy vợt cho. Từ đó, khi ra sân tôi không đi xe nữa, mà từ 57 Phan Đình Phùng, tôi mang túi vợt đi bộ, vòng qua trước nhà ông Linh ở Nguyễn Cảnh Chân, ra sân”.
Cũng làm cách mạng, nhưng một người tạo lập uy tín chính trị theo nguyên tắc giữ “cần kiệm liêm chính”, một người làm chính trị theo kiểu chịu chơi của “anh Hai Sài Gòn”. Cung cách ứng xử này đã làm cho ông Kiệt và ông Linh càng thêm khác biệt. Ông Võ Văn Kiệt không được văn nghệ sỹ tung hô như thời ông Nguyễn Văn Linh kêu gọi cởi trói. Nhưng với phong cách “anh Hai”, ông Võ Văn Kiệt lại kiến tạo được những mối liên hệ cá nhân bền lâu.
Nhà thơ Nguyễn Duy kể: “Tôi gặp ông Kiệt lần đầu vào giữa năm 1981, trong buổi tổng kết cuộc sinh hoạt chính trị kéo dài mười ngày căng thẳng để chuẩn bị đại hội thành lập Hội Nhà văn Thành phố. Cuối đợt kiểm điểm, Thành ủy cho ít tiền liên hoan, ông Kiệt mang đến một chai rượu. Mãi sau này chúng tôi mới biết chai rượu ấy cũng xoàng, nhưng lúc ấy thấy rượu Tây là nhiều anh nhốn nháo”.
Theo Nguyễn Duy: Trong buổi liên hoan đó, nhiều người đọc thơ tặng ông Sáu. Ông Nguyễn Duy cũng đứng lên nói: “Hôm nay Bí thư Thành ủy mang rượu đến đây, nối rượu cho nhà văn thì cũng như nối giáo cho giặc, tôi xin phép đọc mấy bài thơ mới làm”. Ông Bảo Định Giang khéo léo ngăn lại: “Thôi đã mười một giờ, khuya rồi để anh Sáu nghỉ”. Nguyễn Duy khi ấy đã có hơi men, nói: “Anh Bảo Định Giang ngồi xuống, đây không có anh năm, anh sáu gì hết, chỉ có bí thư. Tôi là đảng viên phải để đảng viên nói với bí thư”. Ông Kiệt lên tiếng: “Cứ để anh em tự nhiên, tôi đã đến đây là chơi tới cùng”.
Sau khi đọc bài Ông Già Sông Hậu, Nguyễn Duy nói: “Tôi xin đọc bài thơ tôi làm như một bản báo cáo với Ban Thường vụ Thành ủy thực tế đời sống của văn nghệ sỹ Thành phố”. Đó là bài thơ Bán Vàng.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nhớ lại, Nguyễn Duy cao hứng đặt một chân lên ghế, nhìn thẳng vào ông Kiệt, mở đầu nhỏ nhẹ: “Ta mơ màng, ta uốn éo, ta lả lơi/ để mặc kệ mái nhà xưa dột nát/ mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác/ mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao/ ta rất gần bể rộng với trời cao/ Để xa cách những gì thân thuộc nhất…”. Rồi Nguyễn Duy nhấn giọng: “Cái ác biến hình lởn vởn quanh ta/ tai ách đến bất thần không báo trước/ tờ giấy mong manh che chở làm sao được/ một câu thơ chống đỡ mấy mạng người…”. Ông Kiệt có vẻ như lặng đi. Nguyễn Duy kết thúc bài thơ: “Thì bán bớt đi một ít vàng ròng/ để sống được qua ngày gian khổ đã/ phải sống được qua cái thời nghiệt ngã/ để khối vàng đây chỉ đổi lấy mây trời!”. Khi Nguyễn Duy ngồi xuống, ông Kiệt uống với nhà thơ một ly.
Sau cuộc họp đó, theo nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cũng có người trong giới văn nghệ định “dao búa” với Nguyễn Duy, còn ông Kiệt thì cho Thư ký Trần Hữu Phước tới gặp nhà thơ đề nghị chép cho ông hai bài thơ Nguyễn Duy đọc hôm đó để ông “làm kỷ niệm”. Nguyễn Duy kể rằng, nghe vậy, ông cũng hơi ngại nên đi hỏi Nguyễn Quang Sáng: “Liệu có phải ông Sáu cần văn bản chứng cớ để xử lý?”. Ông Sáng nói: “Chắc không phải. Nếu muốn xử, ổng cần gì”. Nguyễn Duy nói: “Tôi bèn chép hai bài thơ và không quên ghi cẩn thận dưới tên mỗi bài: ‘Tác giả chép tặng anh Sáu Dân để làm kỉ niệm tình cảm’, như một nhắc nhở với ông rằng, ông xin để làm kỷ niệm chứ không phải để làm bằng chứng đâu đấy”.
Bẵng đi một thời gian, nhân dịp đại hội thành lập các hội nghệ thuật  của Thành phố, cũng trong một bữa tiệc do Thành ủy chiêu đãi ở Khách sạn Bến Nghé, ông Kiệt đã nhắc lại bài thơ Bán Vàng. Ông nói: “Vừa rồi, tôi trực tiếp nghe được bài thơ Bán Vàng của nhà thơ Nguyễn Duy. Theo tôi, đây là một bản án nhân tình đối với chế độ của chúng ta. Đau, nhưng là sự thật. Chúng ta cần chân thành nhìn nhận sự thật, để cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn này. Muốn vượt qua, theo tôi phải có niềm tin, mà cốt lõi của niềm tin là tin ở con người. Hôm nay, có thể có đồng chí không tin tôi, có thể tôi không tin một đồng chí nào đó, nhưng chúng ta thì phải tin ở con người”.
