Bên Thắng Cuộc
II. Quyền Bính ( 2 )
Huy Đức
( Tiếp theo )
Mậu Thân và tham vọng của Lê Đức Thọ
Cuối năm 1966, khi trả lời phỏng vấn Harrison Salisbury,
phóng viên tờ New York Times, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói rằng, Hoa Kỳ đúng là
“mạnh hơn rất nhiều về quân sự”, nhưng, theo ông: “Cuối cùng sẽ thất bại vì có
nhiều người Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho Việt Nam hơn người Mỹ”.
Sức chịu đựng của nền chính trị Mỹ bắt đầu bị thách thức khi
số lính Mỹ chết ở chiến trường Việt Nam lên tới con số hàng trăm mỗi
tuần. Từ năm 1961 cho tới đầu năm 1968, có 31.000 người Mỹ bị chết và mất tích
ở Việt Nam. Cảnh chết chóc của binh lính và đặc biệt là dân thường được chiếu
mỗi tối trên máy truyền hình bắt đầu có trong phòng ngủ của các gia đình Mỹ.
Theo mô tả của Henry Kissinger, “McNamara mong muốn kết thúc
chiến tranh một cách tuyệt vọng, và nhiều lần khẩn khoản tôi moi bất cứ dấu
hiệu lờ mờ nào, cho dù là gián tiếp, có thể giúp ông thúc đẩy công cuộc đi tới
một kết cục bằng thương lượng”210. Ngày 7-4-1965, Tổng thống Johnson tuyên bố
tại Baltimore:
“My săn sang thương lương không điêu kiên”. Cuối tháng 12-1965, người Mỹ cử
Harriman, một nhà ngoại giao, tới Ba Lan để nhờ Ba Lan làm trung gian thương
lượng với Hà Nội.
Ngày 2-1-1966, J. Mikhalowski, thư trương kiêm tông thư ky Bô
Ngoai giao Ba Lan, tới Hà Nội và thông báo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh: My rât linh hoat. Ho săn sang tim moi cach đê thương lương.
Mikhalowski nài nỉ: “Cân phai co môt sang kiên. Phai tiên lai vơi nhưng y kiên
chưng to chung ta muôn hoa binh, va qua đo cac đông chi se tranh thu đươc dư
luân thê giơi vê minh”211. Nhưng cả Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đều cự tuyệt212.
Ngày 14-6-1966, một nhà ngoại giao người Canada được gửi tơi Ha Nôi, nhưng
chuyến đi của ông cũng thất bại. Tiếp đó, ông Jean Sainteny, người từng ký với
Hồ Chí Minh bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, đã được Tổng thống Pháp cử tới
Việt Nam.
Ngày 1-7-1966, tại Hà Nội, Sainteny cho biết: “My đang tim
môt giai phap đê khoi mât thê diên va chinh Viêt Nam mơi ơ thê thăng. My đa bi đanh
bai. Đôi vơi môt nươc nho ma lam cho My không thưc hiên y đô la đa ơ trong thê
thăng rôi”213. Rồi Sainteny thuyết phục Phạm Văn Đồng: “Cân nghi đên chiên
tranh nhưng cung cân nghi đên hoa binh. Môt ngay nao đo se phai thương
lương”214.
Đúng lúc ấy, Hồ Chí Minh được mô tả là đã bước vào phòng,
cắt ngang cuộc gặp giữa Sainteny và Phạm Văn Đồng: “Nêu ông co găp ngươi My,
ông hay noi cho ho răng chung tôi không sơ My, chung tôi se chiên đâu đên cung,
du co phai hy sinh tât ca”215. Hôm sau, ngày 5-7-1966, trong cuộc tiếp chính
thức, Hồ Chí Minh nói với Sainteny: “Chung tôi hiêu đê quôc My. Chung tôi biêt
sưc manh cua ho. Ho co thê san băng Ha Nôi, Hai Phong, Nam
Đinh, Băc Ninh va cac thanh phô khac. Điêu đo không hê lam yêu quyêt tâm chiên
đâu đên cung cua chung tôi”216.
Tư năm 1967, người Mỹ bắt đầu thiết lập một kênh liên lac
vơi Viêt Nam
qua ngươi Phap. Giữa tháng 7-1967, Henry Kissinger trở thành ngươi trung gian
khơi đông tiến trinh thương lương. Cho đến lúc ấy, người Mỹ không hề biết rằng,
ông Lê Duẩn đang có trong tay một kế hoạch đầy tham vọng mà về sau được các nhà
báo Mỹ gọi là “Tet Offensive” và các văn kiện chính thức của Hà Nội gọi là
“Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968”.
Trong “chiến tranh giải phóng miền Nam”, cho dù Tướng Giáp
vẫn là bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tổng tư lệnh, bí thư Tổng Quân ủy, nhưng theo
ông Lê Trọng Nghĩa: “Thay vì ông Giáp là người quyết định, ông Lê Đức Thọ có
sáng kiến lập ra Tổ năm người giúp Trung ương chỉ đạo tác chiến miền Nam gồm: Lê
Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng và Lê Đức Thọ. Trong tổ này,
ông Giáp chỉ còn một phiếu”.
Chiến dịch Mậu Thân được lên kế hoạch sau “những cuộc họp
liên miên” mà các bên tham gia đã phải “tranh cãi gay gắt”. Đại tá Lê Trọng
Nghĩa, người dự hầu hết những cuộc họp này, nói: “Trong Quân ủy xuất hiện hai
xu hướng khác nhau: Một xu hướng cho rằng phải đánh bằng quân sự thì mới giải
quyết được cách mạng miền Nam, xu hướng này do Nguyễn Chí Thanh phát ngôn và
phía sau là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Một xu hướng đồng ý đánh, nhưng vừa đánh vừa
cân nhắc tình hình chính trị, nếu khi nào khả năng chính trị xuất hiện thì nắm
lấy cơ hội đàm phán hòa bình, người đứng đầu xu hướng này là Võ Nguyên Giáp,
Nguyễn Văn Vịnh. Tuy nhiên, tới tháng 6-1967 thì đôi bên đi đến thống nhất:
đánh; một ý đồ chiến lược được hình thành gọi là Kế hoạch 67-68”.
Chiều 5-7-1967, Bộ Chính trị làm cơm tiễn đưa Nguyễn Chí
Thanh trở lại miền Nam,
cùng dự có Hồ Chí Minh. Sau bữa cơm, Tướng Thanh có ngồi lại khá lâu với Tướng
Giáp. Người thân của ông kể lại rằng: Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại
nhà riêng ở số 34 Lý Nam
Đế, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bị choáng mệt. Lúc gần sáng, ông được đưa đi cấp
cứu tại Bệnh viện Quân y 108, nhưng khi vừa được đặt nằm xuống giường bệnh thì
từ ông “phát ra tiếng kêu ‘ặc’ rồi mặt và toàn thân tím ngắt”. Khoảng chín giờ
sáng ngày 6-7-1967, Nguyễn Chí Thanh mất với kết luận của bệnh viện là do “nhồi
máu cơ tim”.
Vị tướng đại diện cho xu hướng “giành chiến thắng hoàn toàn
bằng quân sự” vừa ra đi thì có hai sứ giả mang thông điệp hòa hoãn từ Washington tới: ông
Raymond Aubrac và Herbert Marcovich. Aubrac là người quen cũ của Hồ Chí Minh
trong thời kỳ ông tới Paris
dự Hội nghị Fontainebleau217. Sự ra đi đột ngột của Tướng Thanh cũng làm cho
ông Giáp bị sốc, ngay sau tang
lễ Nguyễn Chí
Thanh, Tướng Giáp
được đưa đi Hungary
dưỡng bệnh. Hồ
Chí Minh tiếp
các sứ giả W ashington khi bên mình không còn hai
đại tướng. Ông bắt đầu nói về đàm phán.
Ngày 24-7-1967, “Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ”218 khi gặp Hồ Chí Minh. Thủ tướng Phạm Văn Đồng
gần như đã bàn chi tiết phương thức tiến hành đàm phán219 với điều kiện Mỹ ngưng ném bom miền Bắc.
Ngày 25-8-1967, Aubrac va Marcovich chuyển tới tổng đại diện
Việt Nam tại Paris thông điệp thương lượng đầu tiên của Chinh phu My gưi Chinh
phu Viêt Nam Dân chu Công hoa: “Hoa Ky săn sang châm dưt nem bom băn pha băng
không quân va hai quân ơ miên Băc Viêt Nam vơi sư hiêu biêt răng viêc đo se
nhanh chong đưa tơi nhưng cuôc thao luân co hiêu qua giưa Hoa Ky va Viêt Nam
Dân chu Công hoa đê tiên tơi giai quyêt nhưng vân đê đang lam hai nươc chông
đôi nhau”220.
Không ai biết rõ thông điệp trên đây của Washington
có được miền Bắc chuyển đến lãnh tụ tối cao hay không. Khi miền Bắc trả
lời thì Hồ Chí Minh đã không còn ở Hà Nội nữa. Theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa:
“Ngày 5-9-1967, Hồ Chí Minh được đưa đi nghỉ ở Bắc Kinh. Chúng tôi nhận được
thông báo từ Ban Tổ chức Trung ương của Lê Đức Thọ: Bác mệt, phải đi nghỉ đông,
từ nay, những ai trước trực tiếp làm việc với Bác thì làm việc với đồng chí Lê
Duẩn”.
Ngay 11-9-1967, Mai Văn Bô trao cho Aubrac va Marcovich tra
lơi cua Ha Nôi: “Thông điêp cua My đa đươc trao sau môt cuôc leo thang đanh pha
Ha Nôi va vơi sư đe doa liên tuc đanh pha Ha Nôi. Ro rang đo la môt tôi hâu thư
đôi vơi nhân dân Viêt Nam.
Chinh phu nươc Viêt Nam Dân chu Công hoa kiên quyêt bac bo nhưng đê nghi trên
đây cua My”221. Một kế hoạch mang tên San Antonio,
theo đó, Mỹ sẽ “chấm dứt hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam -
để đổi lấy các cuộc đối thoại, miễn là
Hà Nội không lợi dụng việc ngừng ném bom”
222, vẫn được người Mỹ đưa ra. Ngày 29-9-1967, Johnson đồng ý “Kế hoạch San Antonio”, nhưng theo
Kissinger, Hà Nội đã bác bỏ nó.
Theo ông Trần Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
“Lê Đức Thọ và Lê Duẩn không thể đưa hai con người đang nắm quyền và có nhiều
uy tín đó đi đâu nếu hai người không đồng ý. Việc Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp
đi ra nước ngoài được giải thích là để nghi binh. Để thế giới tin rằng, miền
Bắc không thể triển khai một kế hoạch to nếu hai nhân vật quan trọng vào bậc
nhất đó không có mặt ở Hà Nội”.
Những diễn biến sau đó cho thấy câu chuyện không đơn giản là
một cuộc nghi binh. Đại tá Lê Trọng Nghĩa nói: “Hai mươi ngày sau khi Nguyễn
Chí Thanh mất, ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính bị bắt. Hơn một tháng sau khi
Hồ Chí Minh được đưa tới Bắc Kinh, ngày 18-10-1967, người thư ký thân cận nhất
của ông là Vũ Đình Huỳnh cũng bị bắt”. Một vụ án được nói là “Chống Đảng” do
Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn,
trực tiếp chỉ đạo, bắt đầu khởi động.
Cái chết của Tướng Nguyễn Chí Thanh không làm thay đổi quyết
tâm dứt điểm chiến trường miền Nam
của ông Lê Duẩn. Theo Tướng Giáp: “Anh Thanh mất khi chỉ mới có ý đồ chiến lược
đánh vào thành phố chứ chưa hề có kế hoạch tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào
dịp Tết Mậu Thân”. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian Võ Nguyên Giáp ở Hungary
và Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh, một kế hoạch được đặt tên là “Chiến dịch Quang
Trung” được gấp rút xây dựng.
Hồ Chí Minh được đưa về Hà Nội khi cuộc Tổng tiến công đã
gần kề. Theo ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông, ngày 21- 12-1967, Văn phòng Trung
ương điện “mời Bác về dự họp Bộ Chính trị”. Ngày 23-12-1967, chuyên cơ chở Hồ
Chí Minh về tới Gia Lâm. Ông Vũ Kỳ viết: “Máy bay lượn hai vòng vẫn chưa hạ
cánh được vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch mười lăm độ. Đồng chí lái giàu kinh
nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn. Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê
Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ ra đón Bác tại sân bay, đưa Bác về nhà và báo
cáo công việc với Bác”223.
Ngay sau khi khách khứa rút lui, việc đầu tiên mà Hồ Chí
Minh làm là gọi điện tới Quân ủy Trung ương để hỏi thăm sức khỏe Tướng Giáp.
Theo ông Vũ Kỳ, khi nghe Quân ủy nói Đại tướng đang ở nước ngoài, Hồ Chí Minh
nhắc gửi quà và thiệp cho vợ chồng “chú Văn”. Ông nói: “Nô-en và Tết dương lịch
bên ấy cũng như Tết ta của mình. Tâm lý của những người xa quê hương rất mong
có một món quà của tổ quốc”224. Không chỉ hiểu tâm trạng của vị tướng đang bị
đặt ra ngoài thời cuộc, theo Đại tá Lê Trọng Nghĩa: “Hồ Chí Minh lo cho sự an
toàn của Tướng Giáp”.
Từ Hungary,
ngày 20-9-1967 Tướng Giáp gửi thư cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu: “Cậu Hiếu, bọn
mình còn ở lại đây ít hôm nữa. Chắc Hoàng đã có thư. Rất mong thư nhà. Nhớ liên
lạc với anh Thạch, anh Tiến, khi nào có đoàn sang thì gửi mình”. Theo Đại tá
Hiếu, “anh Thạch” và “anh Tiến” trong bức thư này là Nguyễn Cơ Thạch và Hoàng
Văn Tiến, cựu thư ký của Tướng Giáp, lúc đó đang công tác tại Bộ Ngoại giao.
Bức thư Tướng Giáp cho thấy ông đã bắt đầu “đói thông tin” và, thay vì được báo
cáo qua con đường chính thức, phải tìm hiểu tình hình trong nước qua những
người tin cẩn.
Ngày 11-11-1967, Tướng Giáp gửi cho Đại tá Nguyễn Văn Hiếu
lá thư thứ hai từ Hungary:
“Hiếu, đã nhận được thư của Hiếu gửi cho đoàn, sau đó nhận được thư dài hơn
viết từ trước. Sức khỏe tôi khá hồi phục nhưng chưa khỏi hẳn. Hoàng sẽ nói rõ.
Hiếu xem, lúc về sẽ bố trí ăn ở làm việc thế nào để có thể chuẩn bị trước. Thăm
các cậu ở báo Quân Đội Nhân
Dân, Cục I, Cục II và các cục khác. Nghe nói bài báo của ta
có chỗ lộ bí mật (Hoàng Tùng nói), như thế là không đúng. Ta đã cân nhắc rất
kỹ”.
Theo Đại tá Hiếu, đọc lá thư viết trên postcard này, ông rất
lo lắng. Tại sao tổng tư lệnh đương chức lại băn khoăn “lúc về sẽ bố trí ăn ở
làm việc thế nào?” Đại tá Hiếu kể: “Khi anh Văn ở Hungary, ở nhà họp Quân ủy tôi đã
nhiều lần phải chịu đựng những lời nói xấu anh Văn một cách công khai. Trước
đó, Quân ủy rất đoàn kết nhưng, có thời gian Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng
lôi kéo một số cán bộ cô lập anh Văn. Trước khi vào Nam, có thời gian Nguyễn
Chí Thanh hay bóng gió: ‘Ở nhiều nước tổng tham mưu trưởng mới là tướng, còn bộ
trưởng quốc phòng chỉ là anh dân sự’. Khi đó, Văn Tiến Dũng đã thay Hoàng Văn
Thái làm tổng tham mưu trưởng. Tuy nhiên, khi Nguyễn Chí Thanh mất, anh Văn vẫn
bị sốc vì cuộc chiến cần tướng tài. Xét về năng lực, Nguyễn Chí Thanh sắc sảo
hơn nhiều so với Văn Tiến Dũng”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, thư ký Tướng Giáp, ông không
có điều kiện để xác minh điều mà Trần Quỳnh nói, trước giờ dự định vào Nam,
Nguyễn Chí Thanh nhắc Hồ Chí Minh phải chú ý vấn đề nội bộ. Nhưng, ông Huyên
xác nhận, ở thời điểm ấy cũng có người nói Tướng Giáp chống Đảng và muốn thay
Tướng Giáp. Theo ông Huyên: “Có người đề nghị, Bác nói: thông thường ở cấp ấy
con người có thể hành động như vậy nhưng chú Giáp thì không, hơn nữa ta đang
đánh Mỹ và đang thắng Mỹ không thể thay bộ trưởng quốc phòng”.
Theo ông Vũ Kỳ, ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc
biệt ngay bên nhà của Hồ Chí Minh, có bản đồ to kê trên bục trong phòng họp và
có nhiều tướng lĩnh đến báo cáo. Tại cuộc họp đó, theo ông Vũ Kỳ: “Bộ Chính trị
đề ra nhiệm vụ… đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên một bước phát triển
cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi
quyết định. Chiều tối, sau phiên họp Bộ Chính trị kéo dài và căng thẳng, Bác
trở về nhà sàn, chân bước chậm rãi, có lẽ có một điều gì đó khiến Bác chưa thật
an tâm. Cuộc họp hôm nay Bác chủ trì, ngồi ở ghế đầu bàn, đồng chí Lê Duẩn báo
cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận”225.
Ngày 1-1-1968, sau khi thăm một số nơi bị máy bay bắn phá ở
Hà Nội, vào lúc 2 giờ 30 chiều, sau khi tiếp “Bộ Chính trị đến làm việc”, Hồ
Chí Minh tiếp tục “sang Bắc Kinh dưỡng bệnh” 226. Ở Hà Nội, bàn tay của Lê Đức
Thọ bắt đầu siết mạnh hơn.
Tại Tổng Hành dinh, sáng 6-1-1968, Đại tá Lê Trọng Nghĩa
đang họp với Văn Tiến Dũng để làm kế hoạch bảo đảm cho chiến dịch thì ông Dũng
nói: “Anh sang Tổng cục Chính trị gặp Song Hào”. Ông Lê Trọng Nghĩa kể: “Tôi
sang, người tiếp tôi không phải là Song Hào mà là Phạm Ngọc Mậu, cục trưởng Tổ
chức kiêm phụ trách Bảo vệ Nội bộ. Mậu bảo: ‘Anh để cặp, vũ khí, bản đồ lại đây
rồi đi ngay, có nhiệm vụ Trung ương giao’. Tôi lần lượt tháo ra khỏi người
những thứ bất ly thân, và tôi chỉ phải đi sang một phòng ở gần đó. Hôm đó, vợ
tôi từ nơi tản cư ở Vĩnh Y ên về đang chờ tôi về ăn cơm để tối lại về nơi tản
cư tiếp. Nhưng tôi không chỉ bị giữ lại trong ngày, và cũng không chỉ có một
mình. Từ các nhà bên: Lê Minh Nghĩa, phó Văn phòng Quân ủy, kiêm chánh Văn
phòng Bộ Tổng Tham mưu, Đỗ Đức Kiên, cục trưởng Cục Tác chiến… cũng cùng bị
bắt. Lo lắng cho một chiến dịch sắp bắt đầu, một tuần sau, lấy tư cách là bí
thư Đảng Quân ủy Bộ Tổng Tham mưu, tôi viết thư gửi cho Bí thư Tổng Quân ủy Võ
Nguyên Giáp đặt vấn đề vì sao có việc giữ người này. Một thời gian sau, khi tôi
đã bị di lý đi nơi khác, một cục phó Cục Bảo vệ tới nơi tôi bị giữ, thông báo:
Anh Giáp đang nghỉ, tất cả những chuyện của các anh và những chuyện trong Quân
ủy bây giờ thuộc quyền giải quyết của anh Lê Đức Thọ”.
Sau khi “điều Lê Trọng Nghĩa” về trại giam, Cục trưởng Cục
Cán bộ Phạm Ngọc Mậu cho mời Chánh Văn phòng Quân ủy Nguyễn Văn Hiếu. Theo ông
Hiếu: “Ông Mậu nói: ‘Học viện quân sự đang thiếu người, anh phải lên thay Hoàng
Minh Thảo làm phó giám đốc. Anh nên đi ngay'. Tôi hiểu là người ta cần tống
mình đi. Đến Tam Đảo biết thêm, người ta chỉ thị cho Học viện là tôi không được
tham gia cấp ủy”. Như vậy, theo Cục trưởng Quân báo Lê Trọng Nghĩa: “Trước giờ
nổ súng, phần lớn tác giả của Kế hoạch Mậu Thân, kể cả tác giả chính là Cục
trưởng Tác chiến Đỗ Đức Kiên, đều bị loại ra khỏi vòng chiến đấu”.
Để đảm bảo hoàn toàn bí mật, chỉ trước khi nổ súng một tuần,
Lê Duẩn mới triệu tập các ủy viên Trung ương về Kim Bôi họp Hội nghị Trung ương
lần 14. Tại hội nghị, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thông báo với Trung ương rằng
trong cuộc họp quan trọng này “có nhiều đồng chí vắng mặt”. Bí thư Lê Duẩn nói:
“Trước hết, tôi xin báo cáo với các đồng chí, lần này hội nghị Trung ương chúng
ta họp, có một số đồng chí Trung ương bị ốm không đến được, có một số đồng chí
bận việc không đến được. Trong Bộ Chính trị cũng có đồng chí bận việc không đến
được , một số đồng chí sẽ đến, mai có đồng chí Thọ (Lê Đức Thọ), đồng chí Dũng
(Văn Tiến Dũng) sẽ đến báo cáo”227.
Sau Hội nghị Trung ương 14, chiều 20-1-1968, Lê Đức Thọ có
đến Bắc Kinh để “báo cáo Bác Hồ”. Tướng Giáp nhớ lại: “Sắp nổ súng thì Bác cũng
đang ở Bắc Kinh. Bác điện cho tôi: chú thu xếp về càng sớm, càng tốt”. Từ Hungary,
Tướng Giáp bay tới Bắc Kinh. Theo ông Vũ Kỳ, sáng 25-1-1968, Hồ Chí Minh gặp
riêng Võ Nguyên Giáp. Trong khi, cả “Cha già Dân tộc” và “Anh cả của Quân đội”
vẫn đang “an trí” ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát
các đô thị miền Nam. “Ngày 29 tháng Chạp ta”, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí
Minh “nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm
mới”228.
Cái đêm mà cả miền Nam chìm trong khói lửa của Tổng tiến
công ấy, Hồ Chí Minh đang ở Bắc Kinh, “trong căn phòng vắng” chỉ có ông và thư
ký Vũ Kỳ, “Bác” mỉm cười nghe một em bé hát “Bé bé bồng bông… em đi sơ tán, mai
về phố Đông” và lời chúc Tết của chính mình: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà/ Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ/ Tiến lên!/ Toàn
thắng ắt về ta!”229.
Máy bay Trung Quốc đưa Tướng Giáp về tới Hà Nội ngay trong
ngày 29 Tết. Hôm sau ông mới được Tướng Vũ Lăng, cục trưởng Cục Tác chiến báo
cáo “Kế hoạch Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa”. Vũ Lăng nói: “Anh Văn Tiến Dũng
bảo bây giờ thì có thể báo cáo toàn bộ với anh Văn”. Tướng Giáp cố giữ vẻ mặt
bình thản để giấu niềm cay đắng. Ông, vị tổng tư lệnh, đã không được biết một
kế hoạch lớn như vậy cho đến trước khi nổ súng một ngày.
Bốn ngày sau khi Chiến dịch Mậu Thân bắt đầu, một trong
những nhân vật quan trọng nhất của chiến dịch, Tướng Nguyễn Văn Vịnh, bị vô
hiệu hóa. Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, ủy viên Thường trực Tổng Quân ủy, được
cử vào Trung ương Cục trao đổi Kế hoạch Mậu Thân chỉ mười ngày sau khi Tướng
Nguyễn Chí Thanh mất. Tướng Vịnh trở lại Hà Nội vào đầu tháng 1-1968, và chính
ông là người báo cáo tình hình chiến trường miền Nam với Quân ủy, là người trực
tiếp soạn thảo Nghị quyết Trung ương 14.
Theo thư ký riêng của ông, ông Phạm Văn Hùng: Chiều mồng 5
Tết Mậu Thân, ông Vịnh được Lê Đức Thọ mời tới nhà riêng gặp vào lúc 15 giờ.
Cuộc gặp kéo dài tới chập tối nên ông Hùng không thể chờ. Sáng hôm sau khi ông
Phạm Văn Hùng quay lại nhà riêng và là nơi làm việc của ông Vịnh, 34 Cao Bá
Quát, thì được ông Vịnh cho biết, ông bị ngưng tất cả các chức vụ: ủy viên dự
khuyết Trung ương Đảng, ủy viên thường trực Quân ủy, thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Khoảng ba mươi nhân vật cao cấp đã bị bắt, phần lớn là những
người thân cận với Tướng Giáp như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang230, Cục trưởng
Cục II Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh Nghĩa,
Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân
dân Hoàng Thế Dũng, Phó Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật, nguyên tỉnh ủy viên Tỉnh
ủy Quảng Bình, Nguyễn Kiến Giang, Giám đốc Nhà Xuất bản Sự thật Minh Tranh,…
Trừ một số người bị bức cung để phải khai ra “vai trò cầm đầu của Tướng Giáp”
lờ mờ nhận thấy mục tiêu chính trị của “vụ án”, phần đông cho đến tận cuối đời
không hiểu vì sao lại có vụ án này231.
Theo Trần Quỳnh, trợ lý Lê Duẩn thì, thành phần bị bắt thời
gian này gồm: “Những người không tán thành đường lối chống xét lại của Đảng ta,
một số cán bộ cao cấp và trung cấp theo học ở trường Đảng cao cấp Liên Xô và
trường quân sự cao cấp Liên Xô bàn kế hoạch chống lại đường lối của Đảng. Họ
lập một nhóm vận động thành lập một tổ chức lấy việc thay đổi Bộ Chính trị làm
mục tiêu. Họ nhắm vào những người không đồng tình với Nghị quyết 9, trước hết
là những sĩ quan cao cấp trong quân đội và những ủy viên trong Trung ương”. Các
văn bản do Lê Đức Thọ ký cũng nói tới Nghị quyết
9 và quan điểm xét lại232. Nhưng, trên thực tế, Nghị quyết 9
đã được quán triệt từ năm 1964. Người chủ trương xét lại ở Liên Xô, Khrushchev,
khi đó cũng đã bị phế truất và bị thay bởi Brezhnev. Mặc dù mở đầu vụ án bằng
việc bắt Hoàng Minh Chính, hầu hết những nhân vật quan trọng bị bắt đều là thư
ký của Hồ Chí Minh hoặc là những trợ thủ đắc lực của Tướng Giáp.
Theo thư ký của Tướng Vịnh, ông Phạm Văn Hùng233: “Ông Vịnh
và ông Giang đều đã cùng ở trong Quân ủy, biết nhau rất rõ. Ông Vịnh ở nhà 34
Cao Bá Quát, ông Giang ở nhà đối diện. Từ khi ông Giang ra khỏi quân đội, thỉnh
thoảng vẫn qua lại nhà ông Vịnh trò chuyện. Nhiều cán bộ cao cấp khác thỉnh
thoảng vẫn sang nhà ông Vịnh trò chuyện. Ông Vịnh là người cởi mở nhưng bí mật
quân sự thì không bao giờ ông ấy tiết lộ”.
Tướng Giáp trở lại Tổng hành dinh khi không còn những cộng
sự ăn ý nhất. “Cuộc Tổng tấn công Mậu Thân” diễn ra ngay trong đêm 30 Tết, thời
điểm hai miền có thỏa thuận ngừng bắn để người dân đón Xuân. Tuy có gặp trục
trặc về giờ nổ súng do có sự nhầm lẫn trong việc sử dụng giờ Hà Nội với giờ Sài
Gòn; nhưng, gần như ngay sau Giao thừa, 31-1- 1968, lẫn trong tiếng pháo mừng
xuân của thường dân, Quân Giải phóng đồng loạt nổ súng vào 5/6 thành phố, 36/44
thị xã, 36/242 huyện lỵ, 25 sân bay,… Đặc biệt, cuộc tấn công đã gây rúng động
với những gì mà “Việt Cộng” đã làm ở Sài Gòn và Huế.
Tướng Giáp cho rằng: “Tổng tiến công vào một thời điểm bất
ngờ là một chủ trương sáng tạo, nhưng đề ra tổng khởi nghĩa là không phù
hợp”234. Tướng Giáp không coi Mậu Thân là chiến thắng vì theo ông: “Lúc đầu mục
tiêu đề ra rất cao, tổng công kích, tổng khởi nghĩa, giành trọn vẹn chính quyền
về tay nhân dân. Giấy bạc đã được in và đã được chuyển vào Nam235. Đồng phục
cho công an vào tiếp quản thành phố cũng đã được chuẩn bị. Đồng chí Đàm Quang
Trung ở Quân khu IV đã chuẩn bị một đoàn xe chở quân và quân trang vào tiếp
quản thành phố. Sau này giải thích tổng công kích, tổng khởi nghĩa xảy ra là
một quá trình là không đúng với thực tế”236.
Trong Chiến dịch Mậu Thân, người Mỹ bắt được một tài liệu
của tỉnh Bình Định gửi cán bộ, nói rằng: “Tổng tấn công 1.000 năm mới có một
lần, sẽ quyết định số phận của đất nước, sẽ chấm dứt chiến tranh”. Chính ông Lê
Duẩn, trước chiến dịch cũng tiên đoán: “Cuộc khởi nghĩa ta nói đây là một giai
đoạn cuối cùng”. Ông Duẩn tin, khi quân chủ lực tiến vào thì Sài Gòn sẽ nổi
dậy237. Ngay sau khi chiến dịch bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đi thẳng vào miền Nam
nắm vai trò phó bí thư Trung ương Cục. Ông ở lại cho tới tháng 5-1968, khi tình
hình chiến trường không còn dấu hiệu chiến thắng nào.
Đợt “tổng tiến công” lần thứ nhất trong Chiến dịch Mậu Thân
đã tạo ra được yếu tố bất ngờ; tuy nhiên, Sài Gòn đã không “bị sập một cái” và
không có “nửa triệu người cầm súng cho ta” như dự đoán của Bí thư Lê Duẩn238.
Ngay trong đợt đầu, theo Đại tá Tư Chu, chỉ huy Biệt động Sài Gòn, đã “có những
hy sinh, tổn thất lẽ ra có thể tránh được”239. Nhưng, không chỉ tấn công đợt
đầu, theo Tướng Giáp: “Khi yếu tố bất ngờ đã không còn vẫn kéo dài tiến công
vào đô thị; chậm chuyển hướng về củng cố, mở rộng, giữ vững vùng giải phóng và
làm chủ ở nông thôn do đó đã gây cho ta nhiều khó
khăn, tổn thất rất nặng nề”240. Từ chỗ đang giữ thế thượng
phong trên chiến trường miền Nam,
Quân Giải phóng đã phải trải qua những ngày chống đỡ trong tuyệt vọng241.

Tuần lễ đầu tiên của tháng 2-1968, số thương vong của lính
Mỹ trong vòng một tuần đạt kỷ lục: 543 chết; 2.547 bị thương. Ngày 27-2-1968,
người dẫn chương trình truyền hình có ảnh hưởng lớn khi đó, Walter Cronkite,
“đã truyền những làn sóng gây sốc cho toàn Nhà Trắng bằng cách dự báo sự thất
bại” 242. Wall Street, một tờ báo được coi là đang ủng hộ Washington
cũng lo sợ Mậu Thân sẽ “làm hỏng các mục tiêu đáng ca ngợi ban đầu”243.
Đài truyền hình NBC ngày 10-3-
1968 bình luận: “Đến lúc chúng ta phải xác định liệu việc
phá hủy Việt Nam để cứu Việt
Nam
có phải là điều vô nghĩa”244.
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson quyết định “ngừng ném bom
đơn phương một phần trong khu vực bắc vĩ tuyến
20” và sẽ “ngừng ném bom hoàn toàn ngay khi các cuộc thương
lượng quan trọng bắt đầu”. Johnson tuyên bố “sẽ không có thêm lực lượng quân sự
tăng cường lớn nào được phái sang Việt Nam”. Cũng trong ngày hôm ấy
Johnson nói rằng ông sẽ không ra tái ứng cử. Phản ứng của Washington là cơ sở để Hà Nội coi Chiến dịch
Mậu Thân là: “Một chiến thắng đã làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế
quốc Mỹ, buộc chúng phải bắt đầu xuống thang”.
“Nghị quyết 21”
Phải mất năm năm. Phải sau khi hàng vạn sinh linh của cả hai
miền đã bị bom đạn nghiền nát suốt gần ba tháng ở Quảng Trị trong mùa hè năm
1972. Phải sau khi “Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác” bị tàn phá,
hàng nghìn người bị chết bởi B52 trong mùa Giáng sinh 1972. Ngày 27-1-1973,
Hiệp định Paris
mới được ký kết.
Điều quan trọng nhất mà ông Lê Duẩn chờ đợi trong hiệp định
này là quân Mỹ rút mà quân miền Bắc không rút thì, ở trên bàn đàm phán,
Kissinger đã chấp nhận từ năm 1971. Trên thực tế, ngay trong những tháng đầu
nhậm chức, Nixon đã đơn phương rút quân: từ 545.000 quân năm 1968, xuống còn 27.000
quân, năm 1972. Hiệp định Paris
1973 chỉ giúp cho sự ra đi của Mỹ có một tên gọi khác245.
Sau Hiệp định Paris, theo Tướng Giáp, ở Hà Nội: “Có nhiều ý
kiến muốn giữ vững hòa bình, thực hiện hòa hợp, tạo thế ổn định 5-10 năm… Cũng
có một kế hoạch sử dụng 3,5 tỷ đôla mà phía Mỹ hứa bồi thường chiến tranh để
làm vốn tích lũy ban đầu. Ngay ở Tổng Hành dinh cũng có ý kiến không muốn đánh
trả e vi phạm hiệp định”246.
Sáng 27-3-1973, tại phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị, sau
khi nghe báo cáo tình hình, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đề nghị “cần
tranh thủ tạo thế mạnh cho ta và có đối sách cụ thể với Mỹ” 247. Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn kết luận: “Ta cần tranh thủ xây dựng lực lượng mọi mặt ở miền Nam,
miền Bắc, quy trách nhiệm của Mỹ, buộc đối phương phải thi hành hiệp định”248.
Ngày 28-3-1973, khi chủ trì họp Quân ủy Trung ương để triển
khai Nghị quyết ngày 27-3-1973 của Bộ Chính trị, Tướng Giáp vẫn xác định phương
châm tác chiến ở miền Nam là “kết hợp đánh chính quy và du kích, tác chiến với
binh vận, chiến đấu với xây dựng lực lượng, tiêu diệt địch gắn với giành
dân”249. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Tướng
Giáp xác định trong Hội nghị Quân ủy: “Đối tượng tác chiến lúc này là quân
ngụy”250. Ngày 28-3-
1973, Bí thư Quân ủy Võ Nguyên Giáp gửi điện cho các chiến
trường, giải thích: “Tiến công quân sự bằng phản công của ta là chủ động tiến
công, không phòng ngự đơn thuần”251.
Nhưng, sau Hội nghị Bộ Chính trị ngày 27-3-1973, Tố Hữu cùng
các đặc phái viên Nguyễn Thọ Chân, Đinh Đức Thiện, được cử vào Trung ương Cục
phổ biến chủ trương của Bộ Chính trị theo hướng “đấu tranh chính trị là chủ
yếu”, các chiến trường phải tranh thủ thời cơ để “gò cương vỗ béo” nhằm thực
hiện “hòa hợp dân tộc và thi đua hòa bình”. Cùng thời gian này, tại các cơ quan
của Miền, theo ông Lữ Phương, ông Trần Bạch Đằng triển khai tinh thần một bức
“Thư Vào Nam” của Bí thư Lê Duẩn, theo đó, “hòa hợp, hòa giải dân tộc” là nhiệm
vụ ưu tiên của thời kỳ sau hiệp định. Cuối năm 1972, ông Lê Duẩn đã bố trí cán
bộ nghiên cứu việc hình thành và tham gia “chính phủ liên hiệp ba thành phần”.
Ông Phan Văn Khải, khi đó là vụ phó ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước là một trong
những cán bộ được chọn. Đoàn của ông Khải đã vào Trung ương Cục chỉ vài tuần
sau đoàn của ông Tố Hữu.
Sau khi nghe Bí thư Tố Hữu vào truyền đạt tinh thần thi hành
Hiệp định Paris của Bộ Chính trị, Hội nghị Binh vận Miền tháng 4-1973 triển
khai “năm cấm chỉ”: cấm tấn công địch, cấm đánh địch đi càn quét, cấm bắn pháo
vào đồn địch, cấm bao vây đồn bót, cấm xây dựng ấp xã chiến đấu. Ở Khu IX, ông
Võ Văn Kiệt và Thường vụ Khu ủy ra lệnh Binh vận Khu không phổ biến chủ trương
này của Binh vận Miền.
Ông Võ Văn Kiệt kể, nhận được điện của Trung ương Cục, ông
liền trao đổi ngay với Đại tá Lê Đức Anh và Thường vụ Khu ủy, triệu tập các
tỉnh đội và đơn vị. Theo ông Kiệt, bản thân các đơn vị khi nghe nội dung chủ
trương này đã cảm thấy rằng, “chắc chắn Khu ủy sẽ có chỉ đạo khác”. Trước đó,
ngày 2-2-1973, ở Khu IX, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Hội nghị Thường vụ Khu ủy,
“quán triệt” cấp dưới rằng không được “mơ hồ ảo tưởng” về hòa bình.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn không “mơ hồ” khi
ngầm triển khai một chiến dịch gọi là “tràn ngập lãnh thổ” nhằm chiếm 85% đất
đai và kiểm soát 95% dân chúng miền Nam bốn mươi lăm giờ trước khi Hiệp định
Paris có hiệu
lực. Ngày 3-3-1973, ba mươi tiểu đoàn của Việt Nam Cộng hòa
đã ồ ạt đánh vào Chương Thiện, dự kiến trong bảy ngày sẽ chiếm xong các mục
tiêu, bịt cửa ngõ U Minh. Nhưng, các mũi tiến công đều bị chặn đứng, Khu IX tổ
chức tấn công trên toàn địa bàn Quân khu.
Trước các nhà lãnh đạo Khu ủy và Quân khu, ông Kiệt khi ấy
vừa trở thành ủy viên chính thức Trung ương Đảng, tuyên bố: “Mệnh lệnh tối cao
lúc này là phải giữ đất, giữ dân”. Ông Kiệt nhớ lại: “Chưa có cuộc họp nào mà tất
cả các nơi về nhanh thế. Hội nghị chỉ kéo dài một buổi rồi tất cả lại phấn khởi
đòi về ngay để giữ đất”. Nhưng, nhiều nơi cho rằng “Khu ủy Tây Nam Bộ xé Hiệp
định Paris”.
Trung ương Cục điện yêu cầu “Khu IX phải thấy tình hình mới”.
Bộ Tư lệnh Miền phê bình và thông báo toàn Miền, đồng thời
ra lệnh cho Đại tá Anh rút hai trung đoàn chủ lực về phía sau rèn luyện nếu
không sẽ “đưa Đại tá Lê Đức Anh ra Toà án binh”. Đại tá Anh sau khi trao đổi
với ông Kiệt trả lời Bộ Tư lệnh: “Cho phép Quân khu IX thi hành chủ trương của
Thường vụ Khu ủy”. Ông Võ Văn Kiệt điện cho Trung ương Cục và Bộ Chính trị:
“Nếu không chống địch lấn chiếm, để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Sau khi nhận được điện của ông Kiệt, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn
cho triệu tập đại diện các khu, đại diện Trung ương Cục, đại diện Bộ Tư lệnh
Miền ra Hà Nội. Ngày 19-4-1973, các đại diện miền Nam, Phó Bí thư Trung ương
Cục Nguyễn Văn Linh, Tư lệnh miền Nam Hoàng Văn Thái, Bí thư Khu IX Võ Văn Kiệt
đã có mặt ở Hà Nội, báo cáo với Bộ Chính trị tại nhà khách Hồ Tây.
Ông Lê Duẩn có một phương pháp làm việc được Võ Văn Kiệt gọi
là “bỏ túi nghị quyết”. Nghĩa là, khi xuống cơ sở để triển khai nghị quyết thay
vì bắt buộc cơ sở phải chấp hành những gì cấp ủy đã ban hành, phải lắng nghe
xem, nghị quyết đề ra như vậy đã phù hợp chưa, nếu không phù hợp thì phải điều
chỉnh nghị quyết chứ không phải điều chỉnh cuộc sống. Ông Kiệt gọi cách là đó
là “đưa cuộc sống vào nghị quyết”.
Khi những cán bộ chiến trường như ông Kiệt ra tới Hà Nội,
ông Lê Duẩn yêu cầu các ủy viên Bộ Chính trị, các bộ, ngành phải dành đủ thời
gian để nghe tình hình từng chiến trường. Ông Duẩn cũng chỉ thị cho những cán
bộ từ chiến trường ra: “Bất cứ ủy viên trung ương nào cần nghe là phải báo
cáo”. Bản thân ông Lê Duẩn cũng cần tìm kiếm sự nhất trí cao trong Trung ương.
Theo ông Kiệt thì khi ông mới ra Bắc, ông Tố Hữu vẫn còn gặp nhiều lần để
“thuyết phục Khu IX thi hành nghị quyết gò cương vỗ béo”.
Đó là lần đầu tiên ông Võ Văn Kiệt ra Hà Nội, lần đầu tiên
làm việc nhiều với Bộ Quốc phòng, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tướng
Lê Hai chỉ vào “lõm Tây Nam Bộ” trên bản đồ rồi hỏi: “Giữ được không?”. Ông
Kiệt nói: “Sẽ mất nếu rút lui. T3252
cũng tùy thuộc vào cái thế chung của chiến trường. Nếu cả chiến trường
tiếp tục tiến công, T3 sẽ giữ được. Nếu chiến trường rút, T3 mất”. Không như
các tướng Lê Hai, Văn Tiến Dũng, bộc lộ khá rõ chính kiến, Tướng Giáp nghe rất
kỹ và hỏi rất cặn kẽ, nhưng gần như không bộc lộ quan điểm của ông và của Bộ
Chính trị về việc thi hành Hiệp định. Chỉ một lần, ông nói: “Hoàn toàn ẩn cũng
có lợi cho dân, nhưng, đánh lại như T3 là tích cực”.
Khi ấy ông Võ Văn Kiệt chưa biết, trong vị thế khó khăn của
mình, Tướng Giáp phải rất giữ gìn, tuy nhiên không phải tự nhiên mà ông đánh
giá “T3 tích cực”. Từ giữa tháng 4-1973, Tướng Giáp đã cho lập “Tổ Trung tâm”
để xây dựng “đề cương kế hoạch chiến lược” mang bí số “305 TG1”. Tổ do một vị
tướng tâm phúc của ông phụ trách: Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.
Mùa hè năm 1973, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn cho gọi Tướng Lê
Hữu Đức lên và trước khi ra về, ông hỏi: “Bộ Tổng Tham mưu đang làm gì?”. Ông
Đức: “Dạ đang dự thảo kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam”. Lê Duẩn:
“Thế tôi nghe được không?”. Theo Tướng Đức thì sau khi nghe, Lê Duẩn lệnh cho
cả Tổ Trung tâm sang trình bày kế hoạch cho ông nghe. Buổi chiều, Lê Trọng Tấn,
Vũ Lăng cùng Lê Hữu Đức quay lại trình bày chi tiết. Lê Duẩn nói: “Tôi đang suy
nghĩ như vậy. Hôm nay nghe xong, Tổ Trung tâm lại củng cố suy nghĩ đó của tôi.
Tôi sẽ báo cáo Bộ Chính trị”.
Việc báo ra Bộ Chính trị một “vấn đề tuyệt mật” đã làm cho
các sỹ quan tác chiến lo lắng, Tướng Lê Trọng Tấn sau đó đã phải đi báo cáo xin
ý kiến Văn Tiến Dũng và Tướng Giáp. Ông Hồ Ngọc Đại, con rể và là người sống
cùng ông Lê Duẩn trong dinh thự số 6 Hoàng Diệu kể: Một lần khi vừa chạy xe
suốt nửa ngày từ Hà Nội xuống Đồ Sơn thì ông Duẩn nhận được điện thoại của
Tướng Lê Trọng Tấn đề nghị được báo cáo tình hình cho tổng bí thư. Lê Duẩn định
kêu Tướng Tấn xuống Đồ Sơn nhưng ông Tấn không chịu vì theo nguyên tắc, bí mật
quân sự chỉ có thể được nói trong tổng hành dinh. Thế là Lê Duẩn lại phải quay
xe về Hà Nội dù khi ấy đường rất xấu253.
Cũng trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 8-1973, khi Trung
ương đang nghe các chỉ huy chiến trường báo cáo và xác định hướng chiến lược
sau Hiệp định Paris, ở Khu IX, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tiếp mở các trận
càn vào Chương Thiện với lực lượng lên tới bảy mươi lăm tiểu đoàn. Khu IX đã
ngăn chặn thành công nỗ lực này của Sài Gòn. Theo Tướng Lê Đức Anh thì Trung
đoàn 1, khi ấy do ông Phạm Văn Trà chỉ huy, đã đóng vai trò tích cực. Tháng 5-1973, khi Bộ Chính trị quyết định họp
mở rộng ở Đồ Sơn, theo Tướng Giáp: “Không còn ai nghĩ tới nghỉ ngơi, hòa hoãn
nữa”254.
Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Hội nghị Trung ương 21 không còn
phê phán Khu IX và quyết định sửa đổi chủ trương”. Hội nghị Trung ương 21, khai
mạc tháng 6-1973 và thông qua lần cuối vào ngày 4-10-1973, xác định: con đường
cách mạng ở miền Nam
là con đường bạo lực”. Tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Nếu như từ năm 1973, chúng
ta tin bằng cách này hay cách khác, Hiệp
định Paris sẽ
được thi hành
giống như chúng
ta đã tin
hai năm sẽ có
tổng tuyển cử
hồi Hiệp định Geneva… thì tình hình đã không như bây
giờ”255. “Bây giờ” mà Tướng Trà đề cập là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, trận đánh
cuối cùng của Quân Giải phóng.
Khoảng một tháng sau khi ông Lê Đức Anh từ Hà Nội quay lại
Bộ Tư lệnh Miền, Hà Nội công bố quyết định phong quân hàm vượt cấp lên trung
tướng cho hai đại tá: Lê Đức Anh và Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh Bộ đội Trường Sơn.
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Điều mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lúc ấy băn khoăn là người Mỹ
sẽ phản ứng thế nào khi vẫn “bạo lực” sau Hiệp định. Có lẽ như lời một bài hát
lúc đó: “Vận nước đã tới rồi”. Ngay trong năm 1973, Nixon bị cuốn vào vụ bê bối
Watergate khiến ông phải từ chức. Ngày 1-9-1974, Gerald Ford lên thay Richard
Nixon. Theo Kissinger, người tiếp tục được Tổng thống Ford giữ lại làm ngoại
trưởng: “Quyết định đầu tiên của tổng thống là phản ứng như thế nào đối với
khoản viện trợ không tương xứng cho Việt Nam”256.
Ngân sách dành cho Sài Gòn đã giảm từ 2,1 tỷ đôla năm 1973
xuống còn 1,4 tỷ đôla năm 1974 và chỉ còn 700 triệu cho năm tài khóa 1975. Cho
dù mức mà Nixon trước đó đề nghị vẫn là 1,4 tỷ đôla. Theo “bản ghi nhớ” ngày
12-9-1974
Kissinger chuyển cho Ford thì ngay cả khi Quốc hội Mỹ chuẩn
thuận mức viện trợ quân sự 700 triệu đôla, thì Quân lực Việt Nam Cộng hòa khó
có khả năng kháng cự257. Tính tới tháng 9-1974, 26.000 binh sĩ Việt Nam Cộng
hòa đã bị tử trận kể từ khi ký Hiệp định Paris.
Thế nhưng, Thượng viện Mỹ không những không tăng viện trợ theo đề nghị của tổng
thống mà còn cắt đi 300 triệu.
Đầu năm 1974, khi tình hình bắt đầu “nước sôi lửa bỏng”,
trong một chuyến công tác, Tướng Giáp bị đau bụng dữ dội rồi ngất đột ngột. Ông
kể, “khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trong máy bay trực thăng cấp cứu”258.
Do Viện Quân y 108 không chẩn đoán ra bệnh, Bộ Chính trị quyết định đưa Tướng
Giáp sang Liên Xô bằng một chuyến chuyên cơ. Tại Moscow có lúc tim ông đã ngưng
đập trong mấy giây và trước khi chấp nhận một cuộc đại phẫu thuật bệnh sỏi mật,
ông đã viết “mấy điều dặn dò để lại”. Tháng 4-1974, sau khi Tướng Giáp hồi
phục, Liên Xô đã bố trí một máy bay để đưa ông trở về Hà Nội. Khi ấy, Văn Tiến
Dũng cũng bị ốm phải đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài.
Theo Tướng Giáp: Mùa hè năm 1974, khi cùng đi nghỉ ở Đồ Sơn,
Lê Duẩn đã bàn với ông một loạt các vấn đề chiến lược và khi thấy sức khỏe của
Tướng Giáp đã ổn sau khi mổ sỏi mật ở Liên Xô về, Lê Duẩn nói với Tướng Giáp:
“Công việc rất quan trọng, khẩn trương. Anh nắm lấy mà làm”. Ở Đồ Sơn, Tướng
Giáp vừa an dưỡng, vừa hoàn thành dự thảo lần thứ sáu “kế hoạch chiến lược
giành thắng lợi ở miền Nam”. Ông vừa đi bộ quanh bán đảo Đồ Sơn, khi ấy là một
khu chỉ dành riêng cho Trung ương, vừa trao đổi với những cán bộ đi cùng. Tuy nhiên,
theo ông, kế hoạch chiến lược được giữ tuyệt mật, ông chỉ đọc ra cho Đại tá Võ
Quang Hồ, cục phó Cục Tác chiến viết từng phần.
Khi Bộ Chính trị bàn “kế hoạch giải phóng miền Nam”, theo
Trung tướng Lê Hữu Đức: Hai hội nghị đầu suôn sẻ, nhưng từ hội nghị thứ 3 cho
đến hội nghị thứ 6, sau khi Lê Duẩn gợi ý thảo luận phương án tổng khởi nghĩa,
tức là dùng chủ lực đánh vào đầu não như hồi Mậu Thân rồi phát động nhân dân
nổi dậy. Bộ Chính trị chuyển sang sôi nổi bàn về phương án tổng khởi nghĩa.
7/11 ủy viên Bộ Chính trị ủng hộ ý kiến này của Lê Duẩn. Tướng Giáp chỉ còn có
hai ủy viên ủng hộ phương án tổng công kích.
Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Kể từ khi Lê Duẩn ra Bắc, Tướng Giáp
thường rất đơn độc, những tướng lĩnh trong Quân ủy như Văn Tiến Dũng, Song Hào,
Lê Quang Đạo, Trần Quý Hai thường ngả theo ý kiến của ông Lê Duẩn. Lê Trọng Tấn
là một vị tướng tài và trung thành với Tướng Giáp nhưng khi ấy ông chưa là uỷ
viên Trung ương”. Tuy nhiên, theo Tướng Lê Hữu Đức, “rất may là Bộ Chính trị đã
không buộc thiểu số phục tùng đa số” và Tướng Giáp thì đã kiên trì thuyết phục.
Từ Hội nghị lần thứ 7, Bộ Chính trị bắt đầu chấp nhận phương
án “tổng công kích” của Tướng Giáp. Tướng Lê Hữu Đức, thời gian ấy là cục
trưởng Cục Tác chiến, thường xuyên phải làm việc với Lê Duẩn và trực tiếp ghi
chép các ý kiến khác nhau trong Bộ Chính trị, kể: “Anh Lê Duẩn cứ cằn nhằn tôi:
sao Cục Tác chiến không thích tổng khởi nghĩa. Khi phương án ‘tổng công kích’
được chọn rồi, ông lại nói: đã tổng công kích sao không công kích thẳng vào Sài
Gòn mà lại chọn Buôn Mê Thuột?”.
Kế hoạch đánh Buôn Mê Thuột được Tướng Giáp trao đổi với
Tướng Dũng chi tiết trong một cuộc gặp có mặt Tướng Hoàng Văn Thái ngay trước
khi Văn Tiến Dũng vào miền Nam. Theo Tướng Giáp: từ giữa năm 1973, Tổ Trung tâm
đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên và trong một buổi làm việc, Tướng Hoàng
Minh Thảo cho rằng, khi đã chọn hướng Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma
Thuột259. Tướng Giáp, Tướng Dũng đều nhất trí với lựa chọn này.
Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Tháng 1-1975, ngay sau khi Lê Duẩn
tán thành mở đầu cuộc tổng tiến công vào Buôn Mê Thuột Tướng Giáp ra lệnh cho
Tướng Lê Trọng Tấn: kiên quyết phải làm đường vào sát Buôn Mê Thuột, phải có xe
tăng, pháo lớn mới đánh đòn quyết định được. Khi ta làm chủ Buôn Mê Thuột,
Tướng Giáp nói với chúng tôi: tình hình này không loại trừ địch rút khỏi Tây
Nguyên. Hôm đó là ngày 11-3-1975, ngày 26-3-1975, đúng như dự đoán của anh,
Ngụy rút”.
Sáng 11-3-1975, ngay
sau khi có tin Tướng Văn Tiến Dũng làm
chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột, bao vây Kon Tum, Pleiku, Bộ Chính trị và Thường
trực Quân ủy Trung ương nhóm họp, nhất trí đánh giá: “Ta có khả năng giành
thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến và đồng ý kế hoạch tác chiến của
Bộ Tổng Tham mưu”. Trong một không khí rất hào hứng, gần cuối buổi họp, Lê Duẩn
nói: “Trước ta dự định hai năm giải phóng miền Nam, nay tiếp theo Phước Long có
Buôn Ma Thuột, ta có thể đẩy mạnh hơn không? Đề nghị Bộ Chính trị và các anh
bên Quân ủy suy nghĩ xem ta đã có thể chuyển sang tổng tiến công chiến lược trên
toàn miền Nam
chưa?”. Theo Tướng Lê Hữu Đức: “Anh Văn là người đầu tiên nhất trí với đề xuất
của anh Ba. Tiếp đó, các đồng chí trong Bộ Chính trị đều tán thành”260.
Từ ngày 11-3-1975 cho đến khi quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi
Tây Nguyên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hầu như làm việc tại Cục Tác chiến. Ông
trực tiếp đọc hết các điện chiến trường gửi về. Cục trưởng Tác chiến Lê Hữu Đức
có trách nhiệm hằng ngày vào lúc 19 giờ, tới nhà riêng ông Lê Duẩn báo cáo diễn
tiến chiến trường và các kế hoạch tác chiến. Với tư cách là tổng tư lệnh trong
chiến dịch, Tướng Giáp nắm vấn đề bao quát và đặc biệt liên hệ chặt chẽ với các
tư lệnh chiến trường.
Theo Tướng Lê Hữu Đức, sau khi quân đội Sài Gòn rút chạy
khỏi Tây Nguyên, Tướng Giáp và Thường trực Quân ủy nhất trí nên tác chiến phát
triển về phía Đông, bố trí cụ thể sẽ do Tướng Văn Tiến Dũng quyết định. Tướng
Lê Hữu Đức nói: “Anh Văn chỉ thị tôi sang báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của anh
Ba. Nghe xong, anh Ba tỏ ý phân vân. Từ năm 1972, anh Ba vẫn muốn tập trung lực
lượng chủ lực, để khi có điều kiện, đánh uy hiếp Sài Gòn, giành thắng lợi quyết
định. Ý anh là khi Tây Nguyên giải phóng, việc tiêu diệt địch và giải phóng các
tỉnh ven biển miền Trung nên giao cho Quân khu V, lực lượng còn lại của Tây
Nguyên nên tiến về Lộc Ninh, đánh vào Sài Gòn càng sớm càng hay. Nhưng, khi ấy
các mặt chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến quy mô lớn chưa được chuẩn
bị. May mà lúc ấy, anh Dũng cũng điện ra đề nghị cho phát triển về hướng Đông,
phù hợp với Quân ủy Trung ương. Chúng tôi báo cáo lần nữa và được anh Ba đồng
ý”261.
Nhận được tin, Tư lệnh chiến trường Văn Tiến Dũng gửi Tổng
Tư lệnh Võ Nguyên Giáp bức điện số 107: “Đêm qua tôi không ngủ được về ý định
của tôi với chỉ thị phải tập trung Sư 10 về. May quá hai mươi lăm phút sau thì
nhận được điện của anh. Tôi mừng quá về sự tâm đầu ý hợp của lãnh đạo và người
ở chiến trường”262.
Tướng Giáp dự định đi ngay vào Vĩnh Linh. Trực thăng đã sẵn
sàng. Nhưng ông quyết định ở lại vì “tình hình chiến trường phát triển quá
nhanh”, Tổng Tư lệnh không thể rời Tổng Hành dinh. Sau ngày 18-3-1975, khi Bộ
Chính trị họp tại Nhà Con Rồng, nhất trí đề nghị của Quân ủy, “giải phóng miền
Nam trong năm 1975”, Tướng Giáp đi vào Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam
Quân đoàn I, Quân đoàn cuối cùng ở miền Bắc. Khi ấy Quân đoàn I đang giúp dân
đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh báo động, nhanh chóng
theo trục Quốc lộ l hành quân vào Nam, chỉ để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây
làm nhiệm vụ dự bị và bảo vệ Hà Nội.
Trước đó, từ ngày 17-3, Tướng Giáp liên tiếp gửi các “điện”
đến Bộ Tư lệnh Trị Thiên và Bộ Tư lệnh Quân đoàn II đôn đốc đưa lực lượng xuống
đồng bằng, chia cắt chiến lược giữa Huế và Đà Nẵng, cho phép sử dụng xe tăng và
pháo lớn để tăng thêm sức đột kích, nâng cao tốc độ tấn công. Tướng Giáp phê
bình Tướng Lê Trọng Tấn khi ông định lập kế hoạch trong vòng năm ngày, trong
khi theo Tướng Giáp, khả năng quân đội Sài Gòn rút chạy là cao và Tướng Tấn chỉ
có ba ngày để giải quyết chiến trường Đà Nẵng.
Ngày 24-3, Bộ Chính trị và Quân ủy họp, hạ quyết tâm: “Hành động nhanh chóng táo bạo, bất ngờ
đánh cho địch không kịp trở tay, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa 1975”. Bộ
Chính trị cũng thông qua kế hoạch lập Mặt trận Quảng Đà, lấy mật danh là “Mặt
trận 475” do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm
chính ủy, Trung tá Lê Phi Long được cử làm trưởng Phòng Tác chiến cánh quân
này.
Sáng 25-3, Tướng Lê Trọng Tấn nhận những chỉ thị cuối cùng
của Tướng Giáp và ngay chiều hôm đó, ông cùng bộ phận chủ yếu của cơ quan chiến
dịch đi máy bay vào sân bay Quảng Bình, sau đó được chuyển tiếp bằng trực thăng
vào Quảng Trị. Bộ Tư lệnh 475 đến vùng núi Tây Huế và chuyển theo đường 72 ra
Động Truồi, định để chỉ huy đánh Huế, Đà Nẵng, nhưng theo ông Lê Phi Long:
“Giữa đường thì được tin quân ta đã giải phóng Huế vào chiều 25-3”. Không còn
phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn I được lệnh quay lại Quảng Trị, chuyển trục
hành quân từ Quốc lộ l sang đường Trường Sơn. Ba vạn người cùng với l.053 xe
pháo các loại, rầm rộ tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến
Đồng Xoài.