Nguyễn Duy nhớ lại: “Lần đầu tiên ngồi với một ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, định mượn hơi rượu nói cho bõ hờn, không ngờ lại mở đầu cho một cuộc giao du tình nghĩa”. Từ lần nghe đọc thơ ở Hội Nhà văn Thành phố, ông Võ Văn Kiệt tạo lập được một mối quan hệ rất bạn bè với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà thơ Nguyễn Duy và tiếp đó là nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Nguyễn Duy thỉnh thoảng lại làm tiết canh, còn Nguyễn Quang Sáng lâu lâu lại lập mưu… làm thịt chó. Ông Kiệt rất nhiều lần tham gia và khi nào ông cũng hết mình.
Thật khó để phân biệt đâu là nhu cầu bè bạn, đâu là nhu cầu chính trị trong mối quan hệ giữa ông Võ Văn Kiệt với Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Sáng, Trịnh Công Sơn… cũng như mối quan hệ giữa ông với các tên tuổi thời Việt Nam Cộng hòa như Tiến sỹ Nguyễn Xuân Oánh, Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, chuyên gia kinh tế Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu Sơn… Nhưng sự thật là nhiều kiến thức về kinh tế, chính trị và xã hội mà ông Kiệt có được là thông qua những lần đàm đạo với những con người ấy.
Đầu thập niên 1990, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang có những nỗ lực vận động quốc tế để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt đến Davos và bắt đầu nhận thấy khoảng cách giữa chủ nghĩa xã hội mà ông chứng kiến ở Đông Âu và “tư bản giãy chết” mà Marx nói là một chặng đường xa xôi. Ông Võ Văn Kiệt cũng nhận thấy, chế độ đang có những bế tắc mà “xé rào” cuối thập niên 1970 hay “đổi mới” của thập niên 1980 là không thể nào tháo gỡ được.
Chương XV: Tướng Giáp
Mưu lược và quyết liệt không chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật đã rút đi thanh gươm trận của ông.
Vụ Án “Năm Châu - Sáu Sứ”
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Trung ương chỉ định về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội tại Đảng bộ Nghệ Tĩnh. Cuối tháng 4-1991, ông vào Vinh dự họp với Đoàn đại biểu Tỉnh. Tới nơi thì đã quá trưa. Đợi vị tướng già cơm nước xong, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh Nguyễn Bá mới trao tận tay bức điện “khẩn tuyệt mật” của Ban Bí thư do ông Nguyễn Thanh Bình ký. Không được phép họp với Đoàn, Tướng Giáp bị yêu cầu phải trở ra Hà Nội ngay trong chiều hôm đó.
Năm ấy Tướng Giáp đã 80 tuổi. Đoạn đường Vinh - Hà Nội tuy chỉ hơn 300km nhưng bụi bặm và dằn xóc. Tướng Giáp trở về phòng, viết mấy dòng cáo lỗi gửi Đoàn đại biểu Nghệ Tĩnh rồi lại lên xe về Hà Nội, nơi ông sẽ phải ra trước Hội nghị Trung ương 12, đối diện với những cáo buộc chính trị mà về sau được gọi là vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”.
Tại Hội nghị Trung ương 12, Khóa VI, ông Nguyễn Đức Tâm, Trưởng Ban Tổ chức, thay mặt Bộ Chính trị báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương một văn bản tuyệt mật nói rằng: Một vụ bè phái vi phạm nguyên tắc Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao đang diễn ra. Những người tham gia bao gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, cùng một số cán bộ cao cấp khác.
Thứ trưởng Bộ Nội vụ phụ trách an ninh, Trung tướng Võ Viết Thanh, nhớ lại: “Nghe ông Tâm nói, có cảm giác như đang có một âm mưu đảo chính để đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên làm chủ tịch nước sau đó thay ông Linh làm tổng Bí thư; đưa Trần Văn Trà lên làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Thời gian trước Hội nghị Trung ương 12, ông Trà bị triệu tập ra Hà Nội và bị giữ lại ở Nhà khách số 8 Chu Văn An. Văn bản tuyệt mật này được phổ biến tới thường vụ các tỉnh, thành, bằng cách cho đọc nguyên văn nhưng bị cấm sao chép”.
Tướng Đồng Sỹ Nguyên, ủy viên Bộ Chính trị Khóa VI, nói: “Lật đổ là một câu chuyện bịa đặt. Ông Giáp không chỉ là một đại tướng mà xứng đáng là một đại nguyên soái. Một người không chỉ coi trọng sinh mạng binh sỹ mà còn đặt danh dự của tổ quốc lên trên. Ông là một người thận trọng. Nhân vụ Sáu Sứ, họ còn lật lại hồ sơ vụ ‘chống Đảng năm 1967’, đưa ra tài liệu cũ của Lê Đức Thọ, đây cũng là một vụ án được dựng lên”. Ông Võ Viết Thanh kể thêm: “Tại hai Hội nghị 12 và 13 của Ban Chấp hành Trung ương, nhiều vị tướng trong Quân đội hết sức bức xúc, đứng lên phát biểu bảo vệ Tướng Giáp. Cụ Võ Nguyên Giáp cay đắng: Đến một vị tướng đã đánh thắng Điện Biên Phủ mà người ta vẫn vu cho là con nuôi của mật thám Pháp”.