Thấy tình hình “chắc ăn”, ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị, Lê
Đức Thọ “xung phong” vào chiến trường, ông rời Hà Nội vào ngày 28-3-1975. Như
vậy, tại Bộ Chỉ huy Chiến dịch “giải phóng miền
Nam” có tới ba ủy viên Bộ Chính trị: Lê Đức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến
Dũng. Ngày 14-4-1975, Bộ Chỉ huy Chiến dịch điện ra Hà Nội đề nghị đặt tên
chiến dịch: Hồ Chí Minh. Một tuần trước đó, ngày 7-4, Tướng Giáp đã lệnh cho
“Cánh quân Duyên Hải”263 phải “thần tốc
và táo bạo”264 còn Tướng Lê Trọng Tấn
thì khi ấy cũng đã chuẩn bị mọi mặt để thắng trong “trận cuối cùng”.
Theo kế hoạch, ngày 27-4-1975 các hướng sẽ bắt đầu tiến đánh
để ngày 29-4-1975, cả “Năm cánh quân” đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên,
theo Tướng Lê Hữu Đức, tối 24-4 265, Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải, Tướng Lê
Trọng Tấn đã điện ra xin cho Quân đoàn II và Quân đoàn IV tiến công vào lúc 17
giờ ngày 26-4, vì nếu ngày 27 mới bắt đầu như các cánh quân khác thì sẽ không
kịp “cùng lúc nổ súng”. Cánh quân Duyên Hải lúc đó còn phải vượt qua hai con
sông lớn: sông Đồng Nai và sông Sài Gòn.
Đọc bức điện khi đêm đã khuya vì vừa phải lần lượt đến tận
nhà riêng của các vị Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng báo cáo, nhưng thấy
tình hình khẩn cấp, Tướng Đức quyết định đánh thức Tướng Giáp. Xem xong bức
điện, Tướng Giáp đồng ý ngay với Tướng Tấn. Tuy nhiên, rất thận trọng, ông đã
cùng với cục trưởng Tác chiến mang bản đồ đến nhà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn.
Sau khi để Tướng Đức đọc bức điện của Tướng Tấn xong, Võ
Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh Ba cho đánh theo điện báo cáo của Tấn”. Theo ông
Lê Hữu Đức: Anh Ba nói ngay: “Đánh, đánh, cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ
nhau nữa.
Lúc này cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển”. Anh Văn
hỏi thêm anh Ba: “Điện trả lời ký tên anh chứ?” 266. Anh Ba nói: “Không, anh là
tổng tư lệnh, cứ ký tên anh thôi”. Sau một thoáng suy nghĩ, anh Ba nói thêm:
“Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được, hoặc nói rõ đã trao đổi với anh Ba và anh
Ba hoàn toàn đồng ý”267. Cũng trong ngày 24-4, Tướng Tấn cử Trưởng phòng Tác
chiến Cánh quân phía Đông Lê Phi Long trực tiếp đến Sở Chỉ huy Chiến dịch và
Tướng Dũng cũng đồng ý để Cánh quân phía Đông đánh trước.
Ngày 30-4-1975, 10 giờ 50, Cục II báo cáo Tổng Hành dinh:
“Quân ta đã vào dinh Tổng thống Ngụy”; 11 giờ 30, cục phó Cơ yếu mang vào phòng
họp bức điện của Tướng Lê Trọng Tấn báo cáo, “một đơn vị thuộc Cánh quân phía
Đông đã cắm cờ trên Dinh Độc Lập”. Chiều hôm ấy, Tướng Giáp kể: “Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một
rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường như trẩy hội”.
“Thống chế đi đặt vòng”
Tháng 12-1976, tại Đại hội IV, tuy vẫn còn là bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, nhưng theo thứ bậc mới trong Bộ Chính trị, Tướng Giáp bị xếp sau Lê
Đức Thọ. Năm 1977, Tướng Giáp thôi chức bí thư Quân ủy Trung ương, theo Điều lệ
mới, chức vụ này sẽ thuộc về tổng bí thư. Năm 1980, ông phải giao chức bộ
trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Văn Tiến Dũng268. Trước Đại hội Đảng lần thứ V,
“Vụ án chống Đảng” tưởng đã khép lại từ năm 1967, lại được ông Lê Đức Thọ đưa
ra bàn trong Bộ Chính trị.
Trong buổi Bộ Chính trị họp nghe “Vụ án chống Đảng”, theo
ông Võ Văn Kiệt 269: “Anh Thọ cũng đưa ra những thông tin như Trần Quỳnh 270 kể
nhưng anh Giáp bác bỏ. Tuy nhiên, anh Thọ vẫn kết luận. Bộ Chính trị không có
cơ sở gì để quyết khác với những điều anh Thọ nói. Anh Lê Duẩn không nói gì,
anh Phạm Văn Đồng không nói gì. Có thể có những ủy viên Bộ Chính trị biết vấn
đề anh Giáp nhưng tôi thì không biết”.
Về sau ông Kiệt chất vấn ông Phạm Văn Đồng: “Anh hiểu anh
Giáp, anh có tiếng nói trong Bộ Chính trị, đó là cái gì?”. Ông Đồng chỉ nói:
“Tôi cũng biết uy tín anh Giáp trong dân”, rồi cười. Ông Kiệt nói: “Uy tín
trong dân của một con người là không thể xem thường. Nếu khai thác được uy tín
đó của anh Giáp thì sẽ có lợi cho dân cho nước. Tôi không đồng tình với cách cư
xử của một số anh với anh Giáp. Tôi kính trọng sức kiềm chế của anh. Đó cũng là
bản lĩnh, nghị lực của một nhân vật lớn”.
Theo Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể ông Lê Duẩn, một hôm ông
Giáp gọi điện thoại kêu ông Đại tới nhà, ông Đại nói: “Ông Giáp hẹn tôi 13 giờ,
nhưng 15 giờ tôi mới đến. Gặp, ông bảo là đã chờ tôi lâu lắm rồi. Ông khoác vai
tôi rồi nói: Đại đưa hộ thư này trực tiếp tới anh Ba giúp nhé. Té ra chiều hôm
đó có cuộc họp bàn về vấn đề của Tướng Giáp. Tối tôi đưa thư cho ba tôi, ông
nói: tào lao”. Ông Hồ Ngọc Đại kể tiếp: “Có lần, tôi sang nhà số 2 Nguyễn Cảnh
Chân chúc Tết Lê Đức Thọ. Tới nơi, tôi thấy ông Giáp cũng vừa đến. Từ trong nhà
ra, ông Thọ đi qua trước mặt mà không thèm chào ông Giáp một câu, bước đến ôm
lấy tôi. Có lần ông Thọ nói ông còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”.
Tại Đại hội V, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc
Hoàn, Lê Văn Lương và Nguyễn Văn Linh được đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Ông Hoàng
Tùng cho rằng: “Lê Đức Thọ phải đưa cùng lúc năm người ra khỏi Bộ Chính trị để
khỏi mang tiếng nhưng thực chất của việc thay đổi này là nhằm vào ông Giáp”.
Tuy nhiên, theo ông Hoàng Tùng: “Trước đó, cả ông Thọ và ông Lê Duẩn đều nhiều
lần công khai đánh giá thấp khả năng, kể cả khả năng cầm quân, của Tướng Giáp”.
Năm 1983, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao kiêm nhiệm chức
chủ tịch Ủy ban Quốc gia về sinh đẻ có kế hoạch trong khi Tố Hữu vào Bộ Chính
trị giữ chức phó thủ tướng thường trực. Dân gian truyền nhau: “Nhà thơ làm kinh
tế/ Thống chế đi đặt vòng”.
Năm 1984, Nhà nước tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm “30 năm
chiến thắng Điện Biên Phủ”, báo chí đăng hàng loạt hồi ký, bài viết của cả
người Việt và người Pháp. Các bài viết đăng trên báo Nhân Dân từ tháng 3 đến
tháng 5-1984, trong khi nói rất kỹ về Henri Navarre và Christian de Castries,
đã không hề nhắc tên Võ Nguyên Giáp, vị tư lệnh chiến dịch đã đánh bại hai viên
tướng Pháp này.
Ngày 7-5-1984, đúng ngày kỷ niệm chiến thắng, báo Nhân Dân
đăng trên trang nhất bức ảnh chụp Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp,
nhưng thay vì nêu tên từng cá nhân, Nhân Dân chỉ chú thích: “Bộ Chính trị Trung
ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông-Xuân 1953-1954”. Các bài viết
trên tờ Quân Đội Nhân Dân cũng không có tên “Võ Nguyên Giáp”.
Theo Đại tá Nguyễn Văn Huyên, khi Đại tướng Hoàng Văn Thái
công bố hồi ký Điện Biên Phủ-Chiến Dịch Lịch Sử, đăng nhiều kỳ trên báo Quân
Đội Nhân Dân, trong mấy kỳ đầu, tờ báo này đã tự ý cắt bỏ tên của Tướng Giáp.
Khi có sự kiện bắt buộc phải nhắc đến vai trò của ông, báo Quân Đội Nhân Dân
bèn gọi theo chức vụ “tổng tư lệnh” hoặc “bí thư Tổng Quân ủy” thay vì gọi “Đại
tướng Võ Nguyên Giáp” hoặc “anh Văn” thân mật. Tướng Hoàng Văn Thái nổi giận
đòi ngưng, tên của Tướng Giáp thỉnh thoảng mới xuất hiện trở lại trên tờ Quân
Đội Nhân Dân trong hồi ký của ông Hoàng Văn Thái.
Tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân trong hai ngày 7 và
8-5-1984 đã dành gần như toàn bộ 4 trang A3 để nói về Điện Biên. Nhưng, trong
xã luận, trong các bài diễn văn đã không hề có tên Tướng Giáp. Trên số báo ra
ngày 8-5-1985, hai tờ Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân cùng đưa tin về lễ “Mít
tinh trọng thể kỷ niệm lần thứ 30 chiến thắng Điện Biên Phủ” tổ chức tại Hà Nội
vào chiều 7-5, cùng nhắc tới Võ Nguyên Giáp trong danh sách “Đoàn Chủ tịch cuộc
mít tinh”, nhưng chỉ bằng một cái tên trống không - xếp sau Phạm Hùng, Văn Tiến
Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Hữu Thọ - không “đại tướng”
và không nói gì tới vai trò của ông trong “chiến thắng” mà
“cả nước” đang “nức lòng ca ngợi” ấy271.
Trong khi đó, báo chí đầu thập niên 1980 lại đăng dồn dập
nhiều loạt bài mô tả vai trò của Bí thư Lê Duẩn như là một “tổng tư lệnh trên
thực tế” của cuộc “kháng chiến chống Mỹ”272. Trong loạt bài Thời Thắng Mỹ, Thép
Mới dẫn lời Lê Đức Thọ kể chuyện năm 1955, Lê Duẩn đã tiên tri cuộc chia tay
Bắc-Nam sẽ kéo dài hai mươi năm273. Cũng trong loạt bài này, Lê Duẩn được mô tả
như là một người đề xuất hầu hết các chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Bác là người đầu tiên tán đồng những ý kiến đề xuất của anh Ba trước Bộ Chính
trị, ngay sau khi anh ra Bắc”274. Theo Thép Mới thì: “Sự vĩ đại của Bác Hồ là
lắng nghe” anh Ba và sau khi nghe, Bác bảo với anh: “Chú nói đúng”275.
Tháng 3-1985, Tướng Giáp, lúc này đã không còn chức bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, vào Huế dự lễ mừng “10 năm giải phóng”. Cùng đi với ông
có Tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu trưởng và Tướng Lê Phi Long. Họ được đón
tiếp khá nồng hậu và được bố trí nghỉ tại khu nhà nghỉ xưa kia của Ngô Đình
Cẩn.
Tướng Lê Phi Long kể: “Anh Văn gọi tôi tới cùng đi dạo chơi
quanh vườn và nói: ‘Lâu nay các cậu có nghe người ta nói gì không?’. Tôi trả
lời. Anh bảo: ‘Sao không thấy nói lại! Trong tình hình phức tạp hiện nay, con
người ta có thể bị phân hóa thành ba thái độ: một là thẳng thắn đấu tranh bảo
vệ sự thật, chân lý; hai là trong khi chưa có điều kiện nói ra sự thật thì ngồi
yên kiên trì chờ đợi; ba là cơ hội, xuyên tạc, sẵn sàng đổi trắng thay đen, bóp
méo sự thật. Các cậu có đủ dũng khí thì theo cách một, chưa có điều kiện thì
chọn cách hai, còn cách ba, thì phải tuyệt đối tránh”.
Hôm sau, đoàn của Tướng Giáp vào Đà Nẵng bằng đường bộ. Trên
đèo Hải Vân, khác với không khí nồng hậu mà Huế dành cho Đại tướng, Đà Nẵng chỉ
cử một tỉnh ủy viên trẻ măng, vô danh ra đón, không có đại diện Quân khu, Tỉnh
đội. Tướng Lê Phi Long nhớ lại: “Chúng tôi rất bực mình, nhưng anh Văn vẫn bình
thản”.
Đêm ấy, đoàn nghỉ ở nhà khách Mỹ Khê, sáng hôm sau, theo
chương trình, sẽ đến đặt vòng hoa tại đài liệt sỹ trước khi dự lễ mừng chiến
thắng. Nhưng đợi mãi, không thấy ai phát thư mời và phù hiệu cho đoàn của “anh
Văn”. Các sỹ quan đi cùng hỏi thì được trả lời: “Ai không có giấy thì coi như
không được mời”.
Lễ mừng Chiến thắng Đà Nẵng năm ấy được tổ chức trọng thể vì
có Tổng Bí thư Lê Duẩn tới dự. Tướng Lê Phi Long kể: “Chúng tôi rất băn khoăn,
liền xin ý kiến của anh Tấn và anh Văn”. Trong đoàn có ý kiến đề nghị thôi
không dự lễ nữa. Tướng Giáp suy nghĩ rất lâu rồi nhẹ nhàng nói: “Chúng ta vào
đây không phải vì lễ lạt mà còn để viếng những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống
trên mảnh đất này. Đã tổ chức viếng thì phải tổ chức trang trọng, chu đáo theo
đúng nghi thức quân đội”.
Lập tức, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân khu
V tổ chức một lễ viếng riêng có đủ tiêu binh, quân nhạc và đích thân một vị
trong Bộ Tư lệnh phải tháp tùng. Sáng hôm sau, xung quanh đài liệt sỹ, dân chúng
kéo đến rất đông. Những người dân ấy không phải đến vì được triệu tập mà đến để
nhìn Tướng Giáp.
Trong lễ “kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam” tổ chức tại Hà Nội vào ngày
30-4-1985. Võ Nguyễn Giáp vẫn được ngồi trên “Đoàn Chủ tịch”, nhưng trong danh sách
mà báo Nhân Dân ngày 1-5-1985 đăng, ông được xếp đứng sau chín người, trong đó
có nhiều người từng là cấp dưới của ông trong chiến tranh như Văn Tiến Dũng, Võ
Chí Công, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Nguyễn Cơ Thạch,… Đây là thứ bậc dựa trên chức
vụ trong Đảng mà ông nắm giữ trong thời điểm 1985. Tên ông chỉ được đặt bên
cạnh hai chức danh: ủy viên Trung ương Đảng, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ sau khi Tướng Giáp rời khỏi Bộ Quốc phòng, báo chí nhà
nước không bao giờ gọi ông là “đại tướng”. Nhưng, cũng trong suốt thời gian ấy,
Võ Nguyên Giáp gần như rất ít khi rời khỏi bộ quân phục của mình. Trong những
chuyến công du hiếm hoi mà ông được cử, Võ Nguyên Giáp luôn mặc bộ lễ phục cấp
tướng sang trọng màu trắng.
Ông vẫn sống trong biệt
thự 30 Hoàng Diệu. Quân đội, ngay
cả trong thời kỳ Lê Đức Anh làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng, vẫn giữ lực lượng vệ
binh gác nhà ông. Nhưng, cao hơn cả mọi nghi lễ là sự ngưỡng mộ mà các tướng
lĩnh, quân đội, dân chúng dành cho ông. Tên tuổi Tướng Giáp càng bị biên tập
khỏi các trang báo Nhân Dân thì nhân dân lại càng nhắc đến ông trong đời thường
của họ. Là một ông thầy dạy sử, có lẽ Tướng Giáp biết được vị trí trong lịch sử
của mình. Ông đã đi qua những tháng ngày bị xếp xuống hàng cuối cùng trên những
khán đài, lặng lẽ và sừng sững.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991, Tướng Giáp chính
thức rời khỏi chính trường. Cho dù vụ “Năm Châu-Sáu Sứ”, theo ông Võ Viết
Thanh, chỉ là một vụ án được dựng lên, Bộ Chính trị đã chưa một lần minh oan
như ông đề nghị. Mãi tới năm 1994, trong lễ “kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện
Biên Phủ”, tên tuổi của ông mới chính thức được nhắc lại trong một “diễn văn
nhà nước”. Đó là bài diễn văn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc vào tối 6-5-1994:
“Xin chào mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thời đó là tổng tư lệnh Chiến dịch
Điện Biên Phủ, người đã chấp hành triệt để và sáng tạo quyết định của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch, chỉ đạo trận quyết
chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành toàn thắng”. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại:
“Trước đó, khi Bộ trưởng Quốc phòng Đoàn Khuê lên Điện Biên Phủ kỷ niệm 40 năm,
diễn văn của Đoàn Khuê không hề nhắc một câu tới anh Giáp”.
Cho dù trong bài diễn văn được viết công thức và rào đón của
ông Kiệt, phần nói về Tướng Giáp vỏn vẹn chỉ có năm mươi chín từ, nhưng chỉ cần
cái tên Tướng Giáp được xướng lên cũng đủ làm cho Cung Văn hóa Việt-Xô òa vỡ.
Thật khó biết điều gì đang diễn ra trong lòng Tướng Giáp, từ lâu ông đã có một
gương mặt rất ít biểu lộ. Nhưng những giọt nước mắt của những người có mặt hôm
ấy thì không thể kềm chế, chúng lăn rất nhanh trên má họ; trong khi, tiếng vỗ
tay kéo dài.
Phần IV: Tam nhân
Chương XVI: Thị trường
Ngày 28-4-1989, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ
Thạch cùng với Bộ trưởng Thương mại “hai nước anh em”, Lào và Campuchia, đến
Bangkok dự Hội thảo “Đông Dương: từ chiến trường chuyển sang thị trường”276. Ở
trong nước, từ các nhà lãnh đạo vĩ mô, các trường đại học, cho đến từng cơ sở
kinh doanh, bắt đầu tìm kiếm tài liệu để chuẩn bị sự hiểu biết cho thời kỳ
chuyển đổi. Cho dù những trải nghiệm ban đầu bao gồm cả những đổ vỡ, nhưng
những gì mà kinh tế thị trường kiến tạo đã làm thay đổi đến từng ngóc ngách đời
sống và toàn bộ bộ mặt xã hội Việt Nam.
Tái lập hòa bình
Người Thái, Malaysia
và Singapore cũng
đã từng có lợi
ích khi cung cấp
hậu cần cho Chính phủ Liên
hiệp 3 phái Campuchia chống Việt
Nam. Tuy nhiên, một Đông Dương đối đầu không phải là lựa chọn của các quốc gia
lân cận. Không chỉ có nguy
cơ chiến sự,
từ cuối thập
niên 1970, người
tị nạn Việt Nam tràn ngập
Thái Lan, Malaysia,
Indonesia, Philippines…
Ông Võ Văn Kiệt kể: “Năm 1987, khi tôi thăm chính thức
Malaysia277, Thủ tướng Mahathir đã tiếp với thái độ rất giận dữ. Ba lần ông lớn
tiếng khẩn thiết đề nghị Việt Nam
phải giải quyết dứt điểm vấn đề người tị nạn. Tôi đợi ông dứt lời rồi nói rằng
chúng tôi cũng đau lắm. Chúng tôi chiến đấu với niềm tin là để giành độc lập.
Khi chiến tranh kết thúc, có độc lập, mà người Việt không thể ngồi lại với
nhau, người Việt vẫn bỏ nước ra đi, thì nỗi đau ấy còn ghê gớm hơn sự chia rẽ
của chiến tranh”.
Khi ấy, đang có 282.000 thuyền nhân Việt Nam ở Malaysia nơi tổ chức cộng sản chịu
ảnh hưởng của Bắc Kinh đang làm loạn. Đại sứ Việt Nam
tại Indonesia và Malaysia, ông Trần Huy Chương, thừa nhận: “Chính
quyền Malaysia lo sợ cộng
sản Việt Nam
trà trộn trong những người Việt tị nạn móc nối với lực lượng cộng sản theo Mao
đang hoạt động trên đất nước họ”.
Tháng 2-1990, khi đến Davos, Thụy Sỹ, dự Diễn đàn Kinh tế
Thế giới, ông Kiệt ngạc nhiên thấy sự phồn vinh của một quốc gia phương Tây.
Ông thừa nhận, trước đây khi đến Liên Xô và các nước Đông Âu, thấy sự phát
triển của họ, ông đã tưởng như đó là ước mơ của mình. Nhưng Thụy Sỹ so với Đông
Âu hay Liên Xô mà ông biết chỉ là một trời, một vực. Ông hỏi người phiên dịch, bà
Tôn Nữ Thị Ninh: “Điều gì giúp họ giàu có thế?”. Bà Ninh nói: “Thưa anh, đấy là
ân huệ của hòa bình”.
Năm 1991, các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam như Đỗ Mười, Lê
Đức Anh, Võ Văn Kiệt đều thống nhất với nhau, cho dù quá khứ thế nào thì Việt
Nam vẫn phải làm bạn với ASEAN. Ngày 28-10-1991, trong cuộc hội đàm tại Bangkok
với Thủ tướng Thái Lan Anand Panyarachun, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn
Kiệt hoàn toàn chia sẻ với người Thái ý tưởng “biến Đông Dương thành một thị
trường”278. Khi Đông Dương vẫn còn là một chiến trường thì không chỉ có Việt Nam mà
các quốc gia lân bang cũng không thể nào hưởng “ân huệ hòa bình” trọn vẹn.
Trong khi Hà Nội có nhiều nỗ lực để bình thường hóa quan hệ
với các quốc gia, nhiều tổ chức, cá nhân cũng tích cực nhắc nhở Hà Nội và cộng
đồng quốc tế quan tâm tới số phận của những quan chức Việt Nam Cộng hòa đang bị
cải tạo trong các trại. Năm 1977, ở Mỹ, bà Khúc Minh Thơ lập “Hội Gia đình tù
chính trị Việt Nam”.
Chồng bà Thơ, Đại tá Nguyễn Văn Bê, lúc ấy đang ở trong trại cải tạo. Hội của
bà Thơ đã vận động giới lập pháp, hành pháp Hoa Kỳ, vận động Tổng Thư ký Liên
Hiệp Quốc và cả Đức Giáo hoàng, gây sức ép để Việt Nam thả chồng con của họ. Số
phận những người đã từng làm việc cho đồng minh Mỹ ở Sài Gòn bắt đầu được mặc
cả trên bàn đàm phán279.
Tại một cuộc họp của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam,
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã đưa vấn đề giam giữ quá lâu những người một thời là
đồng đội của ông ra chất vấn. Theo Tướng Hạnh thì Chủ tịch Mặt trận lúc ấy là
ông Nguyễn Hữu Thọ, sau đó đã gặp riêng, đề nghị ông chuyển ý kiến “phát biểu
miệng” ấy thành một tham luận đọc trong Đại hội lần thứ III của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, diễn ra tại Hà Nội năm 1988.
Cho dù được Cách mạng “móc nối” rất sớm, Tướng Hạnh đã khôn
ngoan né tránh việc “ra bưng làm ngọn cờ” khi mà cuộc chiến chưa ngã ngũ. Vào
ngày 27-4-1975, Sài Gòn đã bị bao vây bởi “năm cánh quân”, ông mới vội vã lên
Sài Gòn làm điều mà ông tự mô tả là tác động để Tổng thống Dương Văn Minh sớm
đi đến quyết định đầu hàng. Năm 1975, trong khi, biết bao sỹ quan, binh lính
Sài Gòn phải đi cải tạo, phải mất vợ, mất nhà, ông Hạnh được Chính quyền mới
cấp cho một căn biệt thự ở quận Nhất, thay thế căn nhà của ông ở Thủ Đức đã bị
“Cách mạng 30-4 tiếp quản”. Được lời của ông Nguyễn Hữu Thọ, Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh lại “chớp thời cơ”, ghi chút ít công lao với những đồng đội cũ.
Sau khi cho rằng “nhiệm vụ Đại đoàn kết toàn dân để xây dựng
đất nước là một vấn đề bức thiết”, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc lại sự kiện ngày
2-5-1975, tại dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần Văn Trà nói với ông Dương Văn
Minh: “ Giữa chúng ta không có kẻ thắng người thua chỉ có dân tộc Việt Nam
thắng Mỹ”. Theo Tướng Hạnh, các gia đình miền Nam nghe “câu nói hết sức thâm
tình” ấy đã “động viên chồng con đi trình diện học tập”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh
nói tiếp: “Trong những ngày sau đó, Chủ tịch Huỳnh Tấn Phát với danh nghĩa Thủ
tướng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã phổ biến một
văn kiện trong đó qui định thời gian đi học tập, lâu nhất là ba năm. Các trại
cải tạo đã cho học tập văn kiện này và anh em vui mừng đón nhận nó”280. Nhưng,
đến năm 1989, nhiều tướng lĩnh, sỹ quan, viên chức Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị
Chính quyền giam giữ.
Tháng 1-1989, sau nhiều năm yêu cầu, lần đầu tiên Hội Chữ
thập đỏ Quốc tế được gửi quà từ Mỹ tới các trại giam ở Việt Nam. Tháng 4-1989,
một phái đoàn ngoại giao Mỹ đã đến Hà Nội thảo luận về vấn đề ODP, vấn đề “Con
lai” và “Tù cải tạo”. Ngày 30-7-1989, tại Hà Nội, Phụ tá Thứ trưởng Ngoại giao
Mỹ, Robert Funseth, và Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan ký thỏa hiệp về
việc “Định cư tại Mỹ những người tù cải tạo”.
Cũng trong thời gian ấy, ở Sài Gòn, dọc theo đường Lê Duẩn,
đặc biệt là phần công viên kéo dài từ Nhà thờ Đức Bà tới Dinh Độc Lập, tràn
ngập những người vừa từ các trại cải tạo trở về mà chưa biết làm gì. Họ đứng đó
để hóng hớt chút ít thông tin rò rỉ ra từ Sở Ngoại vụ về các chương trình đi
định cư ở Mỹ.
Ngày 13-1-1990, 55 người Việt đầu tiên được xuất cảnh theo
chương trình HO. Tới cuối năm 1992, khoảng 380.000 người Việt Nam đã đến Mỹ
bằng đường hàng không theo diện HO, ODP, RD và theo diện con lai Mỹ. Trước năm
1975, cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 200.000 người, trong đó, khoảng
40.000 người do người Pháp đưa đi kể từ Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Ở
thời điểm 30-4-1975, gần 140.000 người được đưa tới Mỹ; 52.000 người khác được
đưa sang Pháp; 7.000 người tới Canada;
2.700 người tới Úc… Cộng đồng người Việt, những năm sau đó đã tăng lên con số
triệu, chủ yếu rời Việt Nam
bằng vượt biên.
Trong khi, nhiều người trong nước vẫn mong mỏi thoát ra,
nhất là gia đình của những người vừa được tha từ các trại cải tạo, thì sự trở
về thăm quê của hàng nghìn Việt kiều cũng có thể coi như những chỉ dấu hòa
bình.
Tết Kỷ Tỵ 1989, có hơn 5.000 Việt kiều về Việt Nam.
Việt kiều về quê làm cho lượng khách quốc tế tăng đột biến đến mức nhiều người
phải đợi hết tháng 3-1989 mới có vé máy bay đi từ Tân Sơn Nhất. Sáu tháng đầu
năm 1989, con số Việt kiều về nước lên tới 7.500 người, bằng cả năm 1988. Một
nửa số đó về Việt Nam
từ Mỹ.
Trong Bộ Luật hình sự được Quốc hội Việt Nam thông qua năm
1985, hành vi vượt biên và tổ chức vượt biên bị xếp vào hàng “các tội xâm phạm
an ninh quốc gia”, thậm chí có thể bị coi là “chống lại chính quyền nhân dân”.
Năm 1989, cũng những người Việt ấy từ Mỹ, từ Úc trở về được coi là “Việt kiều
yêu nước”.
Một trong số đó là ông Nguyễn Thanh Hoàng, người vượt biên
năm 1980 khi đang làm cho Bộ Xây dựng. Năm 1989, vài người bạn của ông lúc bấy
giờ đã là quan chức trong Bộ sang Úc công tác khuyên ông về. Ông Hoàng nói:
“Năm 1990, tôi quyết định về thăm nhà. Khi đó, tôi vẫn còn nhiều mặc cảm, không
ngờ ở sân bay, những người bạn của tôi, giờ đó đang giữ những chức vụ quan
trọng trong chính quyền đưa xe ra tận sân bay đón”.
Ở nhiều địa phương, trong khi ngoài cửa sông, công an vẫn
vây bắt vượt biên, trong trụ sở hoặc trong nhà hàng, chính quyền làm tiệc đãi
“Việt kiều yêu nước”. Không cần rút ra những tờ đôla xanh, hình ảnh những Việt
kiều ăn mặc bảnh bao, hồng hào, trở nên nổi bật giữa những người Việt đồng
hương ốm yếu, xanh xao và ít nhiều mặc cảm. Trước “nhân tình, thế thái” ấy, dân
gian có thơ rằng: “ Việt Minh, Việt Cộng, Việt kiều, trong ba Việt ấy, Đảng yêu
Việt nào/ Việt Minh tuổi đã hơi cao/ Việt Cộng ốm yếu xanh xao, gầy mòn/ Việt kiều tuổi hãy còn son/ Đảng yêu đảng quý như
con trong nhà…”281.
Không chỉ cụng ly với những người vượt biên, con gái Thượng
tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, chị Nguyễn Xuân Hồng, đã
kết hôn với một người vượt biên, anh Nguyễn Thanh Hoàng vào cuối năm 1991.
Nguyễn Thanh Hoàng là người vượt biên đến Úc năm 1980. Không
như hàng ngàn Việt kiều khác chỉ trở lại thăm quê rồi đi, Nguyễn Thanh Hoàng đã
mang về các nhà đầu tư người Úc. Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua
từ tháng 12-1987, nhưng gần như rất ít được chú ý trong những năm cuối thập
niên 1980. Phải đến khi những chính sách đổi mới được trình bày rõ ràng hơn và
phải đến khi những người vượt biên dám trở về, đầu tư nước ngoài mới bắt đầu
khởi động.
Một cải cách về thủ tục visa do Bộ Nội vụ chủ trương lúc đó
cũng đã thúc đẩy nhanh thêm tiến trình mở cửa của Việt Nam. Cho tới
năm 1988, một người Việt Nam muốn đi xuất cảnh, phải trải qua một quy trình xin
phép: nộp hồ sơ, đơn xin ở xã, phường; đợi xã, phường đưa lên quận, huyện; chờ
quận, huyện chuyển lên công an tỉnh, thành; tỉnh, thành chuyển lên Tổng cục An
ninh; Tổng cục An ninh phải trình lãnh đạo Bộ. Qua rất nhiều thủ tục và không
thể biết rõ mất bao nhiêu thời gian, người ra đi mòn mỏi chờ thủ tục.
Công an và những người làm các dịch vụ liên quan như du
lịch, hàng không giàu lên nhờ sự nhờ vả và đặc biệt, nhờ biết trước các đối
tượng được phép xuất cảnh để từ đó mua lại nhà của họ với giá bán đổ, bán tháo.
Trong khi đó, người nước ngoài và Việt kiều từ các nước không có cơ quan ngoại
giao Việt Nam
muốn về nước phải nằm chờ ở Thái Lan xin visa. Các quan chức cấp visa ở Bangkok
trở nên hết sức quan cách trong giai đoạn này và đặc biệt, ngành du lịch Thái
giàu lên nhờ một lượng lớn Việt kiều phải nằm chờ quá lâu ở Bangkok.
Ông Võ Viết Thanh nói: “Tôi nghĩ, tại sao Bộ Nội vụ lại mất
công đi thẩm tra lý lịch, xét duyệt những người muốn đi xuất cảnh. Nếu đó là
những người chống đối thì việc họ ở lại Việt Nam lại khiến cho mình khó xử hơn
là để họ đi ra nước ngoài”. Ông Thanh gặp Bộ trưởng Mai Chí Thọ đề nghị: Ai
muốn xuất cảnh thì cho họ làm hộ chiếu phổ thông và tự liên hệ xin visa. Nếu họ
đến những quốc gia chưa có quan hệ ngoại giao thì Bộ Nội vụ và Ngoại giao sẽ tổ
chức các trung tâm dịch vụ xuất nhập cảnh để xin visa cho họ. Với những người
đến Việt Nam từ các nước
chưa có cơ quan lãnh sự Việt Nam
cũng sẽ được xin visa tại các sân bay quốc tế. Bộ trưởng Mai Chí Thọ gật đầu.
Ông Võ Văn Kiệt đồng ý ngay. Ông Kiệt khi ấy đang tạm Quyền
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đề nghị ông Thanh trao đổi thêm với Phó Chủ tịch
kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Ông Thạch nghe ông Thanh trình bày
thì thở phào: “Tôi làm ngoại giao đã lâu mà chưa bao giờ nhận được một đề nghị
mở ra như thế này từ phía An ninh”.
Từ giữa năm 1988, những người nằm trong diện được bảo lãnh
hoặc được ra đi theo các chương trình HO, ODP… bắt đầu được làm passport. Những
người đến Việt Nam không còn
phải chờ đợi ở Bangkok
vì lý do xin visa nữa. Ngành Công an cũng thu rất lớn từ dịch vụ này: 20% để
lại cho Bộ, 80% nguồn thu nộp vào ngân sách.
Nhưng, ông Võ Viết Thanh nói: “Cục II báo cáo Bộ Chính trị:
cấp hộ chiếu phổ thông và cấp visa tại phi trường là một mắt xích nằm trong kế
hoạch diễn biến hòa bình của Mỹ”. Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà gọi ông Võ
Viết Thanh lên nói: “Đồng chí Tổng Bí thư được nghe báo cáo, chủ trương của Bộ
Công an mà anh chỉ đạo cho nhập cảnh tại phi trường và ồ ạt cấp hộ chiếu phổ
thông, trong đó có những đối tượng chính trị không tốt. Anh về báo cáo lại với
lãnh đạo Bộ, cân nhắc ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư”. Ông Võ Viết Thanh trả
lời: “Đây chỉ là đối sách chứ không phải chính sách nên chúng tôi đã không muốn
làm phiền Ban Bí thư. Vì Bộ đã ra văn bản thi hành nên nếu Tổng Bí thư chỉ thị
phải đình chỉ thì xin Văn phòng ra văn bản, chúng tôi sẽ chấp hành”. Ông Hồng Hà
không nói gì. Ông Thanh nói: “Tôi về không báo lại cho lãnh đạo Bộ vì báo cáo
chắc chắn lại có nhiều ý kiến rắc rối. Chờ, cũng không thấy Văn phòng Trung
ương ra văn bản”.
Lạm phát và Nước hoa Thanh Hương
Ở Sài Gòn, kể từ năm 1987, hàng loạt cơ sở sản xuất kinh
doanh bắt đầu lặng lẽ bung ra, những dịch vụ từng bị coi là “tàn dư của
Mỹ-Ngụy” như vũ trường Maxim, Qeenbee, Liberty… cũng được làm ăn trở lại. Liền
theo đó, các quán “bia ôm”, “xông hơi, xoa bóp” mà báo chí nói là “mãi dâm trá
hình”, lần lượt mọc lên. Sự hăm hở trở lại làm ăn của người dân đã làm thay đổi
bộ mặt đất nước, đồng thời cũng làm xuất hiện những vấn đề mà báo chí gọi là
“mặt trái của kinh tế thị trường”. Mặt trái cụ thể nhất mà người dân phải đối
diện trong giai đoạn này là những vụ đổ bể tín dụng và huê hụi.
Nền kinh tế lúc ấy vẫn tiếp tục rơi xuống đáy,
“giá-lương-tiền” vẫn là “nỗi hoảng sợ
hàng ngày” của người dân trong khi Chính phủ chỉ lấy phát hành tiền là giải
pháp cứu nền kinh tế. Bất đồng ý kiến vẫn diễn ra gay gắt giữa các chuyên gia
chống lạm phát, giữa những người ủng hộ khuynh hướng thị trường và những người
sợ hãi trước lạm phát, muốn quay lại thời quan liêu bao cấp.
Năm ấy nạn đói xảy ra. Báo cáo của Bộ trưởng Thương mại
Hoàng Minh Thắng cho thấy, tuy sản lượng lương thực có giảm, nhưng ở nhiều tỉnh
miền Nam, lúa gạo vẫn dư thừa, vấn đề là từ Nam ra Bắc khi ấy đang có hơn tám
mươi trạm kiểm soát liên tỉnh được ba mươi tám tỉnh, thành phố lập nên trên các
tuyến giáp ranh. Không chỉ ngăn cản lương thực lưu thông, các trạm kiểm soát
được thiết lập ở khắp nơi, các rào chắn được lập nên để chặn từng con gà đưa từ
làng này sang làng khác.
Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, trợ lý của ông Đỗ Mười, nhớ lại:
“Người dân không có quyền đưa một cái phích nước từ Hà Nội xuống Hải Dương”.
Theo Bộ trưởng Lê Văn Triết, câu chuyện “ông Đỗ Mười bị trạm Tân Hương, Tiền
Giang thu mười ký gạo mang theo trên xe” đã được đưa ra nói trong các cuộc họp
của Hội đồng Bộ trưởng. Trong một phiên họp có ông Đỗ Mười dự, theo ông Triết,
ông Võ Văn Kiệt kể câu chuyện: Một bà mẹ miền Tây đưa thịt heo lên cho con đang
sống ở Sài Gòn. Để tránh ngăn sông cấm chợ, thay vì đưa thịt tươi, bà đã phải
kho. Vậy mà nồi thịt kho của bà mẹ vẫn bị chặn lại. Tức quá, bà đập nồi ngay
giữa đường rồi la lên: “Tụi bây ăn đi”. Những câu chuyện có thật này đã thuyết
phục Phạm Hùng, Đỗ Mười và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Ngày 11-3-1987, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt ký Quyết định “Bãi bỏ các trạm kiểm soát
trên tất cả các tuyến giao thông trong nước”282.
Hội nghị Trung ương 2, khóa VI, ủng hộ xóa tình trạng “ngăn
sông, cấm chợ”, tuy nhiên, theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, lại “tiêu biểu cho một
bước lùi về quan điểm so với Đại hội Đảng lần thứ VI”. Mặc dù, ngày 1-4-1987,
khi khai mạc Hội nghị Trung ương 2, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã chỉ trích
những người bảo vệ quan liêu bao cấp: “Họ chỉ biết huênh hoang nói những điều
cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng, về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,
nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực tế cụ thể nào cho ra
hồn”. Nhưng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, bế mạc vào ngày 9-4-1987, vẫn
“lấy kế hoạch hóa làm trung tâm”. Khi ấy, vừa cháy kho hàng dự trữ ở Hải Phòng,
nhu yếu phẩm khan hiếm, quan điểm kiểm soát thật chặt lại càng xuất hiện. Cho
dù Hội nghị Trung ương 2 đề ra “mục tiêu bốn giảm: giảm bội chi ngân sách, giảm
tốc độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn đời sống”, trên thực tế đã trở
thành “bốn tăng”.
Ngày 17-5-1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm Liên Xô.
Sau chuyến đi này, ngày 18-6-1987, Ban Bí thư có Chỉ thị 08, đặt vấn đề: “Hợp
tác quốc tế về kinh tế, nhất là với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác,
để có thêm điều kiện góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách”. Sau
đó, đoàn chuyên gia cao cấp của Liên Xô về chống lạm phát, theo lời mời của Bộ
Chính trị Việt Nam, đến Hà Nội; trưởng đoàn là Thứ trưởng Bộ Tài chính Liên Xô
Orlov.
Cuối năm 1988, Bộ Chính trị tổ chức một cuộc họp để nghe
nhóm nghiên cứu trong nước và nhóm của chuyên gia Liên Xô trình bày phương án
của mình. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm, các chuyên gia Liên Xô, đứng đầu là Orlov,
đã yêu cầu phải “xiết lại kỷ cương giá, phát hành đồng tiền có bản vị và thu
mua phân phối thống nhất” - tức là tái lập cơ chế bao cấp. Orlov cảnh báo rằng:
“Thả nổi giá theo cơ chế thị trường là rất nguy hiểm cho chủ nghĩa xã hội”.
Nhưng, phương án của các chuyên gia Liên Xô yêu cầu phải có
500 triệu Rub hoặc USD để thu mua hàng hóa, trong khi toàn bộ ngân quỹ của Việt
Nam vào thời điểm 1987-1988 chỉ còn khoảng 20 triệu đôla. Ông Giá kể: “Khi mời
Orlov, ta cũng hy vọng có thể kéo theo được nguồn lực của Liên Xô, kể cả việc
nhờ họ in tiền giùm. Nhưng, khi chúng tôi sang đấy để nhờ in một lượng tiền
giấy mệnh giá 50 và 100 nghìn đồng nhằm phòng khi chống lạm phát thất bại thì
có sẵn tiền mệnh giá lớn lưu hành, họ lại bảo chúng tao in tiền cho mình còn
không kịp”. Theo Giáo sư Đào Xuân Sâm: “May mắn cho Việt Nam là chính Liên Xô
đã từ chối viện trợ khoản tiền mà họ nói là cần thiết để chống lạm phát, nếu
không rất có thể Việt Nam đã quay lại với thời kỳ quan liêu bao cấp”.
“Chân tường” chứ không phải “lý luận về chủ nghĩa xã hội”
quyết định sự lựa chọn lối thoát cho nền kinh tế. Ý kiến của các chuyên gia
Việt Nam bắt đầu được lắng nghe. Cùng với lực lượng hùng hậu các chuyên gia từ
Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, Ủy ban Vật giá, Ngân hàng Nhà nước và các bộ
đã được tập hợp từ trước đó, Hội đồng Bộ trưởng còn nghe các phương án được
nhóm các chuyên gia Việt kiều, đứng đầu là Tiến sỹ Vũ Quang Việt, do Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch mời. “Nhóm thứ Sáu”, do ông Võ Văn Kiệt mời, gồm các
chuyên gia và quan chức từng làm việc tại Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 như
Huỳnh Bửu Sơn, Lâm Võ Hoàng, Trần Bá Tước, Trần Trọng Thức, Phan Tường Vân,
Phan Chánh Dưỡng… Quan điểm chống lạm phát bằng “thị trường hóa, xóa định lượng”
được nhóm của Tiến sỹ Vũ Quang Việt đưa ra và được ông Nguyễn Cơ Thạch, Võ Văn
Kiệt bảo vệ một cách kiên định. Tuy nhiên, người đóng vai trò quyết định trong
việc lựa chọn giải pháp chống lạm phát vào đầu năm 1989 là ông Đỗ Mười.
Theo ông Trần Xuân Giá: “Khi còn làm thường trực Ban Bí thư,
ông Đỗ Mười đã lắng nghe các chuyên gia. Tháng 6-
1988, ngay sau khi được bầu làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
ông triệu tập tôi, Phan Diễn, lúc đó là phó Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, Hồ
Tế, thứ trưởng Bộ Tài chính trực tiếp làm việc cạnh ông như một nhóm đặc nhiệm.
Chống lạm phát là một quá trình chuẩn bị lâu dài, chúng tôi được cử đi nhiều
nước, gặp nhiều tổ chức quốc tế để tham khảo ý kiến. Thực ra, lúc đầu cũng muốn
dựa vào Liên Xô. Nhưng, chuyên gia Orlov lúc ấy cũng nói: Liên Xô chỉ có kinh
nghiệp chống lạm phát từ thập niên 1920, khi Lenin còn sống”.
Sau khi nhận ra không còn có thể trông cậy vào Liên Xô, Việt
Nam bắt đầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nước phương Tây và các tổ chức như Ngân
hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nhưng, theo ông Trần Xuân Giá: “Cũng không
thể học phương Tây vì giải pháp mà họ đưa ra không có cách nào thực hiện được.
Người Đức đề nghị phải phá giá đồng Việt Nam từ 2.800 đồng/USD xuống
còn 20.000 đồng/USD. Giải pháp
của Ngân hàng Thế giới cũng
đề nghị
phá giá tới 16.000 đồng/USD. Để thực hiện theo các
phương án này cần có năm tỷ USD trong khi ngân sách quốc gia gần như trống
rỗng”. Tình thế bắt buộc phải tự dựa vào chính bản thân mình.
Một trong những chuyên gia chống lạm phát giai đoạn này,
Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, kể: “Ông Đỗ Mười là con người hành động, khi đó ông
chưa chú ý lắm tới lý luận. Nhờ thế, ông vượt qua mặc cảm khi chọn một phương
án bị chỉ trích là không chủ nghĩa xã hội. Ông Mười cũng tập hợp các chuyên
gia, ông nói với chúng tôi: ‘Thôi nhé, nghe quan chức mãi rồi mà không
có lối ra, các anh mời cho
tôi các nhà khoa học’. Một
nhóm hai mươi
người gồm Chế
Viết Tấn, Trần Đức Nguyên, Đào
Xuân Sâm, Võ Đại Lược, Hà Nghiệp, Lê Đức Thúy, Nguyễn Văn Nam… được hình thành.
Ông ngồi hai ngày với chúng tôi. Chúng tôi thì nhất quyết thuyết phục ông rằng
giải pháp để chống lạm phát mà các chuyên gia Việt Nam đưa ra là dựa trên chính
sách kinh tế mới của Lenin. Đã là của Lenin thì ông Đỗ Mười tin tưởng”. Theo
ông Trần Xuân Giá, những ngày ấy đi đâu ông Đỗ Mười cũng nói đi nói lại: “Lạm
phát, nói nôm na một câu là in tiền nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”. Rồi
ông giải thích: “Tôi già rồi, vừa làm vừa học, phải nói ra miệng thì mới nhớ
được”.
Trên cơ sở nghiên cứu của các chuyên gia Việt Nam, một
phương án đã được chấp bút bởi ông Lê Đức Thúy, theo đó: Đình chỉ in tiền, các
ngân hàng bắt đầu phải vay lấy mà cho vay, ngân sách phải thu lấy mà chi chứ
không còn dựa vào việc phát hành tiền nữa. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm được
nâng lên 12% theo lý thuyết “cưỡi sóng”, cao hơn mức lạm phát
10-11%/ tháng. Nâng giá đôla bằng thị trường tự do 5.000
đồng/USD. Cho kinh doanh vàng bạc tự do. Tháo khoán cho hàng phi mậu dịch,
người Việt Nam đi nước ngoài được mang hàng về thoải mái (trước đó mỗi người
chỉ được mang một tủ lạnh, hai nồi áp suất, hai bàn là…). Phương án này không
dễ tìm được sự đồng tình, ngay cả với một người trong nhóm đặc nhiệm là ông
Trần Xuân Giá.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam: “Ông Thúy mang phương án này
sang trình bày bên Vật giá, Ngân hàng, liền bị hai cơ quan này phản đối. Ông Võ
Đại Lược sang trình bày bên Bộ Tài chính, cũng bị các chuyên gia bên Bộ Tài
chính cười nhạo. Đưa ra Hội nghị Trung ương, ông Nguyễn Văn Linh không ủng hộ
“nghị quyết hóa”. Hà Nghiệp dự thảo một nghị quyết khác để Bộ Chính trị thông
qua, ông Linh cũng bảo không cần. Nhưng ông Đỗ Mười vẫn quyết định. Đầu tiên,
ông cho làm thí điểm ở Hải Phòng. Thí điểm thành công, ngày 16-3-1989, mới công
bố cho áp dụng trên cả nước”.
Ngày 20-3-1989, Trung ương Đảng họp kỳ thứ 6 tại Thành phố
Hồ Chí Minh. Trung ương đồng ý với cơ chế một giá nhưng vẫn dè dặt đòi để Nhà
nước định giá những vật tư quan trọng. Ba tháng sau, lạm phát giảm thấy rõ:
ngày 1-6-
1989, Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất có kỳ hạn ba tháng từ
12% xuống còn 9%; ngày 1-7-1989, hạ tiếp còn 7%/ tháng; lạm phát những tháng
cuối năm 1989 chỉ còn 2,4%/tháng. Ngày 30-6-1989, trong phiên họp bế mạc Kỳ họp
thứ 5, Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị quyết: “Nhất trí xóa bỏ quan liêu bao
cấp, không vì khó khăn mà quay lại cơ chế cũ”.
Cũng trong thời gian ấy, tác dụng nhanh chóng của chính sách
“Khoán 10” trong nông nghiệp, làm cho nông dân phấn khởi, lương thực thực phẩm
bắt đầu có dư thừa cũng đã giúp cho Hội đồng Bộ trưởng và ông Đỗ Mười tự tin
hơn khi quyết định xóa bao cấp và cho tự do lưu thông để chống lạm phát.
Nguyên tắc lãi suất huy động vốn cao hơn tỷ lệ mất giá của
đồng bạc đã giúp Chính phủ chống lạm phát thành công. Nhưng, các nhà doanh
nghiệp khó có thể kiếm lời trên 12% để trả lãi cho ngân hàng hằng tháng. Hàng
chục hợp tác xã tín dụng, hàng trăm tổ hợp sản xuất, hàng nghìn xí nghiệp đã vỡ
nợ vì huy động vốn với lãi suất cao theo lý thuyết “cưỡi sóng” của các chuyên
gia. Trong đó có hãng nước hoa Thanh Hương của “nhà tỷ phú trẻ” Nguyễn Văn Mười
Hai, Andaco của Huỳnh Là, Xacogiva của Phạm Công Tước…
Nguyễn Văn Mười Hai, sinh năm 1960, bắt đầu sản xuất xà bông
từ năm 1985 bằng nguồn vốn 6 cây vàng góp từ những người trong gia đình. Năm
1988, sau khi Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định 27 và 28 cho phép các nhà sản
xuất được huy động vốn trong dân, Nguyễn Văn Mười Hai cho thành lập “tổ hợp sản
xuất nước hoa Thanh Hương” rồi nhận tiền gửi rộng rãi với lãi suất có khi lên
tới 15% /tháng. Mức lãi cao này đã khiến cho “hãng nước hoa Thanh Hương”, tên
gọi từ khi cơ sở này bắt đầu quảng cáo huy động vốn, bị mất cân đối nghiêm
trọng.
Tính đến ngày 20-1-1989, tổng số huy động vốn của “hãng nước
hoa Thanh Hương” là 5,2 tỷ đồng, trong khi số lãi phải trả lên đến 5,4 tỷ. Thay
vì thừa nhận tình trạng phá sản, “nhà tỷ phú trẻ” này đã đẩy nhanh nhịp độ huy
động vốn rồi “lấy tiền của người gửi sau trả lãi cho người gửi trước”. Từ
20-1-1989 tới 17-1-1990, Thanh Hương đã huy động thêm 90 tỷ. Trước tháng
1-1990, mỗi tháng, Thanh Hương chỉ bán được một lượng sản phẩm trị giá 30 triệu
đồng, trong khi có ngày, lãi suất thực trả cho người gửi tiền lên tới hơn 800
triệu.
Ngày 10-3-1990, khi khám nhà, “bắt khẩn cấp” Nguyễn Văn Mười
Hai, công an phát hiện một lượng tiền mặt lên tới 15,5 tỷ đồng, một lượng vàng
thoi nặng 149,88 ký; ngoài ra, Mười Hai còn có 18 căn nhà và 20 chiếc xe hơi,
trong đó có những chiếc Mercedes mà ở Việt Nam chưa ai từng có. Khối tài sản
trên đây không phải có được nhờ bán nước hoa Thanh Hương. Số tiền Nguyễn Văn
Mười Hai “huy động” từ 160 nghìn người lên đến 154,7 tỷ đồng, tương đương với
77 nghìn lượng vàng tính theo giá năm 1990, trong khi tổng số nước hoa Thanh
Hương mà Nguyễn Văn Mười Hai bán được chỉ là 1,193 tỷ.
Nhưng con số không nói hết những bi kịch nạn nhân của Nguyễn
Văn Mười Hai. Với lãi suất hằng tháng từ 12 đến 14% cộng thêm 1% trả bằng nước
hoa, trong khi lãi suất cao nhất của ngân hàng, từ ngày 1-7-1989 chỉ còn 7%,
Thanh Hương đã khiến cho nhiều người mang tiền đến gửi như “thiêu thân”. Một số
cơ quan nhà nước thì mang công quỹ, nhiều cán bộ hưu trí thì mang hết tiền tiết
kiệm trong suốt bao nhiêu năm, nhiều người còn vay tiền của người thân với lãi
suất thấp hơn gửi cho Nguyễn Văn Mười Hai.
Có trường hợp như bà Triệu Thị Hiếu, sau khi bán nhà được 92
triệu đồng ở miền Bắc, vào Sài Gòn thay vì mua nhà ngay lại nghe bạn bè khuyên,
đem gửi cho Nguyễn Văn Mười Hai chỉ ba ngày trước khi ông ta bị bắt. Bà Hiếu
nói với Tòa án ngày 15-10-1990: “Khi công an bắt, tôi còn nhìn thấy ba bao tiền
của tôi gửi cho Nguyễn Văn Mười Hai, tất cả còn nguyên”.
Cũng với phương thức tương tự, Giám đốc xí nghiệp Andaco,
ông Huỳnh Là, một người bị mù bẩm sinh, đã huy động tiền gửi của dân 21 tỷ
đồng; “đại gia” Lâm Cẩu, giám đốc Xí nghiệp sản xuất phụ tùng xe máy Đại Thành,
huy động 50 tỷ và Xí nghiệp nồi cơm điện Covina huy động 12 tỷ. Cũng trong quý
II-1990, Giám đốc Phạm Công Tước của Xacogiva - một “nhà tỷ phú” mới mấy tháng
trước đó được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới thăm - bỏ trốn sau khi huy động
44 tỷ đồng với lãi suất 12%/tháng.
Sự đổ bể của các hợp tác xã tín dụng và các tổ chức huy động
vốn trong dân đã làm cho tình hình xã hội trở nên căng thẳng. Rất nhiều nạn
nhân của các tổ chức này là cán bộ hưu trí và đặc biệt, phần lớn trong số họ là
sỹ quan quân đội. Thời gian ấy có hơn 600 nghìn bộ đội vừa mới xuất ngũ từ các
chiến trường Campuchia và biên giới phía Bắc. Trong số đó, hàng chục nghìn sỹ
quan, đặc biệt là sỹ quan từ cấp thiếu tá đến đại tá lãnh được một khoản tiền
khá lớn và nhiều người trong số họ thấy lãi cao thì đưa đi gửi.
87% số vụ đổ bể tín dụng xảy ra từ vĩ tuyến 17 trở vào; 13%
từ các tỉnh miền Bắc. Ở Khánh Hòa người dân đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình và
Chính quyền Sài Gòn đã ra lệnh đình bản số báo Lao Động Chủ Nhật có đăng tin
nhiều quan chức có sổ khống, tức là không gửi tiền mà vẫn được “chia lãi” ở
hãng nước hoa Thanh Hương vì sợ dân chúng tức giận.
Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Trần Xuân Giá nhớ
lại: “Khi Hội đồng Bộ trưởng vào họp ở Sài Gòn, Phó Chủ tịch Trần Đức Lương
được cử ở lại Hà Nội trực. Hôm đó, có khoảng 50 người đến Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng yêu cầu Chính phủ phải có trách nhiệm với sự đổ vỡ tín dụng này. Lần đầu
tiên có việc một đám đông lên tới 50 người tụ tập trước cổng Đỏ. Sự việc được
ông Lương khẩn báo vào Sài Gòn, Chủ tịch Đỗ Mười chỉ đạo: Cứ hẹn với dân để thứ
Sáu Chính phủ ra Hà Nội sẽ có giải pháp. Ông Trần Đức Lương đã có một quyết
định vô cùng ngu ngốc là yêu cầu ông Nguyễn Văn Báu, Phó chủ nhiệm Văn phòng,
làm một tờ Thông báo có đóng dấu hẳn hoi ra dán ở cửa nói rằng, hẹn mọi người
thứ Sáu sẽ giải quyết. Tờ giấy có giá trị như một lệnh triệu tập”.
Sáng thứ Sáu, vườn hoa trước cổng Đỏ của Hội đồng Bộ trưởng
đầy kín người. Ông Đỗ Mười phải triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các cấp phó
và đưa ra câu hỏi: Nên giải quyết thế nào? Ông Nguyễn Khánh nói: Anh Mười không
nên xuất hiện, không ai biết sự nổi giận của nhân dân tới đâu! Điều này rất dễ
nhất trí, nhưng khi chọn người ra nói chuyện với dân thì ông Đồng Sĩ Nguyên
nói: Tôi chỉ phụ trách về giao thông vận tải; ông Trần Đức Lương: Tôi chỉ lo
công tác khoa giáo. Thế là ông Đỗ Mười nói: Chú Giá vừa nắm rõ công việc lại
vừa có thể thay mặt Chính phủ, chú ra tiếp dân”.
Hàng nghìn người biểu tình mà trong đó có rất nhiều quân
nhân mang theo cả súng với nỗi tuyệt vọng to lớn sau khi khoản tiền dành dụm cả
đời của họ đã “đổ” theo các hợp tác xã tín dụng. Khi ấy, Chính quyền vừa thành
lập hai đại đội cảnh sát dã chiến. Văn phòng chọn mười người trong số họ, mặc
thường phục đi theo bảo vệ ông Trần Xuân Giá. Ông Giá ra ngôi nhà số 3 Mai Xuân
Thưởng, trước cửa Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, rồi bắc loa nói: “Bà con đông
quá, tôi không thể tiếp một lúc được, xin mời cứ 50 người một, lần lượt vào”.
Trong 50 người đầu tiên, có tới 40 vị đại tá. Nhiều vị vừa
vô phòng là rút súng đặt cạch lên bàn. Ông Giá cố giữ bình tĩnh: “Tôi mà rơi
vào hoàn cảnh các anh thì tôi cũng phải làm gì đó để đòi quyền lợi. Nhưng chúng
ta đâu phải kẻ thù mà các anh đưa súng ra. Các anh dùng súng, tôi cũng dùng
súng thì giải quyết được gì!”. Nghe tới đó, có nhiều tiếng nói từ phía sau:
“Cất súng! Cất súng!”. Ông Giá tiếp: “Chính phủ dứt khoát không bao giờ để cho
dân thiệt. Bà con yên tâm, Chính phủ sẽ công bố kế hoạch giải quyết cho bà con
sau”. “Sau là bao lâu?”. “Tôi chưa thể nói chính xác thời gian nhưng chắc chắn
là rất sớm”.