Gần tới ngày Đại hội, một hôm vào khoảng 9 giờ đêm, Bộ trưởng Nội vụ Mai Chí Thọ triệu tập một cuộc họp kín gồm có các thứ trưởng: Cao Đăng Chiếm, Phạm Tâm Long, Bùi Thiện Ngộ, Võ Viết Thanh. Ông Mai Chí Thọ nói: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh giao nhiệm vụ cho Bộ Công an làm rõ sai phạm của anh Giáp và anh Trà để xử lý cả về mặt Đảng và Nhà nước. Bộ chỉ đạo anh Võ Viết Thanh đảm nhiệm việc này”. Cả bốn vị thứ trưởng nghe đều phân vân, lo lắng. Ông Võ Viết Thanh nói: “Đề nghị Bộ trưởng trình bày lại với Tổng Bí thư đây là những người có công với nước, nếu có sai thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương xác minh làm rõ còn khi đã chuyển công an thì phải có dấu hiệu phạm tội”. Mai Chí Thọ dứt khoát: “Chúng ta phải thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư”.
Ông Võ Viết Thanh nói tiếp: “Nếu phải điều tra, tôi đề nghị nên giao cho anh Cao Đăng Chiếm hoặc anh Bùi Thiện Ngộ vì hai anh có kinh nghiệm trong ngành hơn tôi. Tôi không từ chối, nhưng tôi biết bản báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Tâm lấy nguồn tin từ một số người không tốt trong Cục II, Bộ Quốc phòng. Tôi cũng biết người đẩy ra vụ này là Đoàn Khuê. Cá nhân tôi với Cục trưởng Quân báo Tư Văn và Cục phó Vũ Chính có ý kiến khác nhau trong một số việc như: lợi dụng nghiệp vụ đi buôn lậu; tổ chức cài đặc tình vào nội bộ… Bây giờ nếu tôi làm vụ này nữa thì rất căng với Cục II”. Mai Chí Thọ gắt: “Ông phụ trách an ninh, không làm thì ai làm”. Võ Viết Thành đành phải: “Tôi xin chấp hành”.
Ông Võ Viết Thanh kể: “Tôi bay vào Sài Gòn. Anh em an ninh đã có đủ tư liệu, vấn đề là tình hình nội bộ rất căng vì có tác động từ cấp cao. Nhiều người khuyên tôi khi điều tra không nên làm khác báo cáo của Nguyễn Đức Tâm. Người gần gũi nhất là Thiếu tướng Trần Văn Danh cũng nói là có người khuyên như vậy. Ông Danh gọi tôi tới, tôi hỏi: ‘Lời khuyên này xuất phát từ đâu anh Ba?’. Ba Trần, tên thường gọi của Tướng Trần Văn Danh, nói: ‘Ở cấp rất cao’. Tôi nói: ‘Tôi đề nghị anh Ba trả lời họ, tôi đang được giao một công việc mà tôi không thể nào làm trái đạo đức và pháp luật’. Ba Trần nghe bắt tay, không ngờ anh chỉ hỏi thế để thăm dò nhưng anh là người ủng hộ tôi làm đúng”.
Ông Võ Viết Thanh kể tiếp: “Ngày 14-5-1991, tôi ra lệnh bắt khẩn cấp Nguyễn Thị Sứ. Anh em thi hành không bắt tại nhà vì sợ động mà bắt bí mật, đưa về 258 Nguyễn Trãi. Vừa vào trại, Sáu Sứ hỏi: ‘Các anh ở phía nào?’. Anh em dằn mặt: ‘Chị không được phép hỏi như thế, chúng tôi là cơ quan an ninh, yêu cầu chị nói hết’. Sáu Sứ trả lời: ‘Tôi là người Cục II, yêu cầu được nói chuyện điện thoại với Tư Văn, Vũ Chính’. Anh em An ninh nói: ‘Chị là người phạm pháp, chị không được phép gặp ai cả’. Trong một ngày Sáu Sứ khai hết172”.
Không hề có một tổ chức nào do cụ Giáp đứng đầu như báo cáo của Nguyễn Đức Tâm đề cập. Theo ông Võ Viết Thanh, Sáu Sứ khai bà được Vũ Chính cấp tiền, cấp xe và đi gặp vị tướng nào, nói gì là đều theo chỉ đạo của Cục II. Thông qua một người tên là Năm Châu, từng công tác chung với ông Thanh Quảng, nguyên là thư ký của Tướng Giáp, Sáu Sứ được đưa tới nhà Võ Nguyên Giáp cùng một số cựu chiến binh. Hôm Sáu Sứ đến, cụ Giáp đang ăn, nghe có đoàn Cựu chiến binh, cụ dừng bữa cơm để tiếp. Sáu Sứ mang theo một giỏ trái cây vào tặng rồi xin cụ Giáp cùng chụp ảnh với Đoàn. Toàn bộ cuộc gặp chỉ có vậy nhưng Sáu Sứ báo cáo: “Cụ Giáp đã đồng ý với kế hoạch”. Rồi theo ông Võ Viết Thanh: “Băng ghi âm cuộc nói chuyện của Sáu Sứ ở nhà Tướng Giáp nghe không rõ nhưng Cục II vẫn xào nấu thành một bản báo cáo, theo đó: Đang có một vụ đảo chính, một vụ bè phái trong Đảng hòng chi phối vấn đề bố trí nhân sự cấp cao trước Đại hội VII do Tướng Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà cùng một số cán bộ cao cấp khác tiến hành. Bản báo cáo này trở thành cơ sở để Trưởng Ban Tổ chức Nguyễn Đức Tâm báo cáo trước Hội nghị Trung ương 12 về Tướng Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, Chánh Văn phòng Tướng Giáp, từ Hội nghị Trung ương 12 về nhà nghỉ trưa, Tướng Giáp hỏi: “Cậu có nhớ ai tên là Năm Châu từng ở Nam Bộ ra đây gặp mình không?”. Ông Huyên nhắc lại sự việc xong, Tướng Giáp ăn cơm rồi đi ngủ. Đến cận giờ họp buổi chiều, ông Huyên vào phòng thấy Tướng Giáp vẫn ngáy khò khò, ông Huyên hỏi: “Việc đang thế này mà anh cũng ngủ được à?”. Tướng Giáp cười: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Trong khi đó, ngay sau khi Sáu Sứ bị bắt vào ngày 15-5-1991, theo ông Võ Viết Thanh: Cục II rúng động, Cục trưởng Tư Văn đổ bệnh. Trong ngày ông Võ Viết Thanh cầm bản cung của Sáu Sứ bay ra Hà Nội, 17-5-1991, Tướng Lê Đức Anh viết một bức thư cực ngắn: “Kính gửi: Bộ Chính trị. Tôi xin không ứng cử vào Quốc hội khóa IX. Xin cám ơn Bộ Chính trị. Kính! Lê Đức Anh”. Do căng thẳng, Tướng Lê Đức Anh ngay sau đó bị đột quỵ. Bác sỹ Vũ Bằng Đình, người trực tiếp cấp cứu, nói: “Ông Lê Đức Anh bị xuất huyết dạ dày, huyết áp tụt xuống bằng 0, hồng cầu chỉ còn một triệu. May mà cấp cứu kịp”.