Từ hơn 9 giờ sáng, ông Giá liên tục phải trả lời sự giận dữ
của dân chúng. Nhưng, rất may là ông không phải tiếp tất cả họ. Nghe hứa “Chính
phủ không bao giờ để dân thiệt”, nhiều tốp 50 đã vỗ tay khi vừa ra khỏi cửa
phòng tiếp dân, đám đông chưa thực sự hiểu điều gì xảy ra cũng vỗ tay. Số này
trở thành người tuyên truyền cho những người ở ngoài, một số người không đợi
đến lượt mình mà tự động ra về, khoảng 3 giờ chiều thì xử lý được. Theo ông
Trần Xuân Giá, Hội đồng Bộ trưởng sau đó đã phải lấy từ ngân sách 137 tỷ chi
trả cho nạn nhân của các vụ đổ bể tín dụng trong cả nước.
Những bước đi đầu tiên
Tháng 9-1988, cô gái 17 tuổi Bùi Bích Phương đăng quang cuộc
thi Hoa hậu đầu tiên của Việt Nam thống nhất do báo Tiền Phong tổ chức. Tháng
1-1989, Trung tâm Quảng cáo Trẻ chọn 7 cô gái xinh đẹp làm nghề người mẫu.
Tháng 2-1989, báo Tuổi Trẻ đăng “ý kiến bạn đọc” đề nghị các cô giáo nên mặc áo
dài. Tháng 5-1989, Đỗ Thị Kiều Khanh nhận danh hiệu Hoa hậu Áo dài tại cuộc thi
do báo Phụ Nữ Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức. Cũng trong tháng 5-1989, Lý Thu
Thảo nhận danh hiệu Hoa hậu Việt Nam của Thành Đoàn.
Một trăm nghìn postcard in hình Kiều Khanh bán hết ngay sau
cuộc thi. Cuối năm 1989, lịch các hoa hậu bắt đầu trở thành vật phẩm được ưa
chuộng nhất. Đặc biệt, sau sự đăng quang của Kiều Khanh, phong trào khôi phục
lại những chiếc áo dài từng làm tăng thêm nét duyên dáng của những phụ nữ miền
Nam trước năm 1975 bắt đầu lan rộng.
Những cuộc thi hoa hậu tưởng như phù phiếm này lúc ấy lại
chứa đựng những tín hiệu cho thấy Việt Nam bắt đầu bước từ tình trạng giặc giã,
lam lũ, tới những nhu cầu cao hơn về tinh thần. Hình ảnh hoa hậu Kiều Khanh có
mặt trong các sự kiện của hợp tác xã Tín dụng Hòa Hưng và các người mẫu, tuy
chỉ xuất hiện trên sân khấu, đã đánh dấu bước chuyển của nền kinh tế từ tự cung
tự cấp sang kinh tế thị trường.
Cho dù phải trả giá không rẻ, điều may mắn là ở thời điểm
này, Việt Nam đã không quay lưng với kinh tế thị trường. Đại hội Đảng lần thứ
VI, tháng 12-1986, cho phép phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng mấy năm
sau đó vẫn là thời gian tìm đường. Mãi tới ngày 21-12-1990, ngày Quốc hội thông
qua Luật Công ty, địa vị pháp lý của kinh tế tư nhân mới bắt đầu chính thức
được xác lập283.
Trước đó, doanh nghiệp nhà nước đã được tự hạch toán kinh
doanh; các nhà sản xuất tư nhân đã có thể ủy thác qua các công ty xuất nhập
khẩu để mua về vật tư, nguyên liệu. Từ một thực thể đóng kín, từ cuối thập niên
1980, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu tác động của nhiều nhân tố bên ngoài.
Cơ chế thị trường không còn chỉ là những thuật ngữ được tranh cãi bởi các nhà
lãnh đạo. Tuy đầu tư nước ngoài chưa đáng kể 284, nhưng những nhân tố ban đầu
đó đã như từng mảng sơn mới trên những bức tường rêu phong. Kinh tế tăng
trưởng, mức sống khá dần285.
Trong suốt thời gian làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ
Mười chỉ có thể điều phối một lượng ngoại tệ tổng cộng 123 triệu USD. Ông tự
hào đã bàn giao lại cho ông Võ Văn Kiệt gần 200 triệu. Theo ông Trần Xuân Giá,
Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng: “Số tiền tăng thêm này có được nhờ phát
hành 200 tỷ đồng giao cho ông Chu Tam Thức đi mua gạo xuất khẩu. Ông Thức đi
hai tháng, mang về được 59,5 triệu USD, thấp hơn con số 61 triệu mà ông Đỗ Mười
kỳ vọng. Ngoài ra còn có 50 triệu vay của Nisho Iwai. Nisho Iwai cho vay khoản
tiền này, sau khi Hội đồng Bộ trưởng quyết định lấy dinh thự 12 Thuyền Quang
cho Nisho Iwai thuê với giá 12.000 USD/tháng”. Dinh thự này trước đó được dành
cho quan chức cỡ Ban Bí thư và Phó Thủ tướng Liên Xô ở mỗi lần sang Việt
Nam286.
Trong thập niên 1980, Việt Nam chủ yếu buôn bán với các nước
trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (CMEA), xuất một, nhập về ba khiến cho nợ nần
chồng chất. Tính đến cuối thập niên 1980, tổng viện trợ của các nước CMEA cho
Việt Nam đạt tới mức 1,5 tỷ USD, giữa năm 1989, Việt Nam vẫn hy vọng Liên Xô
tiếp tục duy trì khoản viện trợ này trong vòng 5 năm tiếp theo, nhưng tất cả đã
bị cắt đột ngột vào năm 1990. Trong khi đó, nhu cầu ngoại tệ để nhập những mặt
hàng thay thế nguồn nhập khẩu từ các nước CMEA phải lên tới 1 tỷ USD mỗi năm.
Nhưng, cũng nhờ sự sụp đổ của khối CMEA mà Việt Nam mới tích cực tìm bạn hàng ở
những khu vực khác287. Xuất khẩu sang những thị trường mới tăng vọt từ 463
triệu USD, năm 1988, lên 978 triệu USD, năm 1989; chủ yếu nhờ hai mặt hàng: dầu
mỏ và gạo288.
Cuối tháng 8-1991, Trung tâm buôn bán ngoại tệ đầu tiên của
Việt Nam đã được mở tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm có 40 thành viên là
các cơ quan nhà nước, trong đó có 7 ngân hàng thương mại và 33 tổ chức ngoại
thương, các công ty nhập khẩu vàng bạc và những công ty thực hiện các dịch vụ
về kiều hối. Cùng với sự xuất hiện của trung tâm này, tất cả các giao dịch về
ngoại tệ đều được thực hiện với tỷ giá hình thành ở đó và mức chênh lệch tối đa
của tỷ giá bán ra chỉ được cao hơn tỷ giá quy định là 0,5%. Đồng đôla bắt đầu
được định giá 10.500 đồng tại Trung tâm giao dịch ngoại hối vào đầu tháng
10-1991.
Trong hai năm 1989 - 1990 có khoảng 450 nghìn lao động ở các
xí nghiệp quốc doanh bị giảm biên chế hoặc nghỉ hưu mà không tìm được công việc
làm mới. Theo ước tính của Bộ Lao động và báo cáo tình hình xí nghiệp, con số
này chiếm 78% trong tổng số 570 nghìn công nhân dư thừa vào đầu năm 1988. Trong
năm 1991, có thêm 150 nghìn công nhân từ các xí nghiệp quốc doanh bị giảm biên
chế. Những nỗ lực “tinh giản biên chế” nhằm giảm 20% số viên chức nhà nước cũng
làm mất việc thêm khoảng 250 nghìn người. Khi ấy, hơn 600 nghìn bộ đội cũng vừa
giải ngũ theo chính sách phục viên. Đội quân thất nghiệp đông lên chưa từng
thấy289.
Thị trường cũng nhanh chóng tạo ra khoảng cách giữa nông
thôn - thành thị và giữa các vùng trong cả nước. Năm 1992-1993, thu nhập bình
quân đầu người ở thành thị cao
gấp đôi khu vực nông
thôn. Duyên hải
miền Trung, Tây Nguyên, trung du phía Bắc, khu Bốn cũ có
thu nhập thấp hơn mức bình quân của cả nước. Giai đoạn 1991-1995, tỷ lệ tăng
trưởng GDP tại Hà Nội và Sài Gòn cao gấp từ 1,5-2 lần so với mức bình quân của
cả nước290. Làn sóng di cư còn tiếp tục làm thay đổi một cách sâu sắc đời sống
kinh tế, xã hội và văn hóa của Việt Nam.
Tuy giáo viên chưa phải là đối tượng ưu tiên tinh giản biên
chế trong giai đoạn này, nhưng kinh tế thị trường đã tác động một cách không
cưỡng lại được đối với ngành giáo dục. Mức lương khởi điểm của một giáo viên
phổ thông cơ sở, có chất lượng vào tháng 6-1991 là 45.000 đồng/tháng, tương
đương với 5,35 đôla Mỹ theo tỷ giá thị trường. Mức lương cao nhất của thang
lương cho một giáo
viên phổ thông cơ sở kỳ cựu 30 năm trong nghề
là 63.000 tương đương với 7,5 USD/tháng. Để sống được, hầu hết giáo
viên cấp 1 dạy nửa ngày, còn nửa ngày phải làm việc khác để tăng thu nhập. Một
đội ngũ rất lớn, giáo viên năng động đã lần lượt bỏ nghề ra kinh doanh hoặc tìm
kiếm những công việc có thu nhập tốt hơn trong các ngành khác.
Nhà nước chưa thể làm gì để ngăn chặn làn sóng này. Tổng mức
chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục trong năm 1990 chỉ hơn 1 USD/đầu người;
trong khi đó, con số này ở Trung Quốc cùng thời là 6,5 USD, ở Ấn Độ là 11,15
USD. Đặc biệt, các giáo viên tiếng Anh ở trong các trường đại học nhanh chóng
kiếm được những công việc có thu nhập cao gấp hàng trăm lần so với lương trong
ngành; ngược lại, bộ môn tiếng Nga gần như bị xóa sổ do không còn sinh viên
đăng ký học. Phần lớn giáo viên tiếng Nga bỏ nghề hoặc chuyển sang học thứ ngôn
ngữ thời thượng: tiếng Anh.
Để có thể thực hiện các chương trình cải cách, Việt Nam cần
có những khoản viện trợ mới. Nhưng để có viện trợ mới, Việt Nam đứng trước đòi
hỏi cấp thiết phải thanh toán những khoản nợ nước ngoài. Tính đến cuối năm
1990, tổng số nợ của Việt Nam lên đến 8,3 tỷ USD, gần bằng GDP, trong đó có 3,2
tỷ nợ bằng ngoại tệ mạnh, phần còn lại là khoản nợ bằng đồng Rúp chuyển đổi.
Đây là khoảng thời gian mà UNDP đóng một vai trò quan trọng trong việc viện trợ
cho quá trình đổi mới và vận động nhằm khôi phục lại các chương trình viện trợ
song phương và đa phương cho Việt Nam. Trong các năm 1989, 1990, Chính phủ phải
“vay” từ các ngân hàng quốc doanh những khoản tín dụng lên tới 3.400 tỷ đồng để
chi tiêu.
Chính kinh tế thị trường và chính sách tự do giao thương đã
giải quyết những gánh nặng này thay vì những đồng tiền được đưa ra từ ngân
sách. Chính sách hộ khẩu vẫn được duy trì trong suốt thập niên 1990. Nhưng nếu
như thời bao cấp, cuốn sổ hộ khẩu luôn đi kèm với sổ gạo, việc làm, quyền mua
xe, mua nhà, thuê nhà và quyền học hành của con cái, thì ở thời điểm ấy thị trường
có thể giải quyết gần như tất cả. Thị trường còn xử lý một cách lặng lẽ sự phân
bố không đồng đều về dân cư giữa các vùng kinh tế291. Cùng với sự phát triển
của kinh tế tư nhân, Sài Gòn, Hà Nội trở thành thị trường lao động lớn nhất để
giải quyết phần lớn số lao động dư thừa vừa bị “giảm biên” từ khu vực Nhà
nước292.
Chứng kiến sự thay đổi tới từng gốc rễ kể từ khi để cho
người dân được tự do làm ăn mới thấy hết những mất mát mà Việt Nam phải gánh
chịu thời kinh tế tư nhân bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Lược sử kinh tế tư nhân
Cuối thế kỷ 19, ở miền Nam đã có những đại điền chủ với
ruộng đất “thẳng cánh cò bay” như Huyện Sĩ, như Tổng Đốc Phương… Người được xếp
hạng giàu thứ tư, thân phụ của “Công tử Bạc Liêu”, ông Trần Trinh Trạch, cũng
sở hữu 74 sở điền, với 110.000 hecta đất trồng lúa, gần 100.000 hecta ruộng
muối. Sau năm 1907, từ cuôc vận đông Duy Tân cua nhom Đông Kinh Nghia Thuc,
phong trao khuêch trương thương nghiêp đã làm xuất hiện nhiêu thương nhân vưa
buôn ban vưa đầu tư công nghê.
Dưới thời Pháp thuộc: “Ở Ha Nôi co hiêu Đông Lơi Tê ban hang
nôi hoa, hiêu Hông Tân Hưng lam đô sơn, hang Quảng Hưng Long do nhiêu nha buôn
hun vôn, hiêu Đông Thanh Xương chê tao xuyên bông đai đoa va do cac nha nho
Hoang Tăng Bí va Nguyên Quyên quan ly… Ơ Nghê An, Ngô Đưc Kê tô chưc Triêu
Dương thương quan, con ơ Quang Nam, công ty Quan tri hiêp thương phat triên tư
năm 1907 vơi môt sô vôn khoang chưng 200.000 đôla; công ty mua lâm thô san đem
đi ban ơ Ha Nôi, Sài Gòn, Hương Cang, rôi lai mua hang ơ cac nơi đo vê. Ơ Phan
Thiêt, công ty buôn ban Liên Thanh, thanh lâp năm 1908, xuât cang đương, quê,
tơ va se mơ thêm hai chi điêm lơn ơ Sài Gòn va Hôi An”293.
Khi Thê chiên thư nhât bung nô, môt sô nhưng hôi buôn nay
lơi dung hang hoa bên Phap không chơ sang đươc đê phat triên hoat đông cua ho:
“Hang Quang Hưng Long thanh công trong lãnh vưc xuât nhâp cang, măc dâu cac
quyên lơi cua ngươi Âu rât manh me trong lãnh vưc nay; công ty Vu Văn An chuyên
môn buôn ban cac loai tơ lua đăt gia; Nguyên Hưu Thu tưc Sen, trươc lam chu
hang xe ơ Hai Phong, trơ thanh chu hang tau thuy chay giưa Hương Cang va Hai
Phong trong nhưng năm Thê chiên. Đông thơi, nhiêu nha may in đươc mơ, như nha
may in cua Ngô Tư Ha, Lê Văn Phuc ơ Ha Nôi, Bui Huy Tin ơ Huê”294.
Một trong những doanh nhân tiêu biểu lúc bấy giờ là Bạch
Thái Bưởi. Tháng 4-1916, Bạch Thái Bưởi lập ra “Giang hải luân thuyền Bạch Thái
công ty” ở Hải Phòng. Đến năm 1919, Bạch Thái Công ty đã sở hữu hơn 30 chiếc
thuyền, chưa kể các thuyền phụ; 20 sà lan; 13 chiếc cầu tàu đứng, 16 chiếc cầu
tàu nổi. Tàu nhỏ nhất chở được 55 người; tàu lớn nhất, chạy tuyến Hà Nội - Nam
Định, chở được 1.200 người. Năm 1920, Bạch Thái Bưởi còn định mua tàu 3.000 tấn
từ Mỹ để vươn sang Âu, Mỹ. Ông tuyên bố: “Trước kia ta cạnh tranh với các Hoa
thương trên mặt sông, từ nay trở đi ta lại cạnh tranh với các tàu bè trên mặt
biển”295. Rất tiếc là khát vọng của Bạch Thái Bưởi không thành. Năm 1925, sau
khủng hoảng kinh tế thế giới, ông đa phai ban tât ca sô tau cua mình cho người
Pháp.
Trong những thập niên sau đó, một số doanh nhân người Việt
tiếp tục thành công trong những ngành kỹ nghệ tưởng chỉ có người “Tây” độc
chiếm. Ông Ngô Tử Hạ đầu tư vào ngành in và trở thành “nhà tư bản ngành in và
bất động sản hàng đầu xứ Đông Dương”. Ông Nguyễn Sơn Hà lập hãng sơn, chế ra
loại sơn Ré sistanco, cạnh tranh được với các loại sơn của Pháp trên cả các thị
trường Lào, Campuchia và Thái Lan. Từ một điền chủ có 18.000 hecta ruộng, ông
Trương Văn Bền mở hãng xà bông “Trương Văn Bền và các con”, cho ra đời bánh “xà
bông cô Ba”, đánh bại các loại xà bông nhập cảng, thâu tóm thị trường Đông
Dương rồi xuất sang Hương Cảng, châu Phi, Tân Đảo…
Năm 1926, môt sô nha tư ban va đia chu ơ Sài Gòn đã gop vôn
thanh lâp Viêt Nam Ngân hang, Societe Annamite de Credit. Tuy vậy, kinh doanh
cua tư ban Viêt Nam chỉ có thể thu hep trong pham vi tiêu công nghiêp va tiêu
thương mai; trong suôt thơi Phap thuôc, nhưng xi nghiêp tư ban Viêt Nam dung
trên 200 công nhân vẫn còn rất hiêm296.
Ở miền Bắc, trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến 1958, tư
bản tư doanh và cá thể vẫn được Chính phủ Hồ Chí Minh cho làm ăn. Chính họ là
lực lượng giúp khôi phục nền kinh tế miền Bắc bị tàn phá nghiêm trọng sau chín
năm Việt Minh “trường kỳ kháng chiến”297. Nhưng vai trò của họ chỉ được khai
thác trong một thời gian ngắn.
Năm 1954 từ nơi tản cư trở về, gia đình ông Trịnh Văn Bô
không còn một căn nhà nào để ở, cho dù trước đó, ông sở hữu biệt thự nổi tiếng
48 Hàng Ngang và nhiều dinh thự khác như 34 Hoàng Diệu, 24 Nguyễn Gia Thiều,
56-58 Tràng Tiền… Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988) là một doanh nhân Việt Nam nổi
tiếng giữa thế kỷ 20. Cha ông, ông Trịnh Văn Đường và cha vợ ông, ông Hoàng Đạo
Phương, đều là những nhà nho cùng thời với cụ Lương Văn Can, từng đóng góp rất
nhiều cho phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ là bà Hoàng Thị Minh Hồ, trong 10
năm, kinh doanh thành công, đưa tài sản của hãng tơ lụa Phúc Lợi tăng lên 100
lần so với ngày thừa kế hãng này từ cha mình. Tơ lụa do Phúc Lợi sản xuất được
bán sang Lào, Campuchia, Thái Lan, được các thương nhân Pháp, Anh, Thụy Sĩ,
Thụy Điển, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản tìm kiếm.
Từ năm 1944, gia đình ông nằm trong sự chú ý của những người
cộng sản. Ngày 14-11-1944, hai vợ chồng ông bà cùng người con trai cả đồng ý
tham gia Việt Minh. Vài tháng sau, ông bà đã mang một vạn đồng Đông Dương ra
ủng hộ Mặt trận Việt Minh và từ đó, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở thành một
nguồn cung cấp tài chánh to lớn cho những người cộng sản. Đến trước Cách mạng
tháng Tám, gia đình ông đã ủng hộ Việt Minh 8,5 vạn đồng Đông Dương, tương
đương 212,5 cây vàng. Khi những người cộng sản cướp chính quyền, ông bà Trịnh
Văn Bô được đưa vào Ban vận động Quỹ Độc lập298.
Ngày 24-8-1945, khi Chính phủ lâm thời về Hà Nội, Hồ Chí
Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Tùng đều
đã ở hoặc qua lại ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Ba đêm đầu Hồ Chí Minh ngủ trên
giường của ông bà Trịnh Văn Bô, sau đó, ông xuống tầng hai, ngủ trên chiếc
giường bạt còn các nhà lãnh đạo khác thì kê ghế da hoặc rải chiếu ngủ. Ở tầng
trệt, cửa hàng vẫn hoạt động bình thường, ngay cả bảo vệ của Hồ Chí Minh cũng
không xuống nhà để tránh gây chú ý. Mọi việc ăn uống đều do bà Trịnh Văn Bô lo,
thực khách hàng ngày ngồi kín chiếc bàn ăn 12 chỗ.
Trong suốt từ 24-8 cho đến ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh hiếm khi ra khỏi nhà 48 Hàng Ngang. Mỗi buổi sáng, cứ sau khi ông tập thể
dục xong, bà Trịnh Văn Bô lại đích thân mang thức ăn sáng lên. Bà nhớ, có lần
Hồ Chí Minh đã giữ bà lại và hỏi: “Cô bao nhiêu tuổi mà có được gia tài lớn thế
này?”. Năm ấy bà 31 tuổi, dù có 4 đứa con nhưng vẫn còn xinh đẹp. Hồ Chí Minh ở
lại đây cho đến ngày 27-9-1945. Mỗi khi ra khỏi nhà, Hồ Chí Minh thường xuống
tầng dưới vấn an bà mẹ ông Trịnh Văn Bô và gọi bà là mẹ nuôi. Ở 48 Hàng Ngang,
Hồ Chí Minh đã ngồi viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập và tiếp các sĩ quan OSS như
Archimedes Patti và Allison Thomas. Quần áo mà các lãnh đạo Việt Minh bận trong
ngày lễ Độc lập, đều do gia đình ông bà cung cấp. Các ông Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp thì mặc đồ của ông Trịnh Văn Bô còn áo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
may bằng vải Phúc Lợi.
Khi Pháp tái chiếm Đông Dương, ông Trịnh Văn Bô theo Chính
phủ Kháng chiến lên Việt Bắc còn vợ ông thì mang 5 người con, trong đó có một
đứa con nhỏ, cùng với mẹ chồng lên “vùng tự do” Phú Thọ. Những năm ở đó, từ một
bậc trâm anh, thế phiệt, bà đã phải cuốc đất trồng khoai và buôn bán để nuôi
con. Năm 1955, gia đình ông Trịnh Văn Bô trở về Hà Nội. Ông bà tiếp tục xoay xở
và bắt đầu phải bán dần đồ đạc cũ để nuôi sống gia đình. Lúc này, toàn bộ biệt
thự, cửa hàng đều đã bị các cơ quan nhà nước sử dụng hoặc chia cho cán bộ nhân
viên ở. Lúc đầu, Nhà nước “mượn” sau tự làm giấy nói gia đình xin hiến, nhưng
cụ bà Trịnh Văn Bô bảo: “Tôi không ký”.
Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội
chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy,
cơ sở kinh doanh cho Nhà nước. Bà Trịnh Văn Bô lại được kêu gọi “làm gương”,
đưa xưởng dệt của bà vào “công tư hợp doanh”. Bà Bô cùng các nhà tư sản được
cho học tập để nhận rõ, tài sản mà họ có được là do bóc lột, bây giờ Chính phủ
nhân đạo cho làm phó giám đốc trong các nhà máy, xí nghiệp của mình. Không chỉ
riêng bà Bô, các nhà tư sản từng nuôi Việt Minh như chủ hãng nước mắm Cát Hải,
chủ hãng dệt Cự Doanh cũng chấp nhận hợp doanh và làm phó.
Cho dù được ghi nhận công lao, trong lý lịch các con của ông
Trịnh Văn Bô vẫn phải ghi thành phần giai cấp là “tư sản dân tộc”, và rất ít
khi hai chữ “dân tộc” được nhắc tới. Con trai ông Trịnh Văn Bô, ông Trịnh Kiến
Quốc kể: “Ở trường, các thầy giáo, nhất là giáo viên chính trị, nhìn chị em tôi
như những công dân hạng ba. Vào đại học, càng bị kỳ thị vì lượng sinh viên
người Hà Nội không còn nhiều. Trong trường chủ yếu là sinh viên con em cán bộ
thuộc thành phần cơ bản từ Nghệ An, Thanh Hóa… những người xếp sinh viên Hải
Phòng, Hà Nội vào thứ hạng chót. Chị tôi vào Đại học Bách Khoa, năm 1959, phải
đi lao động rèn luyện một năm trên công trường Cổ Ngư, con đường về sau Cụ Hồ
đổi thành đường Thanh Niên, và sau đó là lao động trên công trường Hồ Bảy Mẫu”.
Cả gia đình ông Trịnh Văn Bô, sau khi về Hà Nội đã phải ở nhà thuê. Năm 1954,
Thiếu tướng Hoàng Văn Thái có làm giấy mượn căn nhà số 34 Hoàng Diệu của ông
với thời hạn 2 năm. Nhưng cho đến khi ông Trịnh Văn Bô qua đời, gia đình ông
vẫn không đòi lại được299.
Câu chuyện của gia đình Trịnh Văn Bô cũng chưa cay đắng bằng
gia đình bà Nguyễn Thị Năm, nổi tiếng với tên gọi Cát Hanh Long, một nhà tư sản
vào hàng nhất nhì miền Bắc. Cũng như nhiều nhà tư sản khác, ba mẹ con bà Nguyễn
Thị Năm đã hăm hở ủng hộ phong trào Việt Minh từ tháng 5-1945. Bà đã từng vận
động bạn bè và tự mình mua tín phiếu Việt Minh, mua vải đỏ, vải vàng may cờ đỏ
sao vàng, ủng hộ tiền, gửi thuốc men, thóc gạo, dụng cụ ấn loát lên Chiến khu
Việt Bắc…
Sáng ngày 19-8-1945, bà Năm đã dùng xe ô tô của gia đình,
cắm cờ đỏ sao vàng ngay đầu mũi xe chạy lên Thái Nguyên, báo tin “Hà Nội đã
khởi nghĩa” cho người con trai thứ hai là Hoàng Công đang hoạt động bí mật ở Võ
Nhai dưới sự lãnh đạo của các cán bộ cộng sản. Trong một trạng thái phấn khích,
bà Năm đã cho xe chạy một vòng quanh thành phố Thái Nguyên rồi mới sang Đồng
Bấm, lên La Hiên, Đình Cả. Đó là một hành động bất chấp nguy hiểm vì khi ấy
người Nhật chưa chính thức đầu hàng.
Hai con bà Năm: Hoàng Công, tham gia Tổng khởi nghĩa ở Thái
Nguyên; Nguyễn Hanh, tham gia Tổng khởi nghĩa ngay tại phủ Khâm sai Bắc Bộ và
sau đó được cử đi bảo vệ phái đoàn gồm có các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy
Liệu, Cù Huy Cận vào Huế tiếp nhận sự thoái vị và nhận ấn kiếm vàng của Bảo Đại
đem về Hà Nội, đúng lúc đang diễn ra lễ mít tinh ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-
9-1945.
Trong “Tuần lễ vàng”, gia đình bà Năm đã góp 100 lượng vàng
tại Hải Phòng. Ở Thái Nguyên, gia đình bà được Trung ương Việt Minh giao trách
nhiệm giúp đỡ và chăm sóc các cán bộ của Đảng từ Chiến khu về, trong đó có
những người như gia đình ông Hoàng Hữu Nhân, Bí thư đầu tiên của Hải Phòng, và
gia đình ông Lê Đức Thọ. Con trai Hoàng Công của bà sau đó được ông Lê Đức Thọ
điều từ Thái Nguyên về Hà Nội. Toàn quốc kháng chiến, Hoàng Công bị gãy chân
tại mặt trận Ngã Tư Sở khi đang chiến đấu bảo vệ Thủ đô.
Cũng trong những ngày đó, gia đình bà Năm đã để lại khối tài
sản lớn của mình ở Hà Nội và Hải Phòng để theo mặt trận Việt Minh. Ở Thái
nguyên, bà Năm tích cực tham gia công tác phụ nữ và được bầu làm Hội trưởng Phụ
nữ tỉnh Thái Nguyên và là Ủy viên Liên khu Hội Phụ nữ. Thế nhưng, khi cải cách
ruộng đất, bà Nguyễn Thị Năm bị quy là địa chủ và bị gán tội “Việt gian - Quốc
dân Đảng” rồi trở thành một trong những địa chủ đầu tiên bị xử bắn300.
Cuối năm 1955, sau khi tập kết ra Bắc, được giao phụ trách
trong công tác sửa sai trong cuộc vận động cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ
chức, Lê Đức Thọ đã minh oan cho bà Nguyễn Thị Năm và sửa lại thành phần cho bà
là “tư sản, địa chủ kháng chiến”. Thế nhưng, theo ông Nguyễn Hanh: Không phải
mọi việc sau này đều thuận buồm, xuôi gió ngay đối với con cháu của bà.
Ông Nguyễn Hanh viết: “Con gái đầu lòng của tôi được vào đại
học, nhưng khi tốt nghiệp, phân công tác, không được cơ quan nào chấp nhận vì
bà nội cháu đã bị xử trong cải cách ruộng đất. Con trai thứ hai, theo gương bố
và chú, xin vào bộ đội. Đơn vị thấy cháu công tác tốt và có khả năng đã cử cháu
đi học đại học tại chức. Vừa học, vừa công tác tốt nhưng đến khi tốt nghiệp,
phát hiện ra cháu là cháu nội địa chủ, nhà trường đã không cho cháu thi tốt
nghiệp. Nhờ có sự giúp đỡ tận tình của bác Lê Đức Thọ nên hai con tôi mới thoát
nạn. Ba năm sau khi sửa sai cho mẹ tôi, hai anh em tôi mới được xét lại thành
tích phấn đấu từ thời Việt Minh bí mật và nhờ có sự giúp đỡ nhiệt tình của bác
Lê Đức Thọ, nên chúng tôi được phục hồi công tác. Chỉ tiếc rằng việc thực hiện
sửa sai không nhất quán và không làm đúng ở cơ sở. Em trai tôi chưa được chứng
nhận là thương binh và phục hồi Đảng tịch… Sau này bác Lê Đức Thọ đã đến thăm
gia đình chúng tôi, tặng một tập thơ, ở trang đầu có ghi mấy dòng chữ tự tay
bác viết: Thân tặng Hanh và Công, để đánh dấu chấm dứt sự đau buồn kéo dài lâu
năm của gia đình và cũng là của chung”301.