Theo ông Võ Viết Thanh: “Ra Hà Nội, tôi làm báo cáo đưa ông Mai Chí Thọ đề nghị Bộ trưởng ký. Ông Mai Chí Thọ nói:
‘Cậu ký luôn, gửi và trực tiếp báo cáo anh Linh’. Ngay chiều hôm đó, Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà xếp lịch gặp Tổng Bí thư. Nghe tôi báo cáo xong, ông Linh không nói gì. Nhưng, sáng hôm sau thì nhận được ‘điện mật’ của Văn phòng yêu cầu các nơi ngưng phổ biến và gửi trả văn bản do Nguyễn Đức Tâm ký về Văn phòng Trung ương. Sau đó, Trung ương không có một lời nào nói lại với Tướng Giáp, còn Tướng Trần Văn Trà thì vẫn bị giữ lại ở số 8 Chu Văn An”. Theo ông Võ Viết Thanh: “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không đưa kết luận về vụ Sáu Sứ ra báo cáo trước Hội nghị Trung ương và ngay cả các ủy viên Bộ Chính trị cũng không mấy ai biết”. Thái độ của Tổng Bí thư như một tín hiệu để ngay lập tức ông Võ Viết Thanh nhận được đòn “đánh dưới thắt lưng” của Cục II.
Theo ông Võ Viết Thanh, ngày 23-6-1991, khi đại biểu đã được triệu tập về Hà Nội: “Trước phiên họp cuối cùng của Hội nghị trù bị, Hồng Hà, Chánh Văn phòng Trung ương đưa tôi miếng giấy, ghi: ‘Đề nghị đồng chí Võ Viết Thanh đến giờ giải lao ra gặp Bộ Chính trị và Ban Bí thư có việc riêng’. Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII”.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được173. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận”174. Cho dù giữ mình để bảo vệ Đại hội, tương lai chính trị của ông Thanh đã coi như khép lại. Ông Võ Viết Thanh nói: “Nếu tôi cứ nghe lời khuyên, kết luận giống như bản báo cáo của Nguyễn Đức Tâm, thì tôi sẽ được thăng chức, đề bạt nhưng rồi tôi lại phải dấn vào bước thứ hai là ra lệnh bắt oan Tướng Trà và Tướng Giáp. Làm thế, thì lương tâm sẽ giết dần, giết mòn tôi”175.
Năm ấy, Tướng Giáp vừa tròn 80 tuổi 176. Ông không nằm trong bất cứ cơ cấu nhân sự nào, vụ “Năm Châu - Sáu Sứ”, nếu thành, chỉ có thể hạ bệ uy tín của ông trong Đảng. Khi Võ Nguyên Giáp đã là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòng, Lê Đức Anh chỉ mới là một cán bộ ở cấp tiểu đoàn. Sự mặc cảm trước uy danh của Tướng Giáp chỉ có thể được tích tụ thông qua hai người đã cất nhắc Lê Đức Anh: Lê Duẩn và, đặc biệt là, Lê Đức Thọ.
“Cách mạng miền Nam”
Mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp thoạt đầu được mô tả là khá thân thiện. Tướng Giáp kể: “Lúc mới ra Bắc, anh Lê Duẩn thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc. Anh đã nhiều lần nói với tôi, năm 1940 nhờ có chị Thái nên anh thoát khỏi án tử hình”177.
Câu chuyện về “chị Thái” mà ông Lê Duẩn đề cập trên đây xảy ra năm 1940, trong phiên tòa xử những người lãnh đạo “Nam Kỳ khởi nghĩa”, ông Lê Duẩn và Nguyễn Thị Minh Khai đứng đối diện trong song sắt trước tòa. Minh Khai viết một bức thư nhỏ, gấp lại rồi ném cho Lê Duẩn, chẳng may thư rơi xuống gần người lính canh ngục. Nguyễn Thị Quang Thái đứng gần đó, nhanh chóng nhặt và nuốt ngay lá thư178.
Khi phân công trong Đảng, Hồ Chí Minh nói: “Việc quân sự giao cho chú Giáp”. Cụ Hồ cũng đã từng cử Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc học quân sự. Nhưng trên đường đi, Chiến tranh Thế giới II đưa người Pháp ở chính quốc vào thế thua, Hồ Chí Minh thấy thời cơ tới nên gọi ông trở lại. Tướng Giáp vì thế chưa từng qua bất cứ một trường lớp nhà binh nào. Có lẽ, tư duy quân sự của ông hình thành trong những năm dạy sử.
Ngày 22-12-1944, tại Việt Bắc, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân Việt Nam với ba mươi bốn chiến sỹ trong đó có ba nữ179. Ngay sau khi thành lập, Đội Tuyên truyền Giải phóng quân đã đánh thắng hai trận ở Nà Ngần và Phai Khắt, thuộc tỉnh Cao Bằng. Khi Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã mở rộng hoạt động quân sự từ Cao Bằng tới Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15-5-1945, tại Chợ Chu, Thái Nguyên, lực lượng này đã hợp nhất với Cứu Quốc quân, lập ra Việt Nam Giải phóng quân.
Mãi tới tháng 5-1940, Võ Nguyên Giáp mới sang Trung Quốc gặp Hồ Chí Minh và tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương trong khi năm 1939 Lê Duẩn đã được bổ sung vào Thường vụ Trung ương Đảng. Tuy nhiên, trong thời gian Lê Duẩn gần như mờ nhạt ở miền Nam thì Võ Nguyên Giáp đã “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Theo ông Hoàng Tùng: “Khi mới từ miền Nam ra, cả Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đều không thấy thoải mái khi ngồi cùng Tướng Giáp”. Cho dù lịch sử gắn bó giữa Lê Đức Thọ và Lê Duẩn bắt đầu bằng một cuộc đụng độ180. Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Lê Đức Thọ đã đóng một vai trò quan trọng trong quy trình cán bộ đưa Lê Duẩn đạt đến đỉnh cao quyền lực181.
Về phía mình, ông Giáp cũng đã rất giữ gìn, đặc biệt, với ông Lê Duẩn. Năm 1956, Trung ương Đảng thừa nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh xin từ chức, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là chủ tịch Đảng kiêm thêm chức vụ tổng bí thư. Theo Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, lúc đó đang là trợ lý về Đảng của Hồ Chí Minh: “Tháng 7-1956, tôi đề nghị Bộ Chính trị cử anh Ba làm phó tổng bí thư để dễ làm việc, nhưng anh đã từ chối và nói, nên chờ đại hội quyết định. Tại hội nghị Bộ Chính trị bàn việc chuẩn bị đại hội, khi được đề nghị làm trưởng ban chuẩn bị Báo cáo Chính trị, anh cũng từ chối và nói, ‘đã mười năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị báo cáo e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp tham gia’. Cuối cùng Bộ Chính trị đề nghị Bác làm trưởng ban, anh Ba làm phó”182.
Ông Hoàng Tùng, khi đó là chánh Văn phòng Trung ương Đảng, kể: “Trong khoảng từ tháng 10-1956 đến tháng 7-1957, tôi được phân công giúp ông Giáp chủ trì hội nghị sửa sai. Khi Bác kiêm tổng bí thư thay Trường Chinh, ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp được cử giúp Bác giải quyết các công việc thường vụ”. Thời gian ấy, theo ông Hoàng Tùng, không khí sinh hoạt trong Bộ Chính trị diễn ra khá tế nhị, người cố gắng che giấu ý muốn được Hồ Chí Minh chọn trao chức tổng bí thư, người hoạt động khá rốt ráo cho tham vọng ấy. Ông Hoàng Tùng kể: “Lê Đức Thọ gặp không ít đàn em gợi ý thẳng, ‘giờ đến lượt tao’. Những năm 1945, 1946, thế Lê Đức Thọ lớn lắm, chỉ sau Hồ Chí Minh, Trường Chinh. Bác cử Lê Đức Thọ vào Nam cũng có ý không để hai ‘con hổ’ Trường Chinh, Lê Đức Thọ gần nhau. Nhưng khi Bác lấy phiếu thăm dò, không ai đề cử Lê Đức Thọ cả. Trong bốn ứng cử viên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn cao phiếu hơn hẳn”.
Nhưng, đấy là những gì diễn ra trong năm 1960 tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, sau khi “đường lối cách mạng miền Nam” ngã ngũ.
Ngày 6-7-1956, hai tuần trước hạn thống nhất hai miền Nam Bắc theo Hiệp định Geneva, Hồ Chí Minh có thư “gửi đồng bào cả nước”, chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp định Geneva, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”183. Ngày 9-7-1956, trong một cuộc mít tinh tổ chức tại Hà Nội, Tướng Giáp có bài phát biểu dài diễn giải tinh thần bức thư ngày 6-7-1956 của Hồ Chí Minh184, cho rằng: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay, sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hòa bình”185.
Cũng trong thư đề ngày 6-7-1956, Hồ Chí Minh còn đưa ra sáng kiến: “Lập lại quan hệ bình thường và quyền tự do đi lại giữa hai miền, tạo điều kiện cho các đoàn thể chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở miền Bắc và miền Nam được liên lạc với nhau. Mở hội nghị hiệp thương gồm đại biểu của hai miền để bàn về vấn đề tổng tuyển cử tự do nhằm thống nhất nước nhà trên cơ sở Hiệp nghị Geneva”186.