Trong thời kỳ khôi phục kinh tế, 1955-1957, nền kinh tế miền
Bắc phát triển ngoạn mục, chủ yếu nhờ vào lực lượng tư nhân: Công nghiệp tư bản
tư doanh tăng 230%; cá thể, tiểu chủ, tăng 220,2%. Tư bản tư doanh và tiểu chủ,
cá thể tạo ra một lượng sản phẩm chiếm 73,7% tổng giá trị công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp ở miền Bắc. Nhưng “Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư
doanh” bắt đầu ở miền Bắc vào tháng 9-1957 đã gần như triệt tiêu hoàn toàn kinh
tế tư bản tư nhân, tiểu chủ và cá thể bằng cách tước đoạt dưới các hình thức
“tập thể hóa” hoặc buộc các nhà tư sản phải đưa cơ sở kinh doanh của họ cho Nhà
nước với cái gọi là công tư hợp doanh.
Chỉ hai năm sau cải tạo công thương nghiệp tư doanh, ở miền
Bắc, tài sản của các nhà tư sản teo dần trong khi lực lượng quốc doanh bắt đầu
chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế302. Văn kiện Đảng ghi ngắn gọn: “Đến cuối
năm 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp và 97,2% hộ tư sản thương nghiệp được cải
tạo”303. Con số đó đủ để nói lên chính sách đối với tư nhân của chế độ miền
Bắc.
Nhà nước theo Hiến pháp 1959, với tham vọng “lãnh đạo hoạt
động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất”304, đã coi “Kinh tế quốc doanh thuộc
hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân
và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên305; Khuyến khích, hướng dẫn và giúp
đỡ sự phát triển của kinh tế hợp tác xã306”.
Mặc dù nói, “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở
hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc”, nhưng vì Hiến
pháp đã giao nhiệm vụ cho Nhà nước “ra sức hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc
hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù
hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước”; bằng cách “khuyến khích và hướng dẫn
các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình
thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác”307; đồng thời “nghiêm
cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội,
phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước”308, cho nên phạm vi tư hữu được “Nhà nước
bảo hộ” chỉ còn ở mức “quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp,
của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác”309.
Cũng từ năm 1960, kinh tế tư bản tư nhân trên miền Bắc gần
như hoàn toàn biến mất. Hậu duệ của những Bạch Thái Bưởi, Lê Văn Phúc… ly tán.
Các nhà tư sản đóng góp nhiều tiền bạc cho kháng chiến như Nguyễn Sơn Hà, Ngô
Tử Hạ… có được vài ghế danh dự trong Chính phủ, trong Quốc hội, nhưng họ và con
cái không còn là những doanh nhân - vai trò mà họ có thể đóng góp thiết thực
nhất cho đất nước.
Miền Bắc “tiến lên chủ nghĩa xã hội” bằng “kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất”, 1960-1965, trong một bối cảnh kinh tế tư nhân bị o ép và quốc
doanh thì èo uột. Chiến tranh, với khẩu hiệu, “tất cả cho tiền tuyến; tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đã biện minh cho sự nghèo nàn và viện trợ đã giúp
miền Bắc sống thoi thóp cho đến ngày thống nhất. Ở miền Nam, sau năm 1975,
những thương hiệu một thời nổi tiếng cũng lần lượt biến mất sau khi chủ nhân
của nó di tản, bị bắt, hoặc trở thành thuyền nhân và các nhà máy bị quốc hữu
hóa rồi được quản lý theo kiểu cha chung không ai khóc.
Nhưng, cho dù trải qua ba thập niên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, “chợ đen” chưa bao giờ bị triệt tiêu ở miền Bắc; cho dù các nhà tư sản bắt
đầu bị “đánh” kể từ tháng 9-1975 và bị “cải tạo” triệt để hơn vào tháng 3-1978,
lực lượng “con phe” ở miền Nam chưa từng một ngày chịu khuất phục. Họ đã từng
phải trả giá cả bằng tù tội. Một trong những người tiêu biểu đó là “Vua Lốp”
Nguyễn Văn Chẩn.
Ông Nguyễn Văn Chẩn vốn là một nông dân ở huyện Nga Sơn,
Thanh Hóa. Năm 1954, ông bán tài sản giá trị nhất là ruộng rau, để lại cho vợ
con một nửa số tiền, mang theo nửa còn lại tìm đường ra Hà Nội. Thoạt đầu, ông
xin vào làm công ở “ngành công nghiệp” bóc vỏ xe ô tô cũ cắt ra làm dép. Sau
khi tích lũy được một số vốn, ông mở một cửa hiệu nhỏ rồi đón vợ con lên Hà
Nội. Chỉ sau một năm, công việc làm ăn của ông Chẩn phất lên…, ông bị coi là
“tư sản mới”, bị kiểm tra, toàn bộ tài sản bị tịch biên và bản thân ông bị đưa
đi cải tạo nhưng may mắn, chỉ vài ngày sau, ông được thả.
Trở về, ông Chẩn vẫn không bỏ được máu làm ăn. Một lần, khi
cây viết mực của con bị hư, ông phải đi khắp các “cửa hàng bách hóa” mà không
mua được vì “bút máy” là mặt hàng “phân phối”. Sau khi tìm mua được một cây
viết chợ đen với giá mắc hơn giá trong cửa hàng Nhà nước nhiều lần, ông Chẩn tức
mình ngồi tháo ra nghiên cứu và nhận thấy là ông có thể tự làm được những cây
viết mực. Thế rồi ông chuyển sang làm “bút máy”310. Bút máy của ông có kiểu
dáng gần giống và chất lượng tương đương “bút máy Trường Sơn” nhưng được bán tự
do với giá rẻ.
Ông Chẩn lại phất lên và lại bị “tài chính quận Hoàn Kiếm”
kiểm tra chỉ vì ông “sống ở quận Ba Đình mà kinh doanh ở Hoàn Kiếm”. Toàn bộ
công cụ, đồ nghề, nguyên liệu, sản phẩm lại bị tịch thu rồi chỉ được trả một
phần nhỏ sau nhiều lần thưa kiện. Bỏ nghề làm bút máy, ông Chẩn chuyển sang
nghề đắp vỏ xe đạp, xe thồ và lại nhanh chóng trở thành người giàu có.
Tháng 4-1960, ông bị công an quận Ba Đình khám nhà, tịch thu
toàn bộ mô tơ, khuôn, vài tạ dép đứt quai, cao su và hàng ngàn chi tiết bút.
Với tội danh “tàng trữ và đầu cơ hàng hoá sản xuất trái phép”, ông Nguyễn Văn
Chẩn bị Tòa án Hà Nội xử 30 tháng tù giam. Thay vì phúc thẩm ngay theo đơn
kháng án của ông, mãi tới ngày 25-5-1972, Tòa án Tối cao mới xử phúc phẩm và
tại bản án số 22, ông Chẩn chỉ bị buộc tội “đầu cơ”, bị “cảnh cáo và nộp phạt
một trăm đồng” sau khi đã phải trải qua 18 tháng trong nhà tù Hỏa Lò, 12 tháng
trong trại tù Y ên Bái.
Khi từ nhà tù Y ên Bái trở về, ông Chẩn đã định từ giã con
đường làm ăn tư nhân. Ông xin vào công ty vệ sinh Thành phố và buổi tối thì
nhận xăm của nhà máy cao su về nối. Nhưng… ông nhận ra nhựa vá xăm lốp quốc
doanh “chưa vá đã bong” nên mày mò pha chế và tìm ra một loại nhựa tốt hơn.
Các chủ đại lý lại xếp hàng rồng rắn trước xưởng nhựa của
ông Chẩn. Khách các tỉnh xa về mua hàng can lớn. Ông Chẩn lại giàu lên. Tháng
1-1974, ông bị bắt và ngồi tù cho tới ngày 30-3 năm ấy. Ra tù ở tuổi 50, sau 5
năm bán chè chén, năm 1979, ông quay lại với nghề làm vỏ xe ở một trình độ cao
hơn. Năm 1980, ông Chẩn cho xuất xưởng những chiếc vỏ xe thồ có thể chạy ba năm
trong khi vỏ xe cùng loại của Nhà máy cao su Sao Vàng chỉ chạy được chưa đầy
sáu tháng. Sản phẩm của ông từng được trao Huy chương đồng tại Hội chợ triển
lãm Giảng Võ. Từ đây, ông Nguyễn Văn Chẩn bắt đầu chết tên “Vua Lốp”.
Khách hàng từ các tỉnh phía Bắc đến xếp hàng hằng ngày chờ
mua vỏ xe thồ đã làm cho Chính quyền chú ý. Người có tiền án hai lần vào tù vì
“buôn bán xăm lốp ô tô cũ và sản xuất bút máy” đương nhiên trở thành đối tượng
của công an. Đầu tháng 7-1983, ông Chẩn bị kiểm tra và trong suốt ba ngày trời,
“dưới sự chứng kiến của hàng trăm quan chức đủ mọi thành phần và hàng ngàn
người dân hiếu kỳ, ông Chẩn và các con đã phải thao tác quy trình làm lốp bằng
phế liệu”. Không tìm ra lỗi, Chính quyền Hà Nội đành cáo buộc ông “tự ý sản
xuất” làm “rối loạn” nền kinh tế mà, trong đó, mọi sản phẩm đều do Nhà nước lên
kế hoạch, giao chỉ tiêu từ khâu sản xuất cho đến khâu tiêu thụ.
Hà Nội năm 1983 là địa phương duy nhất hăng hái thi hành
“Chỉ thị Z-30” mà theo đó, sự giàu có cũng được coi là tội trọng. Sáng sớm ngày
27-8-1983, lực lượng liên ngành quận Ba Đình bao gồm quân đội, công an, viện
kiểm sát, ủy ban đã phong tỏa nhà và xưởng sản xuất của Vua Lốp, rồi tuyên bố,
tịch thu toàn bộ nhà cửa, nguyên vật liệu và dây chuyền sản xuất xưởng sản xuất
lốp, đồng thời ra lệnh bắt giam ông Chẩn. Đã có kinh nghiệm từ ba lần trước,
ông Chẩn bỏ trốn lên Hàng Đào, rồi sau đó bắt đầu những ngày phiêu bạt, nay
Thái Bình, mai Hải Phòng, Hà Bắc. Gần một năm sau, khi vợ con khởi kiện, ông
Chẩn mới lặng lẽ trở về. Những năm ấy, cả gia đình Vua Lốp phải ra phố Sơn Tây
căng lều trên vỉa hè sống tạm311.
Không quy mô như “Vua Lốp” nhưng nhiều người dân vẫn tìm
cách xoay xở. Bốn ngành “công nghiệp mũi nhọn” mà xã hội “bung ra” những năm
1978, 1979 và trong thập niên 1980 là: “Vá ép áo mưa rách/ Bơm mực ruột bút bi/
T ái chế dép nhựa cũ/ Lộn cổ áo sơ mi”. Ở miền Bắc, ngành công nghiệp “ T ái
chế dép nhựa cũ” có nơi được thay bằng “Gia công quy gai xốp”. Có một ngành
“công nghiệp” không thể không nói tới là “ngành” nấu xà bông. Thành phần cục xà
bông phản ánh khá trần trụi một môi trường kinh doanh đã bị cơ chế quan liêu
bao cấp làm cho biến dạng.
Sau năm 1975, những hãng nổi tiếng như bột giặt Viso hay
“Trương Văn Bền và các con” đều bị quốc hữu hóa hoặc phải hoạt động dưới dạng
“công tư hợp doanh”. Một người con của ông Trương Văn Bền được Nhà nước cho làm
Phó giám đốc Công ty hợp doanh này. Đó là một giai đoạn mà vật tư nguyên liệu
để làm các loại “xà bông cô Ba” không còn được nhập. Không có nguyên liệu để
sản xuất xà bông theo quy trình hiện đại, Công ty hợp doanh phải đặt hàng các
cơ sở sản xuất nhỏ lẻ gia công theo cách cho xút và dầu dừa vào thùng phuy đun,
khuấy.
Một người từng sản xuất xà bông từ cuối thập niên 1970, ông
Thái Văn Hừng312 kể: “Ngày chuẩn bị ra
trường, tôi về thực tập ở Cần Thơ, tình cờ ra chợ mua xà bông, thấy giá cao
quá. Hồi đó, đưa 1kg xà bông từ Sài Gòn về phải qua biết bao nhiêu trạm kiểm
soát. Thay vì mua xà bông, tôi về mang sách vở, đồ dùng học tập, bán hết, gom
thêm tiền, mua 10kg dầu dừa, xút... nấu xà bông. Cứ sáng làm, chiều bán, một
vốn, ba, bốn lời. Đúng một tháng sau tôi có gần bốn chục lượng vàng. Thay vì
trở về trường nhận bằng tốt nghiệp, tôi thành lập tổ hợp sản xuất xà bông, bỏ
ra 30 lượng vàng mua một máy ép dầu dừa. Máy ép dầu dừa của tôi là chiếc thứ
hai ở tỉnh Hậu Giang hồi đó”. Năm 1980, chỉ hơn một năm sau ngày khởi nghiệp,
ông Hừng nhớ lại: “Tôi có cả nghìn cây vàng”.
Nhưng, ở Sài Gòn, không phải ai cũng có thể mua xút và dầu
dừa. Ông Trần Mộng Hùng, người nhận gia công xà bông cho các công ty hợp doanh;
người từng cho cậu sinh viên Thái Văn Hừng mua xà bông chịu mang về miền Tây
bán, kể: “Sau cải tạo, toàn bộ hàng hóa, nguyên liệu mà Nhà nước thu được của
các nhà tư sản được đưa về cho Công ty Vật tư Tổng hợp Thành phố. Nhiều loại
vật tư vô cùng khan hiếm ngoài thị trường lại nằm chết dí trong kho vì những
người quản lý không biết nó là gì. Những thùng xút mà các nhà nấu xà bông đang
cần lại thường bị bỏ bê vì thủ kho ngại tới gần những loại hóa chất đụng tay vô
là bị phỏng. Mãi về sau khi vật tư trên thị trường đã cạn kiệt, hàng mới không
được nhập về, các nhà sản xuất mới tìm đến và phát hiện ra nhiều loại vật tư
ngoài thị trường khan hiếm lại đang bị bỏ phế”.
Do quen biết giám đốc Công ty Dầu dừa Bến Tre, ông Trần Mộng
Hùng xuống thẳng công ty của ông này “xin mua”. Ông giám đốc nói: “Dầu tao sản
xuất ra không có chỗ để chứa, mua là tao bán chứ xin gì”. Ông Hùng cả mừng,
nói: “Vậy chú bán cho con theo giá thị trường 5 đồng/kg đi”. Ông giám đốc trả
lời: “Bán theo giá thị trường để tao đi tù à? Tao bán mày 5 xu/kg thôi. Nhưng
mày phải kiếm một công ty quốc doanh xuống đây mua thì tao mới bán được”. Theo
quy định lúc đó: Chỉ các công ty quốc doanh có chức năng mới được mua xút, dầu
dừa rồi cung cấp cho các xí nghiệp được giao kế hoạch sản xuất xà bông cho
thương nghiệp; Các xí nghiệp này lại nhận xút và dầu dừa theo định mức rồi đặt
các cơ sở gia công nấu xà bông.
Các cơ sở gia công xà bông nếu cứ nhận xút và dầu dừa theo
định lượng rồi giao lại một số xà bông đúng như tính toán Nhà nước thì sẽ không
có lời. Họ phải kiếm sống bằng cách, nếu định lượng xút cho một thùng xà bông
là 15 kg thì chỉ sử dụng 9 kg, rồi đem 6 kg ấy ra chợ trời bán. “Công thức” áp
dụng với dầu dừa cũng tương tự. Nhưng, muốn cho cục xà bông cứng lại thì phải
đảm bảo nấu đủ 62% dầu dừa trong khi hơn 1/3 dầu dừa đã được bán cho chợ đen.
Thế là các cơ sở gia công đành phải trộn mỡ phế thải của nhà máy Vissan, thậm
chí pha đất sét và dùng muối thay cho soda… để cho cục xà bông cứng lại.
Sự chi li chặt chẽ của các nhà làm “kế hoạch hóa” đã khiến
cho nền kinh tế phải tồn tại bằng cách đối phó. Không chỉ có xà bông mà cả kem
đánh răng, vỏ xe… cũng đều phải “độn”. Những đôi dép nhựa tái chế chỉ đi được
vài tuần là gãy đế, tụt quai. Những chiếc vỏ xe chạy được dăm chục cây số là
bắt đầu phải lấy mây khâu mới giữ được cho phần cao su dính liền với “tanh”
thép. Những chiếc yên xe chỉ đi mấy bữa là lo xò không còn khả năng đàn hồi...
Năm 1990, khi Luật Công ty và Doanh nghiệp tư nhân ra đời,
những người như ông Thái Văn Hừng, Trần Mộng Hùng… từ giã những cơ sở sản xuất,
kinh doanh du kích của mình, bỏ vốn lập công ty. Cũng như nền kinh tế nói
chung, từng người bắt đầu phải học để thích ứng cho một giai đoạn mới.
Học lại “kinh tế thị trường”
Theo ông Phan Văn Khải, nói là Đảng bắt đầu đổi mới từ năm
1986, nhưng trên thực tế trong suốt nhiệm kỳ VI, trong Đảng vẫn tranh cãi liên
miên về đường đi. Mãi tới năm 1991, những người chủ trương cải cách mới đưa
được bốn chữ “kinh tế thị trường” vào văn kiện.
Sau khi khởi xướng
con đường đổi mới, ông Trường
Chinh vừa giữ chức cố vấn Ban Chấp hành Trung ương vừa là trưởng Tiểu ban Soạn thảo cương lĩnh
của Đảng. Nhưng vai trò của ông chấm dứt chỉ chưa đầy một năm sau đó. Đầu năm
1988, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 nhóm họp tại Thành phố Hồ Chí Minh, khi
Trường Chinh vào Nam dự theo thường lệ thì nhận được “đề nghị” của Chánh Văn
phòng Trung ương Hồng Hà: “Đã lâu anh không vào Nam nên Văn phòng bố trí để anh
đi nghỉ”.
Nửa năm sau, ngày 30-9-1988, khi xuống gặp nhóm giúp việc ở
phần tầng nửa trệt, nửa hầm, nhà số 3 Nguyễn Cảnh Chân, Trường Chinh bị trượt
chân nơi mấy bậc cầu thang, ngã bật người ra phía sau, rồi mất.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thay thế Trường Chinh làm trưởng
Tiểu ban dự thảo "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong Thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội". Chủ biên là Ủy viên thường trực Bộ Chính trị Đào Duy
Tùng. Thay vì cải cách cả kinh tế và chính trị, ưu tiên hàng đầu lúc bấy giờ
của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Đào Duy Tùng, trợ thủ đắc lực về lý luận của
ông, là: “Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kiên định học thuyết
kinh điển về cách mạng vô sản và thời kỳ quá độ trong đó có chính sách kinh tế
mới của Lênin”313.
Cùng thời gian ấy, Chính phủ được giao soạn thảo “Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” 314. Những nhà cải cách có
một cơ hội để “cài” vào văn kiện của Đảng hai chữ "thị trường".
Theo ông Trần Đức Nguyên: “Chúng tôi bàn
nhau, dứt khoát phải đưa vào văn kiện thuật ngữ ‘nền kinh tế thị trường’ và
chấp nhận thêm đuôi ‘có sự quản lý nhà nước’. Không có nền kinh tế nào lại
không có bàn tay nhà nước, nhưng cứ viết ra như thế để những người sợ hãi thị
trường yên tâm”315. Cũng theo ông Trần Đức Nguyên: “Đào Duy Tùng, khi ấy là ủy
viên thường trực Bộ Chính trị, không muốn trình ‘Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế xã hội đến năm 2000’ ra đại hội, lấy cớ đã có nhiều văn kiện quá.
Nếu hai ông Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt không kiên quyết bảo vệ, thì năm 1991, khái
niệm kinh tế thị trường có thể đã chưa bắt đầu được Đảng Cộng sản Việt Nam đề
cập”. Không chỉ là vấn đề câu chữ, xung đột giữa hai nhóm biên soạn “Cương
lĩnh” và “Chiến lược” của cùng Đại hội VII (1991) cho thấy, “cuộc đấu tranh
giữa hai con đường” trong Đảng lúc đó mới thực sự bắt đầu316.
Nhưng, trước khi các nhà lý luận thừa nhận kinh tế thị
trường, nhiều nhà hoạt động thực tiễn đã tìm cách liên hệ với thế giới bên
ngoài để tìm hiểu nó. Năm 1979, ở Sài Gòn, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cho lập
Công ty Imexco, bổ nhiệm một người ngoài Đảng, ông Nguyễn Văn Đức, làm phó giám
đốc. Ông Nguyễn Văn Đức, người được biết nhiều dưới cái tên “Tây” Charles Đức
hoặc Ba Đức sinh năm 1939 tại Châu Đốc, học kinh tế tại Aix-en-Provence, Pháp
(1962-1964) và Luật quốc tế tại La Haye, Hà Lan (1965-1967). Năm 1974, ông Đức
về nước, cưới danh ca cải lương Bạch Tuyết và bắt đầu hoạt động kinh doanh. Cả
khả năng kinh doanh và sự nổi tiếng của Bạch tuyết đã giúp ông Đức có một mối
quan hệ thân tình với nhiều nhà lãnh đạo. Theo ông Đức thì ông Kiệt là người
bật đèn xanh cho Imexco chủ động làm ăn với các thị trường như Hồng Kông,
Singapore, giúp các xí nghiệp nhà nước và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cân
đối nguồn hàng, ngoại tệ, làm quen với “hạch toán kinh doanh”, đồng thời tìm
đường lách qua lệnh cấm vận của Mỹ.
Sau Đại hội VI, các nhà lãnh đạo như Nguyễn Văn Linh, Phạm
Hùng, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ Thạch nhận thấy nhu cầu mở cửa lớn hơn
nên Charles Đức đã được sử dụng với một vai trò mới. Tháng 3-1987, Charles Đức
được lệnh bàn giao tất cả các chức vụ trong vòng một tuần để tập trung nghiên
cứu phương thức né tránh cấm vận đồng thời viết phương án làm kinh tế đối ngoại
và kêu gọi đầu tư nước ngoài trong thời kỳ mới. Để thực hiện ý đồ này, tháng
3-1987, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh Phan Văn Khải được ông
Phạm Hùng giao ký quyết định thành lập Tổng công ty Kinh doanh ngoài nước
(OFTC), trụ sở chính ở Luxembourg với 21 công ty con ở nhiều nước trên thế
giới. Ông Đức được cấp vốn một triệu USD.
Tại Thụy Sỹ, Charles Đức cho lập một công ty tài chính, chủ
yếu huy động kiều hối, từ đấy chuyển cho các khách hàng hoặc chuyển về
Intershop, một cơ sở vệ tinh trước đây của Imexco. Lực lượng đầu tiên mà ông
Charles Đức trông cậy là các doanh nhân và trí thức người Việt ở nước ngoài.
Vài tháng sau khi thành lập OFTC, Charles Đức qua Singapore gặp ông Võ Tá Hân,
lúc ấy đang là Tổng Giám đốc của Singapore Finance, Chủ tịch Hội Thương gia
Canada tại Singapore (CBA - Canadian Business Association). Qua trung gian của
Charles Đức, tháng 4-1988, với tư cách Chủ tịch Hội, ông Hân đưa một đoàn gồm
các thương gia của CBA về Sài Gòn.
Trước năm 1989, khủng hoảng lý luận diễn ra sâu sắc trong
các trường đại học, nhất là đối với các bộ môn liên quan đến “chủ nghĩa cộng
sản khoa học”. Sinh viên, đặc biệt là sinh viên đại học kinh tế, “chuyền tay
nhau xem các tài liệu cải cách của Liên Xô, Hungary, những bài viết về nhận
thức lại chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, kể cả dự thảo văn kiện mới của
Đảng. Trong khi đó, chương trình (kinh tế) viết từ năm 1959 vô cùng lạc
hậu”317.
Theo một điều tra của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
chỉ có 17% sinh viên được hỏi cho rằng việc học chủ nghĩa Marx-Lenin là có tác
dụng. “Nguyên nhân chính dẫn đến sự thờ ơ với việc học các môn Marx-Lenin là do
nhà trường đã đồng nhất chủ nghĩa Marx-Lenin với chính trị và dùng môn học này
để minh họa đường lối chính sách của Đảng”318. Từ điều tra này, cuối năm 1988,
Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp có Chỉ thị 12/CT, “bãi bỏ kỳ thi quốc gia
môn lý luận Marx-Lenin”.
Chỉ thị 12/CT đã làm dấy lên một phong trào của sinh viên
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đòi bỏ thi tốt nghiệp môn lý luận
Marx-Lenin. Một số giảng viên đại học ở Thành phố cũng lên tiếng trên báo chí
cho rằng: “Bỏ thi tốt nghiệp môn lý luận Marx-Lenin là một đòi hỏi chính đáng
của sinh viên đại học kinh tế”319. Ngày 7-12-1988, Bộ đã phải gửi Telex cho
trường giải thích, Chỉ thị 12/CT “không điều chỉnh” đối với ngành học kinh tế.
Ngày 10-12-1988, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh quyết định giữ môn Kinh tế chính trị Marx-Lenin trong kỳ thi quốc gia.
Ngày 23-12-1988, các sinh viên Kinh tế năm cuối đã tổ chức một cuộc họp phản
đối quyết định này. Hai tuần sau, Hiệu trưởng Đào Công Tiến phải giải thích:
“20 năm nay và trong quy chế thi tốt nghiệp, môn Kinh tế chính trị được coi là
môn thi tốt nghiệp với tư cách là môn cơ sở của chuyên ngành kinh tế”320.
Cho dù ông Hiệu trưởng nói như vậy và cho dù Kinh tế chính
trị học Marx-Lenin vẫn là một môn học chính trong những thập kỷ tiếp theo, ngay
từ thời điểm ấy, nhu cầu thay đổi để có được một chương trình giảng dạy bắt kịp
nhịp độ chuyển đổi từ “quan liêu bao cấp” sang nền “kinh tế thị trường” thực sự
trở thành nhu cầu tự thân của cả thầy lẫn trò.
Học gần hết chương trình phổ thông của nền giáo dục Sài Gòn,
năm 1977, sinh viên Trần Ngọc Thơ thi vào khoa Tài chính - Kế toán, trường Đại
học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Theo ông Thơ: “Một số sinh viên tốt nhiệp
phổ thông hoặc đã học đại học năm thứ nhất, thứ hai trước năm 1975, biết chút
ít về kinh tế thị trường rất thất vọng về những gì được dạy trong nhà trường
được gọi là đại học kinh tế”. Đầu thập niên 1980, sau khi ra trường, ông Thơ
được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, ông kể: “Hơn 10 năm cứ dạy chính sách chế độ
là chủ yếu. Cứ nghị quyết như thế nào, mình lại lặp lại thế đó. Lúc ấy chúng
tôi cũng rất buồn. May mà có đổi mới”.
Theo Giáo sư Trần Ngọc Thơ, thế hệ của ông tiếp cận với
những kiến thức về kinh tế thị trường bắt đầu từ những bài báo trên các tờ Tuổi
Trẻ và sau đó là Lao Động Chủ Nhật của các tác giả như Phan Tường Vân, Lâm Võ
Hoàng, Trần Bá Tước…321. Những tài liệu kinh tế học được viết trước năm 1975
tại miền Nam của Giáo sư Nguyễn Văn Ngôn, Phó Bá Long… cũng bắt đầu được đem ra
sử dụng.
Ông Thơ thừa nhận, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội có điều
kiện đổi mới hơn và những thay đổi ở đây ảnh hưởng rất mạnh đến giáo trình của
các trường phía Nam. Trong khi đó, trong một nỗ lực cá nhân được sự hỗ trợ của
các quan chức Viện Kinh tế Thành phố, thành viên của Đoàn ông Phan Văn Khải đến
Singapore năm 1988, ông Võ Tá Hân đã chuyển về nước hàng vạn cuốn sách, trong
đó có nhiều cuốn là giáo trình các loại về kinh tế thị trường. Nhân vật đầu
tiên trong Bộ Chính trị tỏ ra am hiểu nhất về kinh tế thị trường không phải là
những người phụ trách về kinh tế mà là Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch322.
Ông Nguyễn Cơ Thạch không chỉ là người trực tiếp soạn thảo Nghị quyết 13 Bộ
Chính trị khóa VI, nghị quyết mở ra một giai đoạn mới trong chính sách ngoại
giao của Việt Nam mà còn là người chủ động đưa tri thức thị trường vào Việt
Nam323.
Sự xuất hiện của các nhà tài trợ quốc tế cũng góp phần rất
đáng kể giúp cho những kiến thức nền tảng về kinh tế thị trường được đưa tới
Việt Nam. Theo Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung324: “Thời đó, các nhà tài trợ không
nhiều nhưng rất quan trọng. Các dự án tài trợ bao gồm giảng dạy tại chỗ, đưa
người đi đào tạo và cung cấp tài liệu. Năm 1989, Quỹ Sida Thụy Điển tài trợ cho
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương tổ chức dịch bộ giáo trình Kinh tế
học của Paul Samuelson. Đây là tài liệu đầu tiên về kinh tế thị trường được
dịch và trở thành giáo trình giảng dạy chính về kinh tế ở Việt Nam kể từ sau
Đổi mới”325.
Lớp bồi dưỡng đầu tiên về kinh tế thị trường do IMF tài trợ,
mở tại Khách sạn Giảng Võ vào đầu năm 1990326. Lớp học chỉ mấy tuần nhưng rất
có ý nghĩa vì học viên toàn là những cán bộ cấp vụ, cấp thứ trưởng, những người
đang trực tiếp có ảnh hưởng lên quy trình hình thành chính sách ở Việt Nam
trong thời kỳ chuyển đổi. Nhiều dự án sau đó của UNDP còn giúp mở rộng đối
tượng tiếp cận với kinh tế thị trường327.
Nguồn viện trợ của UNDP cho chương trình nâng cao năng lực
quản lý được bổ sung thêm bằng những khoản viện trợ song phương của Thụy Điển
và Úc, thông qua các học bổng đào tạo những bộ môn liên quan đến quản lý kinh
tế và quản lý doanh nghiệp. Những nước khác như New Zealand, Indonesia,
Malaysia và Nam Triều Tiên cũng đã hợp tác tạo điều kiện cho những chuyến khảo
sát nước ngoài trong chương trình MDP.
Năm 1990, thông qua World Bank, Chính phủ Nhật tài trợ hai
học bổng đầu tiên cho hai quan chức trẻ thuộc Bộ Ngoại giao đến Harvard, một
người học luật, ông Nguyễn Quý Bính; một người học quản trị kinh doanh, bà Đinh
Thị Hoa. Năm 1992, ba mươi bảy cán bộ cấp chuyên viên đang làm việc trong các
cơ quan chính phủ đã được UNDP cấp học bổng đến Anh học luật, kinh tế học, quản
trị kinh doanh và kinh tế phát triển. Từ đây, chương trình đưa người Việt Nam
đến các nước phương Tây tu nghiệp bắt đầu được các nhà tài trợ tiến hành hằng
năm.
Đặc biệt, từ ngày 20-4 đến 1-5-1992, Văn phòng Hội đồng Bộ
trưởng phối hợp với Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), Viện
phát triển Kinh tế của Ngân hàng Thế giới đã tổ chức hội thảo Kinh tế Việt Nam.
Đây là một hoạt động quan trọng của dự án “Tăng cường quản lý kinh tế” do Văn
phòng Hội đồng Bộ trưởng chủ trì.
Nói là hội thảo, nhưng theo người điều hành dự án này, ông
Trần Xuân Giá, Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng: “Đây là một lớp học thực
sự về kinh tế thị trường mà các giảng viên là ba mươi chính khách, nhà khoa học
nước ngoài; các học viên là sáu mươi tư quan chức Việt Nam gồm các vị bộ
trưởng, thứ trưởng, viện trưởng và hiệu trưởng một số trường đại học kinh tế,
các chuyên viên cao cấp, các nhà khoa học, các giáo sư, các nhà hoạch định
chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam”.
Ông Lý Quang Diệu cũng được mời đến lớp học này như một diễn
giả, tuy nhiên, theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Lý chỉ xuất hiện ở lớp học một lần
để giới thiệu ông Tang I Fang, người mà theo ông Lý, đã đóng một vài trò quan
trọng trong các chính sách phát triển của Singapore”328. Trong suốt tuần lễ
diễn ra hội thảo, theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Lý Quang Diệu trở thành khách
mời riêng của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng”. Ông Võ Văn Kiệt đích thân dẫn ông
Lý đi thăm Việt Nam và “học những bài đầu tiên” về mở cửa và kinh tế thị trường
trực tiếp từ ông Lý.
Chương XVII: Tam quyền
không phân lập
Ngày 29-11-1991, khi phát biểu trước Hội nghị Trung ương 2
bàn về sửa đổi hiến pháp, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia, nhưng có phân công rành mạch”329. Đây là một thời
điểm hiếm hoi mà Đảng Cộng sản Việt Nam rơi vào tình thế hoàn toàn độc lập vì
chưa biết lấy ai làm chỗ dựa330. Nhưng cho dù đơn độc, ý thức hệ chứ không phải
là tương lai dân tộc đã được lựa chọn. Hiến pháp 1992, vì thế, đã không tiếp
cận được những mô hình nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho Việt Nam xây
dựng nhà nước pháp quyền.
Nửa thế kỷ, bốn hiến pháp
Không phải tự nhiên mà Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh “quyền
lực nhà nước là thống nhất”. Trên các diễn đàn góp ý dự thảo hiến pháp lúc bấy
giờ bắt đầu xuất hiện khái niệm “tam quyền phân lập”, đồng thời có nhiều ý kiến
đề nghị khôi phục tinh thần Hiến pháp 1946.
Cho dù Hiến pháp 1946 được mô tả như là “hiến pháp của Hồ
Chí Minh”, việc khôi phục nó chưa bao giờ được công khai đưa ra331. Tuy không
thiết kế một nhà nước hoàn toàn theo mô hình “tam quyền phân lập”, Hiến pháp
1946 đã không hề có bóng dáng của nhà nước Xô viết. Quyết tâm chính trị lớn
nhất lúc đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên định lập trường xã hội chủ
nghĩa.
Trên thực tế, chiến tranh nổ ra chỉ một tháng mười ngày sau
khi Hiến pháp 1946 được Quốc hội thông qua. Bản Hiến pháp vì thế chưa được công
bố332 và cuộc tổng tuyển cử bầu Nghị
viện Nhân dân chưa được tiến hành. Quốc hội lập hiến đứng ra đóng vai trò của
Nghị viện, xưng là Quốc hội khóa I. Chính phủ Liên hiệp Lâm thời tiếp tục vai
trò, nhưng tất nhiên không còn các thành viên của Việt Cách và Việt Quốc333.
Sau Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương, năm
1951, Chính phủ Hồ Chí Minh bắt đầu thể hiện bản chất chính quyền của một nhà
nước giai cấp thay vì chính quyền của các thành phần nhân dân như giai đoạn tập
hợp lực lượng ban đầu. Tinh thần của Hiến pháp 1946 đã hoàn toàn biến mất khi
ngày 4-12-1953 Quốc hội “khóa I” ban hành Luật Cải cách ruộng đất, tước đoạt
ruộng đất của những người bị quy là địa chủ, trái với Điều thứ 12: “Quyền tư
hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm”.
Quyền tự do ngôn luận mà Hiến pháp 1946 minh định, và trên
thực tế khi ấy đang được thi hành dựa trên chế độ báo chí của chính quyền thực
dân Pháp, cũng bắt đầu bị hạn chế sau ngày 14-12-1956, ngày Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh về Chế độ báo chí. Những người còn lại trong Quốc hội được bầu tháng
1-1946 cũng đã đưa tay “khai tử” đứa con đáng tự hào nhất của mình. Năm 1959,
Hiến pháp 1946 bị thay thế, bất chấp nguyên tắc sửa đổi Hiến pháp phải theo
cách thức: “Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; Nghị viện bầu ra một ban
dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng
chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”334.
Mặc dù Hồ Chí Minh đặt vấn đề xây dựng hiến pháp rất sớm335,
Hiến pháp 1959 mới thực sự là hiến pháp của ông. Việc thay thế Hiến pháp 1946
chỉ thực sự được triển khai sau khi Hồ Chí Minh đi dự Hội nghị các đảng cộng
sản và phong trào công nhân quốc tế tổ chức vào tháng 11-1957 tại Moscow, cùng
ký “Tuyên bố chung” thừa nhận: “Kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có ý nghĩa nguyên tắc
đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế”336.
Nhà nước “dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”337 theo Hiến
pháp 1946 đã được thay thế bằng một nhà nước “dựa trên nền tảng liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”338
theo Hiến pháp 1959.
Trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1959 viết: “Nhân dân ta quyết
tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xã hội
chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại… Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao
động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí
Minh”339. Nếu như Hiến pháp 1946 nhấn mạnh đến bình đẳng và tự do của người dân
thì Hiến pháp 1959 nhấn mạnh “trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế
độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”340. Công dân Việt
Nam bắt đầu được khuyến cáo: “Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để
xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước”341.
Hiến pháp 1959 tồn tại hai mươi năm trong giai đoạn miền Bắc
dồn sức cho chiến tranh, ít ai có điều kiện để quan tâm tới việc thực thi pháp
luật. Sau chiến thắng năm 1975, sau khi “hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội”342, tháng 7-1976, Quốc hội đổi tên nước từ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”
thành “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và xác định: “Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”343.
Ngôn từ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được đưa thẳng vào Lời nói đầu của Hiến pháp
1980. Trong khi súng đạn đang nổ hàng ngày ở hai đầu biên cương, ở hậu phương,
dân chúng lại bị hô hào “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”344.
Hiến pháp 1980 thực chất là một bản Hiến pháp 1959 nâng cao
theo hướng “nhà nước chuyên chính vô sản”. Cách tiếp thu kinh nghiệm của các
nước xã hội chủ nghĩa cũng khá vội vàng. Ông Nguyễn Đình Lộc kể: “Khi Chủ tịch
Trường Chinh đi nghiên cứu tại các nước Đông Âu, họ trình bày mô hình hội đồng
nhà nước mà họ đang áp dụng như là một mô hình đầy tính ưu việt. Mình về, bê
gần như nguyên xi vào hiến pháp mới. Không ngờ, họ nói với mình vậy nhưng chỉ
sau đó không lâu họ sửa vì mô hình ấy nhập nhằng vai trò giữa quốc hội và nhà
nước”345.
Hiến pháp 1980 trở thành một bản hiến pháp “đoản mệnh”. Từ
tháng 3-1989, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, bắt đầu đặt vấn đề:
“Cần rà soát lại các văn bản pháp quy hiện hành (kể cả Hiến pháp), bổ sung và
sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới”346. Ngày 30-6-1989, Nghị
quyết Trung ương 6 đã được Quốc hội Khóa VIII triển khai với tinh thần cải cách
cao hơn: Sửa đổi Hiến pháp 1980 “một cách toàn diện”. Cũng trong kỳ họp ấy,
Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp, cử ông Võ Chí
Công347 làm chủ tịch.
Quốc hội có vai trò hơn
Cho dù vẫn bị “lãnh đạo” liên tục từ hậu trường, ở thời điểm
hình thành Hiến pháp 1992, Quốc hội Việt Nam bắt đầu có tiếng nói. Đây cũng là
một thành quả quan trọng của “đổi mới”. Trong nhiều thập niên trước đó, Quốc
hội Việt Nam chỉ tồn tại trên hình thức.
Quốc hội đầu tiên của người Việt Nam đã ra đời trong một
hoàn cảnh khá là đặc biệt. Trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946, 333 đại biểu
quốc hội đã được bầu từ hàng ngàn ứng cử viên. Tuy Việt Minh kiểm soát chặt chẽ
tiến trình bầu cử nhưng việc cho ứng cử tự do đã giúp cho cuộc bầu cử mang một
hình ảnh dân chủ348. Tại các đơn vị bầu cử, số lượng ứng cử viên đông hơn gấp
nhiều lần số đại biểu được bầu. Tỉnh Quảng Nam được bầu mười lăm đại biểu nhưng
có tới bảy mươi tám ứng cử viên. Ở Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh ứng cử, được bầu sáu
đại biểu nhưng có tới bảy mươi bốn người ra ứng cử.
Về danh nghĩa, đây là một cuộc bầu cử đa đảng. Tuy nhiên,
những người trúng cử đều thuộc thành phần Việt Minh, hoặc các cảm tình viên của
Việt Minh và những người được Hồ Chí Minh đưa vào các đảng được lập ra theo chủ
trương của ông349.
Trước đó, vào tháng 9-1945, cùng với hai mươi vạn quân Trung
Hoa Dân quốc do tướng Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy sang Việt Nam với danh nghĩa
giải giáp quân đội Nhật, tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách)
do nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần lãnh đạo cũng theo về350. Trước sức ép của
Tiêu Văn và Lư Hán, con người “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh đã lấn
át nguyên tắc “thần linh pháp quyền” mà ông cùng tuyên bố trong “Việt Nam yêu
cầu ca”. Ngày 24-12-1945, trong Hội nghị liên tịch đảng phái, Hồ Chí Minh đã
đồng ý dành năm mươi ghế đại biểu Quốc hội cho Việt Quốc, hai mươi ghế cho Việt
Cách.
Ông Vũ Đình Hòe nhận xét: “Bổ sung bảy mươi ghế Quốc hội mà
không thông qua tuyển cử bổ sung thì thật là trái ngược với các văn bản Nhà
nước về bầu cử Quốc hội. Pháp chế dân chủ không cho phép làm như vậy”351. Theo
ông Vũ Đình Hòe: “Bác Hồ có hỏi ý kiến tôi và Phan Anh về khía cạnh kỹ thuật,
pháp lý, chúng tôi trả lời, để đảm bảo tôn trọng nguyên tắc dân chủ: Quốc hội
quyết định tất cả”352. Thế là trước phiên họp đầu tiên của Quốc hội, bảy mươi
đại biểu không qua bầu cử này đứng bên ngoài chờ Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo
và xin Quốc hội chuẩn y. Các đại biểu Việt Minh đương nhiên tán thành lãnh tụ
Hồ Chí Minh. Bảy mươi đại biểu Việt Quốc, Việt cách được mời vào Hội trường,
Quốc hội vỗ tay hoan nghênh. Về sau họ được gọi là đại biểu “truy nhận”.
Tuy nhiên, khối đoàn kết dân tộc không thiết lập trên nền
tảng “pháp chế dân chủ” thì cũng không tồn tại lâu bền. Tháng 7-1946, tranh
chấp gay gắt giữa Việt Minh và các phe phái đối lập diễn ra. Các cơ sở của các
đảng phái đối lập, đặc biệt là của Việt Cách, bị Việt Minh tấn công, nhiều đại
biểu của Việt Cách bị bắt. Nguyễn Hải Thần cùng nhiều đồng chí khác của ông
trong Việt Cách, cùng Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và nhiều “đại biểu” Việt
Quốc khác đã phải bỏ trốn, nhiều người phải quay trở lại Trung Quốc. Trong số
năm mươi đại biểu “truy nhận” của Việt Quốc về sau chỉ có Trần Văn Cầu được
công nhận là “đủ tư cách đại biểu Quốc hội”. Trong số hai mươi đại biểu của
Việt Cách chỉ có sáu đại biểu: Lê Viết Cương, Đinh Chương Dương, Lý Đào, Ngô
Văn Hợp, Nguyễn Văn Lưu, Trần Tấn Thọ, được công nhận “đủ tư cách”. Số còn lại
đã bị Quốc hội truất quyền đại biểu353.
Trong số 403 đại biểu được công nhận trong kỳ họp đầu tiên
vào ngày 2-3-1946, đến giữa năm 1946 chỉ
còn 291 người, và tháng 11-1946 khi bỏ phiếu thông qua Hiến pháp 1946, Quốc hội
chỉ còn lại 242 người. Quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, theo tinh thần của Hiến
pháp 1946, chỉ là một quốc hội lập hiến. Tuy nhiên, lấy lý do chiến tranh, Hiến
pháp
1946 đã không được công bố, “Nghị viện Nhân dân” đã không
được bầu để thay thế. Quốc hội lập hiến, kể từ sau Hiến pháp 1959, được gọi là
Quốc hội Khóa I.
Tập hợp được một đội ngũ trí thức tiêu biểu, từng thông qua
bản Hiến pháp 1946 danh tiếng, nhưng trong suốt sáu năm đầu, Quốc hội gần như
không hoạt động. Để rồi sau đó bắt đầu đi ngược lại những gì thiêng liêng mà
các đại biểu đã từng gửi gắm trong Hiến pháp 1946: Từ ngày 1-12 đến ngày
4-12-1953, các đại biểu có mặt ở Việt Bắc được nhóm họp để hợp thức hóa cuộc
“đấu tranh giai cấp” của Đảng bằng việc thông qua Luật Cải cách ruộng đất354.
Từ năm 1954, sau khi phê chuẩn Hiệp định Geneva, chia hai Việt Nam ở Vĩ tuyến
17, Quốc hội Khóa I trở thành Quốc hội của Nhà nước nắm quyền trên miền Bắc355.
Cũng như Xô viết Tối cao của Liên Xô hay Đại hội Đại biểu
Nhân dân Toàn quốc của Trung Quốc, cho dù Hiến pháp vẫn ghi những quyền hành
long trọng, Quốc hội Việt Nam, từ khóa II, chủ yếu thực hiện ba chức năng: Thể
chế hóa hay nói chính xác hơn là hợp thức hóa đường lối chủ trương của Đảng -
chức năng mà Hiến pháp gọi là “lập pháp”; trình diễn sự ủng hộ nhân danh “của
dân” đối với Đảng và Chính phủ356; trình diễn khối đại đoàn kết toàn dân. Ngoài
những đạo luật cơ cấu lại mô hình nhà nước theo Hiến pháp 1959 và Hiến pháp
1980 mà Quốc hội Khóa II và Khóa VII phải làm, từ đầu thập niên 1960 cho đến
cuối thập niên 1980 quyền lực công được vận hành chủ yếu theo mô hình nhà nước
Đảng. Quốc hội có rất ít việc phải “hợp thức hóa”. Các chỉ thị, nghị quyết gần
như có hiệu lực thi hành ngay sau khi được Đảng ban hành357.
Chức năng quan trọng nhất của Quốc hội là nhất trí. Từ khóa
VII trở về trước, Quốc hội thường chỉ họp mỗi năm một lần, mỗi lần chỉ kéo dài
từ ba đến bốn ngày. Do tính long trọng của Quốc hội thống nhất, kỳ họp thứ nhất
của khóa VI mới kéo dài chín ngày; kỳ họp thứ nhất của khóa VII kéo dài mười
ngày. Quốc hội Việt Nam cũng có hình thức họp tổ - bao gồm một số đoàn đại biểu
- như Xô viết Liên Xô. Ở Quốc hội Việt Nam, thảo luận tổ lúc đầu chủ yếu giúp
phát hiện những ý kiến khác với “tinh thần lãnh đạo” để mà “chấn chỉnh”. Ở Xô
viết Liên Xô thời Stalin, những người phát biểu như thế có thể bị thanh trừng.
Những ai được chọn phát biểu trong các phiên họp toàn thể đều phải gửi tham
luận trước cho Văn phòng, Tổng Thư ký Quốc hội sẽ đọc duyệt, nhằm đảm bảo không
để xuất hiện trên Hội trường những ý kiến “lệch lạc”.
Chức năng trình diễn khối đoàn kết toàn dân được thể hiện cả
bằng xương, bằng thịt: công, nông, binh, dân tộc358. Công nhân, nông dân cơ cấu
trong Quốc hội từ khóa VIII trở về trước là theo nghĩa đen. Có đại biểu Quốc
hội là thợ rèn, thợ tiện. Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh còn có đại biểu là một nữ
công nhân quét rác. Ông Hồ Giáo, một người chăn bò nổi tiếng, được đưa vào ngồi
trong Quốc hội tới ba khóa liền (IV, V, VI). Ông Giáo thừa nhận, vốn ít học và
những năm ấy vẫn độc thân, nên ông dồn tất cả tình cảm, tâm trí và sức lực cho
những con bò mà ông yêu quý. Những lần đi dự họp Quốc hội, theo ông Hồ Giáo,
ông phải rất gắng gượng, mỗi khi Quốc hội cần ông lên diễn đàn phát biểu để
chụp hình, có người sẽ viết sẵn cho ông bài phát biểu. Sự chuyển động của Quốc
hội - từ vai trò trang trí cho chế độ đến chỗ trở thành một diễn đàn, nơi các
đại biểu có thể bày tỏ khát khao quyền lực - không nằm ngoài ảnh hưởng của
những chính sách đổi mới trong Đảng, nhưng bản lĩnh của từng cá nhân lãnh đạo
Quốc hội đã đóng một vai trò quyết định.
Từ khóa VII, tuy bầu không khí chính trị vẫn rất chuyên
chính, và chức vụ chủ tịch Quốc hội cũng không có nhiều quyền lực cả trên thực
tế và lý thuyết, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ359
đã làm được một cuộc “cách mạng hình thức” cho Quốc hội. Ngày 24-6-1981,
khi nắm quyền điều khiển kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII, Luật sư Nguyễn Hữu
Thọ đã mời các ủy viên Bộ Chính trị, những người trong các nhiệm kỳ trước vẫn ngự trị trên các
dãy ghế Chủ tịch Đoàn, rời khỏi lễ đài. Quyền chủ trì các phiên họp Quốc hội,
từ hôm đó, được trả lại cho chủ tịch và các phó chủ tịch Quốc hội.
“Cuộc cách mạng” này về sau đã không chỉ tạo ra sự thay đổi
về mặt hình thức. Ngay trong nhiệm kỳ thứ VII, tại kỳ họp thứ 10 vào cuối năm
1985, Đại biểu Đào Thị Biểu, tỉnh ủy viên Tỉnh Cửu Long, thay vì đọc bản tham
luận được “duyệt” trước, đã “rút từ lưng quần” ra một bài phát biểu khác, nêu
đích danh những cá nhân mà theo bà, phải “chịu trách nhiệm trước nhân dân”
trong vụ “giá - lương - tiền”. Sau tham luận về những sai lầm trong cải cách
ruộng đất của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, bản tham luận của bà Đào Thị Biểu đã đưa “sóng gió” nghị trường trở
lại.
Dù vậy, Quốc hội chỉ bắt đầu trở thành một diễn đàn kể từ
khóa VIII, được bầu vào ngày 19-4-1987, gần bốn tháng sau Đại hội Đảng lần thứ
VI. Ở kỳ họp thứ nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã làm không ít đồng chí của
ông ngạc nhiên khi đưa bà Ngô Bá Thành360
lên làm chủ nghiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Chức danh chủ nhiệm Ủy
ban Pháp luật Quốc hội được xếp ngạch tương đương hàm bộ trưởng, và bà Thành
trở thành người đầu tiên từng cộng tác với chế độ Sài Gòn đạt được vị trí
này361. Sự kiện ba mươi ba đoàn đại biểu Quốc hội, đa số là các đoàn miền Nam,
giới thiệu ông Võ Văn Kiệt ra tranh cử chức chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với ông
Đỗ Mười (tháng 6-1988) dù không trở thành một tiền lệ vẫn cho thấy các đại biểu
đã không còn đến Hội trường Ba Đình để chỉ giơ tay như trước.
Chủ tịch Lê Quang Đạo362
đã đóng một vai trò quan trọng trong những bước dân chủ hóa đầu tiên của
Quốc hội. Ông Lê Quang Đạo vốn là trung tướng, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị, nhưng khi trở thành chủ tịch, ông đã điều hành các phiên họp Quốc hội một
cách mềm mỏng và uyển chuyển. Thay vì đứng trên Quốc hội theo thứ bậc trong
Đảng, bằng sự trung thực và lịch lãm của một nhà cách mạng, ông Đạo giúp các
đại biểu có cảm giác an toàn khi đưa ra ý kiến của mình. Cách điều khiển phiên
họp của ông Lê Quang Đạo đã tạo ra đột phá trong sinh hoạt nghị trường, thu hút
được sự chú ý của công chúng vào Quốc hội.
Lịch sử chất vấn chắc chắn phải được đánh dấu bởi sự kiện
ngày 20-12-1991, ngày làm việc trên hội trường của kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá
VIII. Hôm đó, sau khi đọc xong một bản báo cáo, Bộ trưởng Tài chính Hoàng Quy
đã định xách cặp đi xuống, nhưng Chủ tịch Lê Quang Đạo yêu cầu ông đứng lại. Cả
hội trường xôn xao. Hàng chục đại biểu đưa tay xin đặt câu hỏi. Cuộc chất vấn
trực tiếp đầu tiên của Quốc hội Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã diễn ra như vậy
suốt hai giờ liền.
Sự xuất hiện của ông Vũ Mão vào năm 1987 với vai trò chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước cũng đã tạo ra những thay đổi
không nhỏ trong cơ quan này363. Những đóng góp làm thay đổi Quốc hội của ông Vũ
Mão thường bắt đầu từ bản tính thích tìm tòi cái mới của ông. Trước đây, khi
Quốc hội biểu quyết “quyết định những vấn đề lớn của đất nước”, chủ tịch đoàn
kỳ họp chỉ cần hỏi “ai đồng ý giơ tay?” là lập tức cả hội trường giơ tay; rồi
chủ tịch đoàn lại hỏi “ai không đồng ý giơ tay?” là có thể tuyên bố “một trăm
phần trăm” ngay. Nhưng vào cuối thập niên 1980, khi Quốc hội phải biểu quyết
việc chia lại địa giới hành chính của các tỉnh, có những phiên biểu quyết hàng
trăm người giơ tay “không đồng ý”. Trưởng đoàn thư ký, luôn là ông Vũ Mão,
không còn nhàn hạ hô “trăm phần trăm” nữa.
Năm 1989, ông Mão quyết định đặt hàng bên quân đội thiết kế
cho Quốc hội máy đếm khi biểu quyết. Chiếc máy đếm đầu tiên mà Quốc hội Việt
Nam sử dụng chỉ có hai nút, “đồng ý” và “không đồng ý”. Những con số tăng,
giảm, ngập ngừng trên bảng điện đã tạo thêm kịch tính cho hoạt động Quốc hội.
Đầu thập niên 1990 tranh luận xuất hiện thường xuyên hơn trên diễn đàn, nhất là
thời gian Quốc hội thông qua hiến pháp364.
Cũng thời gian đó, khi thăm Nghị viện Đài Loan, ông Vũ Mão
“phát hiện” máy đếm của họ có ba nút: “đồng ý”, “không đồng ý” và “không biểu
quyết”. Theo ông Nguyễn Sỹ Dũng người tháp tùng ông Mão trong chuyến đi này,
ông Vũ Mão quyết định thiết kế máy biểu quyết mới “theo chuẩn quốc tế”. Nhưng
trên ông Vũ Mão lúc đó còn có một chức danh trung gian: tổng thư ký Quốc hội và
Hội đồng Nhà nước. Nắm chức vụ này lúc bấy giờ là ông Nguyễn Việt Dũng, một con
người cực kỳ nguyên tắc365. Trước một chuyến công tác, ông Vũ Mão giao cho Thư ký Nguyễn Sỹ Dũng phải thuyết phục ông Nguyễn Việt Dũng.
Thay vì gặp tổng thư ký, ông Sỹ Dũng thảo một tờ trình để
một phó chủ nhiệm Văn phòng ký đưa thẳng lên chủ tịch Quốc hội. Ông Lê Quang
Đạo nhất trí liền. Nhưng để lệnh của chủ tịch có thể thi hành, vẫn phải qua
tổng thư ký. Ông Sỹ Dũng lại phải đi gặp ông Việt Dũng. Vừa nghe tới cái nút
thứ ba, “không biểu quyết”, ông Việt Dũng nói: “Không được, đã là đảng viên thì
chính kiến phải rõ ràng”. Ông Sỹ Dũng thuyết phục: “Không nên đẩy những người
đang cân nhắc vào thế phải ủng hộ hay chống. Cháu vẫn cho rằng những người
không biểu quyết vẫn tích cực hơn là chống ạ”. Ông Việt Dũng: “Mày mới về đây,
biết gì”. Ông Sỹ Dũng đành nói thẳng: “Thưa bác, Chủ tịch Lê Quang Đạo đã đồng
ý rồi”. Phàm là những người nguyên tắc thì nguyên tắc quan trọng nhất mà họ
tuân thủ là cấp trên, nghe tới đó, ông Việt Dũng nói: “Chủ tịch đã đồng ý thì
cứ thế mà làm”.
Khi mới về Văn phòng, ông Nguyễn Sỹ Dũng tìm thấy trong đống
thư từ có một bức thư của Liên minh Quốc hội Thế giới gửi cho quốc hội các nước
giới thiệu chương trình tài trợ giúp “nâng cao năng lực các thiết chế dân
chủ”366. Nguyễn Sỹ Dũng xin phép ông Vũ Mão cho “mở rộng hợp tác quốc tế”, ông
Vũ Mão đồng ý. Ông Dũng soạn một lá thư đứng tên bà Nguyễn Thị Bình, chủ nhiệm
Ủy ban Đối ngoại Quốc hội. Bức thư được bà Bình ký gửi đi. Mấy tháng sau, Liên
minh Quốc hội Thế giới cử ông Martin Chungong, một chuyên gia người châu Phi
tới Việt Nam.
Chương trình hợp tác đầu tiên ký với tổ chức này đã giúp Văn
phòng Quốc hội lập mạng máy tính và lắp đặt phần mềm ghi tốc ký biên bản. Quốc
hội trở thành cơ quan nhà nước đầu tiên sử dụng máy tính ở Việt Nam, và kể từ
lúc đó, từng lời phát biểu trên hội trường của các đại biểu được ghi lại và lưu
trữ. Từ năm 1993, Văn phòng Quốc hội bắt đầu tiếp nhận sự hỗ trợ của các tổ
chức quốc tế thông qua các hoạt động hợp tác: dự án nâng cao năng lực các thiết
chế dân chủ của Liên minh Quốc hội Thế giới, các dự án nâng cao năng lực thể
chế của UNDP, dự án hỗ trợ các cơ quan dân cử của Đan Mạch, dự án phát triển
thông tin công chúng và năng lực giám sát của Thụy Điển367.
Tiến trình này đã ảnh hưởng sâu sắc tới Quốc hội Việt Nam.
Toàn bộ các khái niệm truyền thống và hiện đại về nghị viện, về thông tin công
chúng, kiến thức chuyên sâu về công cụ và hiệu năng giám sát của Quốc hội, kiến
thức căn bản về lập pháp, về nhà nước pháp quyền, chức năng đại biểu… đã đến
với Quốc hội Việt Nam thông qua các dự án hợp tác quốc tế368.
Cuộc chất vấn trực tiếp (Bộ trưởng Tài chính Hoàng Quy) diễn
ra ngày 20-12-1991 sẽ không thu hút sự chú ý của công chúng như thế nếu ngay
sau đó không được tờ Tuổi Trẻ tường thuật chi tiết. Phản ứng của bạn đọc với
những bài tường thuật Quốc hội, bắt đầu trên Tuổi Trẻ, đã khiến cho báo chí
thay đổi cách tiếp cận các sự kiện diễn ra ở Hà Nội. Thay vì dùng những bản tin
công thức của Thông tấn xã hoặc của báo Nhân Dân, các báo - đặc biệt là báo chí
Sài Gòn - bắt đầu gửi phóng viên về Thủ đô. Chính trị không còn là một đề tài
tẻ nhạt, số lượng phát hành của những tờ báo như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Người
Lao Động… đã tăng rõ rệt mỗi kỳ Quốc hội họp.