Đây không chỉ là quan điểm của Tướng Giáp hay của Hồ Chí Minh mà là sách lược hòa hoãn của phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ sau khi Khrushchev thay thế Stalin chết ba năm trước đó187. Thời gian đó, khi soạn Đề Cương Cách Mạng Miền Nam ở Sài Gòn, Lê Duẩn cũng cho rằng: “Đường lối tranh đấu của chúng ta cũng không thể ra ngoài đường lối hòa bình được. Chính đường lối tranh đấu hòa bình ấy mới tạo được lực lượng chính trị mạnh mẽ để  chiến thắng  âm mưu gây chiến và chính sách tàn bạo  của Mỹ-Diệm”188.  Theo  ông, thì  hòa  bình chính là “nguyện vọng thiết tha của nhân dân miền Nam”189.
Trong khi Tướng Giáp phân tích: “Chúng ta phải nhớ rằng: thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại vì chủ nghĩa đế quốc vẫn tồn tại… đế quốc Mỹ đã vào miền Nam cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta”190. Thì quan điểm của ông Lê Duẩn vẫn là: “Việc thống nhất nước Việt Nam ta bằng phương pháp hòa bình có thể thực hiện được… Không có lý do gì mà gây chiến tranh… Nhân dân cả hai miền chống lại âm mưu chia xẻ và gây chiến của Mỹ-Diệm, đi đến hiệp thương, thương lượng giữa hai miền để hòa bình, thống nhất đất nước”191.
Tháng 8-1955, Hội nghị Trung ương 8 khẳng định: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của chúng ta hiện nay là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. Hội nghị nhấn mạnh: “Muốn thống nhất nước nhà điều cốt yếu là phải ra sức bảo vệ miền Bắc đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Tháng 6-1956, Bộ Chính trị cũng đã họp và ra nghị quyết xác định nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ với phương châm: “Đấu tranh chính trị không có nghĩa là không dùng hình thức vũ trang tự vệ trong hoàn cảnh nhất định”192.
Từ tháng 3-1957, sau Nghị quyết 12 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân đội miền Bắc bắt đầu “thời kỳ xây dựng  chính quy hiện đại”. Chủ trương  “giải  trừ  quân bị” bắt  đầu được thực hiện. Nhiều tướng  lĩnh quân đội đã được chuyển sang làm kinh tế. Ngay cả Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được cử vô Quảng Bình để làm “gió Đại Phong”. Bút Tre đã làm thơ: “Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh/ Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng”.
Ngày 4-6-1957, máy bay chở ông Lê Duẩn đáp xuống sân bay Gia Lâm sau một hành trình dài. Thời gian đầu, Lê Duẩn “chưa nhận một chức vụ công khai gì”, ông ở chung nhà khách với ông Phan Văn Đáng, cũng vừa từ Xứ ủy Nam Bộ ra. Hai người vẫn thường “qua mặt” bảo vệ, lấy xe đạp đi chơi. Bảo vệ biết mà không dám ngăn, đành phải tháo van xì hơi và có lần vội quá châm kim cho thủng lốp. Hai người cũng đã từng chen chúc lấy “vé hạng chót” ở rạp Hồng Hà, đứng bám cột kèo nhà hát, coi cải lương193.
Trước khi ông Lê Duẩn ra Hà Nội, đấu tranh vũ trang đã được những người soạn thảo Nghị quyết 15 coi như là con đường không thể tránh. Ông Hoàng Tùng kể: “Suốt mùa xuân năm 1957, tôi cùng Trần Quang Huy đi Đồ Sơn chuẩn bị Đề Cương Cách Mạng Miền Nam. Chúng tôi nêu lên phương hướng: không thể hòa bình mà phải đương đầu đấu tranh giải phóng Miền Nam”. Tuy nhiên, ông Hoàng Tùng thừa nhận: “Nhờ có thời gian lăn lộn ở chiến trường, Lê Duẩn là người phát triển, hoàn chỉnh Nghị quyết 15”.
Theo ông Hoàng Tùng: “Khi ấy, Bộ Chính trị không có ảo tưởng hòa bình, nhưng phát biểu công khai thì phải thế. Bác cũng không nghĩ thế, nhưng nếu để lộ ra, Trung Quốc và Liên Xô sẽ rầy rà mình”. Nhưng, theo ông Hoàng Tùng, khi Lê Duẩn vừa ra Bắc, ông chưa quen với cách mà các nhà lãnh đạo ở Hà Nội phải đối phó với “hai ông anh” của mình, thấy tranh cãi về Nghị quyết 15 như thế, đến giờ giải lao, ông nói với tôi: “Hòa bình vui vẻ rồi, họ muốn miền Nam chết, họ bỏ rồi”. Hòa hoãn không chỉ thể hiện trên ngôn ngữ như ông Hoàng Tùng nói vì năm 1958, Sư đoàn 332 vẫn bị giải thể, hai mươi vạn quân thường trực được chuyển đi làm kinh tế194.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Khi từ miền Nam ra Trung ương, anh (Lê Duẩn) nói, ‘điều vui mừng nhất là biết Trung ương đã sớm xác định Mỹ là kẻ thù chính’ và ‘ra đây mới thấy hết tình hình khó khăn phức tạp chưa thể phát động đấu tranh vũ trang ở miền Nam sớm hơn”195. Tướng Lê Đức Anh xác nhận, cuối năm 1957, khi gặp Lê Duẩn ở Bộ Quốc Phòng, ông đã nói: “Ra Bắc mới được vài tháng mà tôi thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước phức tạp quá”.
Trong thời gian chủ trương chưa dứt khoát đó, hàng vạn đảng viên Cộng sản đã bị bắt, bị giết bởi những chiến dịch tố cộng của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngược lại, từ đó cho đến năm 1960, “mỗi năm có khoảng 2.500 quan chức miền Nam Việt Nam bị ám sát”196. Trên thực tế, các hoạt động du kích là chưa bao giờ ngưng cả, nhưng, tới năm 1959 thì hoạt động này chuyển lên mạnh hơn.
Theo Kissinger, “đến cuối nhiệm kỳ của Chính quyền Eisenhower, chính quyền Nam Việt Nam đã nhận được từ Mỹ hơn một tỷ đôla viện trợ; có 1.500 người Mỹ ở miền nam Việt Nam với 692 thành viên nằm trong nhóm cố vấn quân sự; đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trở thành một trong những phái đoàn lớn nhất của Mỹ trên thế giới”197.
Trận “đánh Mỹ” đầu tiên diễn ra ngày 2-1-1963 ở một ấp chiến đấu cách thị xã Mỹ Tho 14 km có tên là Ấp Bắc198. Nhưng cũng trong năm 1963, khi được giao soạn thảo bản báo cáo chính trị cho Hội nghị Trung ương 9, ông Hoàng Minh Chính 199 vẫn dựa trên lập trường “chung sống hòa bình” của Khrushchev. Bản báo cáo của ông không được lựa chọn. Tháng 12- 1963, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn triệu tập Hội nghị Trung ương 9, đưa ra dự thảo nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Hoàng Minh Chính bảo lưu ý kiến bằng cách phân phát cho một số uỷ viên Trung ương dự Hội nghị một bài viết của ông có tên Về Chủ Nghĩa Giáo Điều Ở Việt Nam. Một số uỷ viên Trung ương đã hưởng ứng lập trường này như Bùi Công Trừng, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm200.
Từ năm 1964, nghị quyết về “các vấn đề quốc tế và chống chủ nghĩa xét lại hiện đại” đã làm cho khoảng bốn mươi người đang học và đang công tác ở Liên Xô xin “tị nạn”, trong đó có những người từng gần gũi với Tướng Giáp như Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội Nguyễn Minh Cần; Chính ủy Sư đoàn 308, Phó Chính ủy Quân khu III, Đại tá Lê Vinh Quốc; nguyên Tổng Biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, Thượng Tá Ðỗ Văn  Doãn,…
Sau Hội nghị Trung ương 9, vấn đề của “cách mạng miền Nam” không còn chịu ảnh hưởng nhiều bởi thái độ của Trung Quốc hay Liên Xô. Trong Đảng cũng đạt được một đường lối chung: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam”. Từ tháng 9-1963, một phó tổng tham mưu trưởng được đưa vào Nam 201 và ngay trong thời gian ông Lê Duẩn đang chủ trì Hội nghị Trung ương 9, hàng trăm sỹ quan cấp chiến thuật bắt đầu được đưa về các trung tâm huấn luyện202.
Tuy nhiên, ở Hà Nội, theo Cục trưởng Tình báo Quân đội Lê Trọng Nghĩa: “Đầu năm 1964 khi viết Nghị quyết 9 thành văn, họp Trung ương vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy, Nghị quyết 9 dừng lại ở mức độ: đánh thắng Mỹ nhưng giữ nó ở mức độ chiến tranh đặc biệt, tránh để chiến tranh mở rộng ra miền Bắc”.
Những năm đầu thập niên 1960, ở miền Nam, “Ngô Chí Sỹ” bắt đầu được mô tả như là một “độc tài gia đình trị”203. Ngày 24-8-1963, Henry Cabot Lodge, người vừa sang Sài Gòn làm đại sứ nhận được chỉ thị từ Washington yêu cầu cách chức Nhu và cảnh báo Diệm rằng, nếu ông ta từ chối, Hoa Kỳ sẽ phải “đối diện với khả năng chính bản thân ông Diệm không thể được bảo toàn”204. Ngày 1-11-1963, các tướng lĩnh Sài Gòn đã đảo chính. Hai anh em ông Diệm phải chạy trốn vào nhà thờ Cha Tam và sau đó bị bắn chết205.
Ba tuần sau, ngày 22-11-1963, tại Dallas, Texas, Tổng thống Kennedy bị ám sát. Vị tổng thống mới, Lyndon Baines Johnson, bắt đầu coi sự xuất hiện của quân đội chính quy miền Bắc ở miền Nam là “xâm lược”. Ngày 21-12-1963, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara báo với Johnson rằng, nước Mỹ phải đối mặt với sự lựa chọn: leo thang can thiệp quân sự hoặc để cho miền Nam sụp đổ.
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Một tháng sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại nhóm họp, đẩy cách mạng miền Nam lên một tầm mức rõ ràng hơn: “Đã đến lúc miền Bắc cần tăng viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải phát huy hơn nữa vai trò là căn cứ cách mạng cho toàn đất nước”. Không lâu sau đó, Sư đoàn 325 được đưa vào “Chiến trường B”206.
Người Mỹ không ngồi yên khi nhịp độ chi viện quân sự từ miền Bắc vào Nam ngày càng tăng cao. Mỹ chủ trương đánh mạnh vùng Hạ Lào và ngoài Biển Đông, Hạm đội Bảy dịch chuyển dần lên rồi đưa tàu USS Maddox vào vịnh Bắc Bộ. Trực Ban Tác chiến Quân ủy Trung ương tuần lễ đầu tháng 8-1964, Cục trưởng Quân báo, Đại tá Lê Trọng Nghĩa, kể: “Nguồn tin của chúng tôi cho biết, sau khi tàu Maddox di chuyển hỗ trợ cho các máy bay của hải quân Mỹ ném bom Nậm Căn, nhằm quấy rối, chặn đường chi viện miền Nam sẽ quay về Hạm đội Bảy. Quân ủy cũng nhận định không có dấu hiệu Mỹ dùng tàu Maddox đánh ra miền Bắc”.