Nhưng báo chí chỉ thực sự khiến cho Quốc hội tạo được ảnh
hưởng trong đời sống chính trị của Việt Nam khi các phiên chất vấn và sau đó là
các phiên thảo luận về tình hình kinh tế xã hội bắt đầu được truyền hình trực
tiếp. Ý tưởng truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn được ông Vũ Mão đề xuất
áp dụng vào năm 1998. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau khi thảo luận đã đồng ý với
đề nghị này.
Ở thời điểm ấy, đó là một sáng kiến chính trị táo bạo.
Thường vụ quyết định phải báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị. Sau khi cân nhắc, Bộ
Chính trị chấp nhận. Tuy nhiên, khi đảng đoàn Quốc hội họp với Ban Cán sự Đảng
của Chính phủ để chính thức triển khai, Ban Cán sự Đảng của Chính phủ đã không
đồng ý. Cận ngày chất vấn, việc truyền hình trực tiếp hay không vẫn còn ý kiến
đôi co. Tuy nhiên, ông Vũ Mão vẫn triển khai kế hoạch với Đài Truyền hình Trung
ương.
Sự việc có nguy cơ bất thành khi ông trưởng Ban Văn hóa - Tư
tưởng Trung ương gặp ông An Duyệt, phó Ban Thời sự VTV, nói: “Không nên! Truyền
hình trực tiếp chất vấn và trực tiếp trả lời chất vấn dễ làm lộ bí mật và dễ
làm mất uy tín cán bộ lãnh đạo”. An Duyệt, người phụ trách nhóm làm truyền hình
trực tiếp, vội vàng chạy đến gặp ông Mão, trưởng đoàn thư ký kỳ họp. Vũ Mão
kiên quyết: “Tôi nói với các bạn là Bộ Chính trị đã cho phép, cứ làm”. Nhưng
sau đó ông trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa vẫn giữ thái độ kiên quyết với ông An
Duyệt: “Đã nói rồi, các cậu làm mà xảy ra chuyện gì thì các cậu phải chịu trách
nhiệm”. Trưa hôm đó, ông Vũ Mão cùng An Duyệt phải đến xin ý kiến Chủ tịch Quốc
hội Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Phan Văn Khải.
Cả Thủ tướng lẫn Chủ tịch Quốc hội đều e ngại. Chủ tịch Nông
Đức Mạnh nói: “Hay là Đài Truyền hình vẫn cứ ghi hình toàn bộ phiên chất vấn,
sau đó rà lại, bỏ bớt những chỗ gay cấn, phức tạp, đến tối mới đưa lên để nhân
dân xem”. Ông Vũ Mão trấn an: “Mọi việc đã được chuẩn bị chu đáo, với lại, việc
truyền hình trực tiếp đã được thông báo rộng rãi, nhân dân đang chờ, sẽ khó
giải thích nếu không có lý do gì mà việc truyền hình trực tiếp lại không được
thực hiện”. Ông Mạnh im lặng, ông Vũ Mão yêu cầu ông An Duyệt tiến hành. Từ ngày
14-5-1998, các phiên chất vấn của Quốc hội đều được Đài Truyền hình Việt Nam
truyền hình trực tiếp.
Người nhận được nhiều lợi ích chính trị nhất từ hoạt động
này không phải là ông Vũ Mão mà chính là Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh. Đóng
góp lớn nhất của ông Nông Đức Mạnh nằm ở chỗ ông không đủ sức để cản trở các
sáng kiến cải cách. Khi điều khiển các phiên họp, ông Mạnh cũng không tham gia
vào nội dung và không ngắt lời các đại biểu. Không khí tranh luận, vì thế, diễn
ra có vẻ dân chủ hơn. Ông Mạnh đã điều hành nghị trường Việt Nam giống như một
người phát ngôn (speaker) trong quốc hội của quốc gia dân chủ. Hình ảnh ông
Mạnh, tóc tai chải chuốt, ăn nói mềm mỏng và đôi khi đột nhiên lóe sáng369 trước ống kính truyền hình dần dần được công
chúng thừa nhận như là một nhà lãnh đạo.
Người kế nhiệm, ông Nguyễn Văn An, thì hoàn toàn ngược lại.
Ông Nguyễn Văn An ý thức khá rõ vai trò của truyền hình. Ông là nhà lãnh đạo
cấp cao đầu tiên của Việt Nam sử dụng email và thường xuyên truy cập thông tin
trên internet. Các phiên chất vấn mà ông An chủ trì trở nên căng thẳng hơn vì
ông thường can thiệp vào nội dung, đôi khi tỏ thái độ gay gắt với các bộ
trưởng.
Cuối các phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đều
có một văn bản kết luận, đánh giá trả lời chất vấn của các thành viên Chính
phủ. Chủ tịch nghị viện của các quốc gia dân chủ không điều hành quốc hội
theo cách của ông Nguyễn Văn An, nhưng ở
Việt Nam thì có vẻ như ông đã thành công. Cách điều hành của ông An làm cho chủ
tịch Quốc hội trở nên quyền lực hơn. Các thành viên chính phủ ý thức được sinh
mệnh chính trị của họ có thể bị lung lay nếu ông An muốn.
Trong năm đầu nhiệm kỳ của ông Nguyễn Văn An, tháng 11-2001,
Quốc hội đã sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội, trong đó có đề cập đến quyền bỏ
phiếu tín nhiệm “những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”
như chủ tịch nước, thủ tướng, viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao, chánh án Tòa
án Tối cao và các bộ trưởng. Nhưng quy trình được thiết kế trong Luật đã khiến
cho quyền này không thể thực hiện370.
Sau Hiến pháp 1992, mô hình “Nhà nước Đảng” đã không còn vận
hành một cách công khai. Quyền lực thực tế lặng lẽ lùi vào phía sau, Quốc hội
trở thành nơi bộc lộ những xung đột và đôi khi trở thành công cụ giải quyết
xung đột quyền lực của các bên. Việc tiếp cận với các khái niệm phổ quát và
nhận thức được vai trò chung của nghị viện cũng làm thay đổi nhận thức của một
số cá nhân, nhất là khi trong Quốc hội bắt đầu có nhiều người chuyên trách.
Khái niệm “quốc hội chuyên nghiệp” được Đoàn Đại biểu Quốc
hội Thành phố Hồ Chí Minh đặt ra trước và trong thời gian thảo luận Hiến pháp
1992 một cách công khai371. Như các đề nghị về “tam quyền phân lập” hay cho tư
nhân sở hữu đất đai, ý tưởng chuyên nghiệp hóa quốc hội đã không được chấp
nhận372.
Tháng 4-1992, khi thông qua Luật Tổ chức Quốc hội, Quốc hội
khóa VIII đã đưa vấn đề chuyên trách vào Luật một cách dè dặt: “Trong số các
đại biểu Quốc hội, có những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách và có
những đại biểu làm việc theo chế độ không chuyên trách. Số lượng đại biểu Quốc
hội làm việc chuyên trách do Quốc hội quyết định”. Số lượng đại biểu chuyên
trách làm việc thường xuyên ở 35 Ngô Quyền từ đó chỉ tăng lên nhỏ giọt373.
Tháng 8-1999, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII họp
lần thứ 7, đưa vào Nghị quyết một câu ngắn trong phần nói về tổ chức bộ máy của
Quốc hội: “Từng bước tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”. Năm 2001, tại
kỳ họp thứ 10, Luật Tổ chức Quốc hội được sửa, theo đó: “Số lượng đại biểu Quốc
hội hoạt động chuyên trách có ít nhất là 25% tổng số đại biểu”374.
Chủ trương cơ cấu 25% đại biểu chuyên trách, đã làm thay đổi
không ít số phận cán bộ. Tiến sĩ Trịnh Huy Quách, khi đang làm thư ký cho Chủ
tịch Nông Đức Mạnh, thường vẫn đi từ nhà riêng ở phía Hồ Tây đến 35 Ngô Quyền
bằng xe đạp. Ngày 31-7-2002, ông được bầu làm phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và
Ngân sách. Từ cán bộ có hàm cấp vụ lên cấp thứ trưởng, từ sáng sớm ngày
1-8-2002, trước nhà ông Quách bắt đầu có một chiếc xe hơi mang biển xanh 80B
đậu chờ đưa rước. Tuy nhiên, với những cán bộ đang ở các vị trí quyền lực thì
việc bị đưa sang làm chuyên trách Quốc hội cũng giống như bị đặt vào thế “dự bị
hưu” trừ khi họ ý thức được tầm quan trọng của vai trò mới.
Đại biểu chuyên trách Nguyễn Minh Thuyết đã đi vào lịch sử
giám sát của Quốc hội khi ngày 1-11-2010 công khai đưa ra đề nghị thành lập ủy
ban độc lập điều tra để bỏ phiếu tín nhiệm thủ tướng375. Nếu như câu chuyện của
bà Đào Thị Biểu chỉ được nhắc lại sau hàng chục năm, thì đề nghị của ông Nguyễn
Minh Thuyết ngay lập tức được truyền hình trực tiếp. Cho dù đề nghị của ông bị
bác376, ảnh hưởng chính trị của nó có sức lan tỏa ngay. Nhưng những đại biểu
như Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết ngay sau đó đã không được cơ cấu lại. Sau mỗi
nhiệm kỳ, chỉ có trên dưới 30% số đại biểu đương nhiệm được Đảng phân công ra
ứng cử. Nguyên tắc một người không giữ một chức vụ quá hai nhiệm kỳ lẽ ra chỉ
áp dụng cho các chức danh hành pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng cho cả
những cán bộ dân cử có thể dẫn sự đổi mới của Quốc hội đi “quá đà”.
Nhiều đại biểu, đầu nhiệm kỳ chưa biết nghị trường là gì,
cuối nhiệm kỳ bắt đầu quen việc và có tiếng nói độc lập thì không còn được ra
ứng cử nữa. Thất thoát thể chế rất lớn. Cứ mỗi đầu nhiệm kỳ, Quốc hội lại phải
tổ chức các lớp dạy các ông nghị cách làm đại biểu trong khi những đại biểu
rành rẽ công việc lập pháp và giám sát thì bị loại dần ra khỏi nghị trường.
Thủ tướng và “người đứng đầu”
Tháng 8-1991, ông Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng. Chính phủ của ông khi ấy vẫn hình thành dựa trên nguyên tắc của
Hiến pháp 1980. Nhưng, thay vì giữ sáu phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng như kế
thừa, ông Kiệt chỉ đề cử ba phó chủ tịch377.
Ngay sau khi được Quốc hội bầu, chiều ngày 9-8-1991, ông Võ
Văn Kiệt giải thích: “Đây là hướng đổi mới về tổ chức nhà nước nói chung và tổ
chức chính phủ nói riêng. Hội đồng Bộ trưởng bớt các phó chủ tịch, bộ bớt các
thứ trưởng, ban bớt các phó ban… để làm sao tập trung trách nhiệm của người
đứng đầu”378. Đây là mô hình mà theo ông Kiệt sẽ từng bước được áp dụng ở các
địa phương379. Lúc ấy, ông Kiệt tỏ ra rất lạc quan: “Một khi đã phân định rõ
quản lý nhà nước bằng pháp luật, phân định rõ trách nhiệm của trung ương, địa
phương thì số cấp phó không chỉ là ba mà có khi chỉ cần một là đủ”380.
Ông Võ Văn Kiệt đã hình thành bộ máy “Hội đồng Bộ trưởng”
theo phương án chính phủ mà thủ tướng có vai trò như người đứng đầu, trong khi
ở thời điểm ấy Ban Soạn thảo Hiến pháp vẫn thiết kế mô hình nhà nước với nhiều
phương án.
Dự thảo I đã từng thiết kế định chế chủ tịch nước với những
quyền hạn gần như chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946. Quốc hội theo Dự thảo này
không có cơ quan thường vụ - hội đồng nhà nước, đoàn chủ tịch hay ủy ban thường
vụ. Dự thảo I cũng quy định rõ lượng đại biểu chuyên trách ở Hội đồng Dân tộc
là 1/3, ở các ủy ban là 1/2; bỏ hội đồng nhân dân ở các quận, huyện, phường và
thị xã. Tháng 5-1991, Dự thảo I được đưa ra lấy ý kiến cán bộ trung, cao cấp.
Tuy phương án nguyên thủ một người không bị bác hẳn, nhưng, trong Dự thảo II,
được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trình bày ngày 27-7-1991 trước kỳ
họp thứ 9 của Quốc hội khóa VIII, Ban Soạn thảo đã phải đưa thêm phương án
nguyên thủ tập thể: đoàn chủ tịch quốc hội.
Quốc hội đã dành trọn ngày 1-8-1991 để thảo luận về Dự thảo
II. Chỉ có bốn ý kiến đồng ý với phương án II vì cho rằng không nên tập trung
quyền vào tay một người, trong khi tám ý kiến khác phát biểu trong phiên họp
toàn thể đều tán dương phương án I. Các đại biểu cho rằng cơ chế tập thể được
áp dụng quá nhiều, đã có Quốc hội giám sát nên không lo cá nhân lạm quyền381. Phương
án lập chính phủ thay cho Hội đồng Bộ trưởng được ủng hộ cao, nhiều đại biểu
còn đề nghị tăng cường trung ương tập quyền bằng cách để thủ tướng bổ nhiệm chủ
tịch ủy ban hành chính tỉnh thành, chủ tịch cấp trên bổ nhiệm chủ tịch ủy ban
cấp dưới.
Ngày 29-11-1991, tại Hội nghị Trung ương 2, Ủy ban Sửa đổi
Hiến pháp kiến nghị lập thiết chế chính phủ và thủ tướng chính phủ thay cho hội
đồng bộ trưởng. Hiến pháp trao cho thủ tướng đủ quyền hạn để thực thi nhiệm vụ,
trong đó có quyền lựa chọn bộ trưởng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, bổ nhiệm người
đứng đầu cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp theo đề nghị của hội đồng nhân
dân cùng cấp, và thống nhất điều hành bộ máy hành chính nhà nước thông suốt từ
trung ương đến cơ sở.
Hội nghị Trung ương 2 đã đồng ý với đề nghị này của Ủy ban
Sửa đổi Hiến pháp nên trong bản Dự thảo III công bố lấy “ý kiến nhân dân” ngày
30-12-1991, phương án chính phủ đã được đưa ra để thay thế hội đồng bộ trưởng,
thủ tướng được dự kiến trao cho nhiều quyền hơn. Quốc hội chỉ bầu thủ tướng còn
các phó thủ tướng và bộ trưởng thì quốc hội không bầu mà phê chuẩn theo đề nghị
của thủ tướng. Thủ tướng còn có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các thứ trưởng, bổ
nhiệm miễn nhiệm và điều động chủ tịch, các phó chủ tịch ủy ban hành chính cấp
tỉnh, thành. Hội đồng nhân dân các cấp chỉ còn là cơ quan đại biểu của dân thay
vì là cơ quan quyền lực cao nhất tại địa phương…
Trong Dự thảo IV được Ủy ban Sửa đổi Hiến pháp gửi tới các
đại biểu Quốc hội vào ngày 14-3-1992, định chế chủ tịch nước đã được đưa vào
phương án chính thức, trong khi, quốc hội có một cơ quan thường trực là ủy ban
thường vụ. Định chế hội đồng nhà nước vẫn được đưa vào như một phương án phụ để
Quốc hội thảo luận. Mô hình chính phủ và quyền hạn của thủ tướng được giữ như
Dự thảo III nhưng thủ tướng chỉ phê chuẩn kết quả bầu chủ tịch ủy ban tỉnh
thành của hội đồng nhân dân thay vì bổ nhiệm. Đây là phương án đã được đưa vào
hiến pháp. Mô hình chính phủ còn tiếp tục được điều chỉnh chỉ một thời gian
ngắn sau khi Hiến pháp 1992 có hiệu lực382.
Các cơ quan chính phủ thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ
tướng Phan Văn Khải đều được chuyển dần từ vai trò cơ quan chủ quản, trông coi
sản xuất kinh doanh của khối quốc doanh, sang vai trò quản lý nhà nước với tất
cả các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, cả hai ông đều chưa tách bạch được
chức năng hành pháp chính trị với hành chính công vụ. Cải cách hành chính vì
thế không thể đi tới tận cùng, bộ máy các bộ ngành tuy có sắp xếp lại, có giảm
về đầu mối vẫn cứ lần lượt phình ra383.
Biên chế tăng một phần là do kinh tế phát triển, nhu cầu
hành chính trong xã hội tăng, nhưng chủ yếu do các bộ ngành vẫn bám giữ các đặc
quyền nhà nước thông qua việc duy trì các thủ tục. Cho dù xây dựng kinh tế thị
trường, mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh
nghiệp vẫn là mối quan hệ “xin - cho”.
Chia tỉnh
Ngay trong giai đoạn “tiền hiến pháp”, địa giới hành chính
hình thành dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn đã bắt đầu bị phá vỡ. Các địa phương
gây áp lực rất lớn để đòi chia tỉnh.
Gần năm tháng sau khi Sài Gòn sụp đổ, ngày 20-9-1975, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 245, quyết định sáp nhập năm mươi hai tỉnh nhỏ với nhau
thành hai mươi mốt tỉnh lớn, “nhằm xây dựng tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế
hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu
cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”.
Ở miền Nam384, có nơi ba, bốn tỉnh bị yêu cầu nhập lại làm
một như: Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh; Long Châu Tiền, Sa Đéc, Kiến
Tường, Mỹ Tho, Gò Công, Long An, Bến Tre. Ở miền Trung, Quảng Bình - một tỉnh
Bắc giới tuyến - bị nhập với Thừa Thiên và Quảng Trị. Ở miền Bắc, Y ên Bái, Lào
Cai cũng bị yêu cầu nhập với Nghĩa Lộ… Tuy nhiên, tiến trình thi hành Nghị
quyết 245 diễn ra không đơn giản. Năm 1976, việc phân chia lại địa giới hành
chính mới chính thức bắt đầu, theo đó, thay vì hợp thành ba mươi ba tỉnh, thành
như Nghị quyết 245, số tỉnh, thành mới là ba mươi chín.
Không đợi đến khi công cuộc làm ăn lớn nhằm “đưa cả nước
tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội” thất bại, ngày 29-12-1978, trước
khi cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc nổ ra, tỉnh Cao Lạng đã được tách
về như cũ thành hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI,
không khí độc đoán trong Đảng giảm dần, các địa phương bắt đầu bộc lộ mâu
thuẫn. Ở Bình Trị Thiên dân Huế than: “Ơi Huế của ta, hai phần ba là Quảng
Trị…”. Ở Nghệ Tĩnh dân Hà Tĩnh nói: “Nhập tỉnh cũng Vinh dự, tách tỉnh cũng
Vinh dự”385.
Trung ương buộc phải chấp nhận tách các tỉnh ra “cho phù hợp
với trình độ quản lý”. Ngày 30-6-1989, Quốc hội biểu quyết: tách Bình Trị Thiên
về như cũ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế; tách Nghĩa Bình thành Quảng
Ngãi và Bình Định; tách Phú Khánh thành Phú Y ên và Khánh Hòa. Từ ba mươi chín
tỉnh thành, năm 1989, cả nước có bốn mươi bốn tỉnh thành. Nhưng địa phương nào cũng chất chứa các vấn đề nội bộ, các
tỉnh tách đợt đầu đã tạo ra phản ứng dây chuyền.
Trong năm 1991, có tới ba đợt tách tỉnh: Ngày 12-8-1991, Hà
Sơn Bình được tách ra thành Hà Tây và Hòa Bình; Gia Lai-Kon Tum được tách ra
thành Gia Lai và Kon Tum. Tháng 10-1991, Hoàng Liên Sơn được tách thành Lào Cai
và Y ên Bái; Hà Tuyên được tách thành Tuyên Quang và Hà Giang. Ngày 26-12-1991,
Hà Nam Ninh tách thành Nam Hà và Ninh Bình; Thuận Hải được tách thành Bình
Thuận và Ninh Thuận; Cửu Long được tách thành Vĩnh Long và Trà Vinh; Hậu Giang
được tách thành Cần Thơ và Sóc Trăng. Số địa phương năm 1991 là năm mươi ba.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngày 6-11-1996, lại thêm một
đợt tách tỉnh khác: Bắc Thái được tách thành Bắc Cạn và Thái Nguyên; Hà Bắc
được tách thành Bắc Giang và Bắc Ninh; Nam Hà được tách thành Hà Nam và Nam
Định; Quảng Đà được tách thành Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng; Minh Hải được
tách thành Bạc Liêu và Cà Mau. Cuối kỳ họp này, ngày 26-11-1996, Quốc hội phải bỏ
phiếu lại để tách Vĩnh Phú thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Đầu năm 1997, Sông Bé được tách thành Bình Dương và Bình
Phước; Hải Hưng được tách thành Hải Dương và Hưng Y ên. Số tỉnh thành cả nước
tăng lên sáu mươi mốt. Ngày 1-1-2004, tách luôn hai tỉnh còn lại: Lai Châu
thành Lai Châu và Điện Biên; Đăk Lăk thành Đăk Lăk và Đăk Nông. Nhưng cơ cấu
hành chính không dừng lại con số của năm 1997 với sáu mươi bốn tỉnh thành386.
“Công nông hoá” tư pháp
Chiều ngày 5-10-1992, Quốc hội đã quyết định để Bộ Tư pháp
phối hợp với Tòa tối cao quản lý tòa địa phương về mặt tổ chức với 292 phiếu
thuận, 71 phiếu chống, sau hai ngày tranh luận gay gắt về hai phương án: Bộ Tư
pháp phối hợp với Tòa án Nhân dân Tối cao quản lý tòa địa phương hay để cho Tòa
án Tối cao quản lý tòa theo ngành dọc.
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Phạm Hưng ủng hộ phương án
hai và có ý chỉ trích ngành tư pháp, nơi soạn thảo Dự luật Tổ chức Tòa án, tự
trao cho mình quyền quản lý các tòa cấp dưới. Nhưng, Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc
cho rằng, tòa án không phải là một cơ quan hành chính để cấp trên quản lý cấp
dưới mà là một cơ quan xét xử. Theo ông, việc tòa án cấp dưới phụ thuộc tòa án
cấp trên về mặt tổ chức là nguyên nhân nảy sinh hiện tượng thỉnh thị án, hiện
tượng các thẩm phán khi xét xử đã có sẵn bản án bỏ túi.
Một “sách trắng” mà Bộ Tư pháp gửi đến các đại biểu Quốc hội
tại kỳ họp đó cho biết: Nhiều tòa án cấp tỉnh đã xếp lịch cụ thể để lên thỉnh
thị án. Năm 1988, do tòa hình sự Tòa án Nhân dân Tối cao có văn bản chỉ thị tòa
án Hà Nam Ninh xử một bị cáo năm năm tù mà bị cáo này đã bị ức chế, dùng súng
bắn hai cán bộ tòa án rồi tự sát.
Những nỗ lực của Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc có tác động đáng
kể đến cải cách tư pháp thời thập niên 1990. Tuy nhiên, một mặt do tư pháp Việt
Nam không chỉ lệ thuộc vào mô hình mà nó được thiết kế, mặt khác, ngay từ lúc
ban sơ, “tam quyền phân lập” đã không được những người khai sinh chính thể “dân
chủ cộng hòa” tán thành, nên cũng như những quyền tự do khác, quyền được thụ
hưởng công lý của người Việt Nam đã không được mở ra đúng mức.
Trong quá trình hình thành Hiến pháp 1946, trong nội bộ Ban
Dự thảo và trên báo chí đã từng có nhiều cuộc tranh luận. Theo Bộ trưởng Tư
pháp Vũ Đình Hòe, Hồ Chí Minh không đánh giá cao mô hình nhà nước theo kiểu tam
quyền phân lập. Ông muốn dùng kinh nghiệm xây dựng chính quyền nhân dân trong
các căn cứ địa, muốn tập trung cả ba quyền cho cơ quan đại diện của toàn dân.
Hồ Chí Minh cho rằng các nhánh quyền không cần giám sát lẫn nhau vì mặt trận
vừa là một cơ quan giám sát vừa là chỗ dựa cho nhà nước387.
Tòa án bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với tư cách là một nhánh
quyền lực độc lập kể từ khi người Pháp thiết lập quyền cai trị trên các vùng
nhương đia: Nam Kỳ, Đa Năng, Ha Nôi va Hai Phong. Việc xư an, thoạt đầu hoàn
toàn do cac nha hanh chính ngươi Phap đảm trách. Kể từ năm 1921, ơ Nam Ky,
nhiêu vi thâm phan ngươi Viêt đã được bổ nhiệm đê xet xư các vụ hình sự đối với
cac nguyên va bi cao nói tiếng Việt. Ở các xứ ngoài Nam Kỳ, bên canh cac “toa
Nam án” do cac quan tinh điều khiển theo tô chưc tư phap cua Triêu Nguyên, co
nhưng toa an Phap đăt dươi sư điêu khiên cua các viên công sư388.
Trong thời kỳ tiền hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 13, ngày 24-1-1946, quy định: “Tòa án sẽ độc lập với các cơ quan hành
chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ xử trong vòng pháp luật và công lý. Các cơ quan
khác không được can thiệp vào việc tư pháp”. T ư pháp theo thiết kế của Hiến
pháp 1946 cũng “độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy “các viên thẩm phán đều
do chính phủ bổ nhiệm”389 cơ quan tư
pháp không thiết lập theo các cấp hành chính như về sau mà thiết lập theo cấp
xét xử: toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Tiến trình xét xử phải theo nguyên tắc: “các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp
luật, các cơ quan khác không được can thiệp”390. Nhưng, chỉ mấy năm sau đó,
chính Hồ Chí Minh sẽ từ bỏ dần những nguyên tắc này.
Tại “An toàn khu”, theo Bộ trưởng Lê Văn Hiến: “Vấn đề tư
pháp - hành chính lâu nay cứ lủng củng mãi, mỗi bên đều có sự than phiền. Tư
pháp trách hành chính lạm quyền và lộng quyền, bất chấp luật lệ, nhân tình thế
chiến tranh mà thi hành nhiều thủ đoạn tổn thương đến quyền tự do cá nhân. Hành
chính tố cáo tư pháp lợi dụng nguyên tắc độc lập mà đi dần đến chỗ độc lập với
chính quyền, có khi lấy luật pháp để bảo vệ những hành vi phản động”391.
Tháng Giêng 1948, trong một cuộc họp mở rộng, Hồ Chí Minh và
Tổng bộ Việt Minh đã yêu cầu các ngành: “Ra sức trừ bỏ những tệ như: Việt Minh
lấn quyền hành chính… Mặt trận và bộ đội xung đột và tị nạnh nhau… Kháng chiến
kiêm hành chính và chuyên môn (nhất là tư pháp) xung đột nhau”392. Nhưng, khi
xung đột tư pháp - hành chính không dừng lại ở cấp huyện, tỉnh thì chính Hồ Chí
Minh cũng phản ứng393.
Ngoài xung đột giữa giới tư pháp với giới hành chính, theo
ông Vũ Đình Hòe, khía cạnh sâu sắc hơn còn là xung đột giữa Đảng và các trí
thức, giữa Đảng Cộng sản và những người thuộc hai đảng Xã hội và Dân chủ. Từ
năm 1950, tuy đảng viên Đảng Dân chủ Vũ Đình Hòe vẫn còn là Bộ trưởng Tư pháp,
nhưng quyền lực trên thực tế nằm trong tay Thứ trưởng Trần Công Tường, một cán
bộ cao cấp của Đảng Cộng sản. Không cần trao đổi với bộ trưởng, ông Tường đã
“cùng với chi bộ” của ông chuẩn bị ba dự án sắc lệnh đề cập đến ba vấn đề thay
đổi căn bản nền tư pháp.
Hơn một tháng sau khi “cướp chính quyền”, ngay 10-10-1945,
Chủ tịch Hô Chi Minh ký Sắc lênh 90, tạm thời áp dụng các nguyên tắc dân sự ghi
trong Dân phap điên Băc Ky va Trung Ky, Phap quy giam yêu 1883 thi hanh ơ Nam
Ky. Theo ông Vũ Đình Hòe, trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh
cũng đã ra lệnh giữ lại các luật lệ của chế độ cũ không trái với chế độ mới.
Nhưng, đến năm 1950, Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghe và đồng ý với đề xuất của
ông Trần Công Tường, thiết lập ba nguyên tắc cơ bản của dân luật dựa trên ba
nguyên tắc tương ứng của bộ Dân luật Nga Xô năm 1922, được soạn thảo dưới sự
chủ trì của Lenin.
Thay vì tuân thủ nguyên tắc “quyền tư hữu được nhà nước bảo
hộ” theo Hiến pháp 1946, Sắc lệnh 97 của Hồ Chí Minh quy định rằng: “Các quyền
dân sự của công dân chỉ được thực hiện và bảo vệ khi công dân sử dụng các quyền
ấy của mình một cách phù hợp với quyền lợi của nhân dân… Công dân chỉ hành xử
quyền tư hữu trong phạm vi phù hợp… Tòa án nhân dân có thể hủy bỏ bất kỳ hợp
đồng nào ký kết giữa hai công dân, nếu sự chênh lệch quá đáng về tài sản giữa
họ đối với nhau”394.
Ông Trần Công Tường còn đề nghị xóa bỏ chế độ luật sư của
Pháp để lại, thay bằng chế độ bào chữa viên nhân dân, để cải tiến triệt để việc
xử án. Trong cuộc họp Chính phủ để trình ba dự án sắc lệnh này, Bộ trưởng Vũ
Đình Hòe đã “bật lên phản đối” nhưng theo ông Hòe, “sự dàn hòa, điều giải của
Hồ Chủ tịch thật tài tình”. Hồ Chí Minh vẫn ký Sắc lệnh 85- SL, ngày 22-5-1950,
quy định “Chế độ hội thẩm nhân dân” do Thứ