Ngày 2-8-1964, khi chiếc tàu USS Maddox di chuyển từ phía  Bắc Việt  Nam vào vùng biển Hòn Mê, thuộc địa phận Thanh Hóa, nó đã bị một đơn vị hải quân miền Bắc dùng tàu phóng ngư lôi bắn trúng mũi. Thương vong không đáng kể, nhưng “Capitol Hill đã náo loạn”. Ngày 4-8-1964 hệ thống ra đa của USS Maddox nhận được tín hiệu sẽ có một cuộc tấn công thứ hai. Mặc dù, về phía Việt Nam, “nhật ký chiến sự không ghi nhận bất cứ sự kiện gì vào ngày 4-8 cả”207.
Vụ tàu USS Maddox đã khiến cho lòng kiêu hãnh của những người Mỹ ở Washington bị thách thức. Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ lần đầu tiên thi hành một số phi vụ bắn phá trên miền Bắc. Ngày 7-8-1964, 100% nghị sỹ ở Hạ viện và sau đó 98/100 thượng nghị sỹ bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”; theo đó, cho phép tổng thống toàn quyền hành động quân sự với miền Bắc cộng sản. Một tuần sau, từ Thanh Hóa, 160 sỹ quan chính quy kết thúc sớm lớp huấn luyện, bắt đầu hành trình vượt Trường Sơn208.
Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Khi ‘sự kiện Vịnh Bắc Bộ’ xảy ra, cả Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh đều đi vắng. Trung Quốc và Liên Xô cùng làm ầm lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ trì họp kiểm điểm. Vào họp Hồ Chí Minh đặt vấn đề rất nghiêm: Ai ra lệnh? Hôm xảy ra vụ tàu Maddox, trực Quân ủy Trung ương là Tướng Trần Quý Hai, tôi là trực ban tác chiến chịu trách nhiệm nắm tình hình địch. Trần Quý Hai nói là đã báo cáo Bộ Chính trị trước khi ra lệnh nhưng kiên quyết không nói cụ thể báo cáo ai. Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải kỷ luật. Trong khi, Văn Tiến Dũng nói, ‘mình không đánh nó thì nó cũng sẽ đánh mình, bản chất đế quốc là thế’. Cuối cùng Trần Quý Hai nhận kỷ luật cho dù ai cũng biết phía sau lệnh này là ai”209.
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” trở thành lý do để những người chủ chiến ở cả phía Mỹ và Việt Nam đẩy nhịp độ chiến tranh lên mức cao hơn. Từ miền Bắc, viên tướng đứng đầu xu hướng đánh thắng Mỹ bằng quân sự, Nguyễn Chí Thanh, được cử vào Nam trực tiếp làm bí thư Trung ương Cục. Cùng đi có các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm và Trần Độ.
Chỉ ít lâu sau, tháng 2-1965, Bộ Chỉ huy Miền Nam quyết định mở Chiến dịch Đồng Xoài. Đồng thời, ở Cao Nguyên, một cuộc tấn công lớn đã được nhắm vào khu ở của cố vấn Mỹ ở thành phố Pleiku. Người Mỹ trả đũa bằng cách mở một đợt tấn công bằng không quân vào miền Bắc. Cuộc tấn công này nhanh chóng biến thành một chiến dịch ném bom có hệ thống với mật danh “chiến dịch sấm sét”. Sự kiện này đã đặt miền Bắc vào tình thế chấp nhận để cho một lực lượng quân nhân của các nước xã hội chủ nghĩa bí mật có mặt trên miền Bắc.
Năm 1964, ông Lê Duẩn từng dự định “giành chính quyền Sài Gòn” trong năm 1965 bằng cuộc đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo kết hợp với một cuộc tổng tiến công, nhân khi “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ được coi là “phá sản” còn quân Mỹ thì chưa được đưa vào tham chiến. Đại tá Thảo được ông Lê Duẩn “đánh vào” chính quyền Ngô Đình Diệm với vỏ bọc “người trí thức tham gia kháng chiến trở về với chính nghĩa quốc gia”. Còn cuộc tổng tiến công thì theo ông Võ Văn Kiệt, năm 1964, chỉ riêng Khu ủy Sài Gòn-Gia Định đã cho thành lập năm “phân khu”. Cũng trong năm 1964, từ Hà Nội, ông Lê Duẩn đã cử một “bộ khung” vào Nam.
Một thành viên trong “bộ khung” này, ông Kiều Xuân Long, kể: “Chúng tôi bắt đầu đi B cuối năm 1964, đích thân Lê Duẩn và Tố Hữu tiễn đưa. Đầu năm 1965, chúng tôi tới Tây Ninh, gặp cán bộ Trung ương Cục, họ thúc, ráng đi lẹ lên coi chừng không kịp”. Đồng tiền “miền Nam Việt Nam” cũng được in và chuyển vào Trung ương Cục với mật danh: “Hàng 65”. Nhưng cuộc đảo chính do Phạm Ngọc Thảo cầm đầu thất bại. Giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 8-3-1965, lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và tháng 7 năm ấy bắt đầu tham chiến tại miền Nam. Đáp lại, trong tháng 9-1965, hai đơn vị chủ lực cơ động của Nam Bộ, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 5, lần lượt được thành lập; tháng 6-1966, Miền cho lập thêm Sư đoàn 7. Từ đó, quân đội Mỹ tiếp tục được ồ ạt đưa sang cho đến khi đạt con số 543.000 người vào năm 1968.
( Còn nữa )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét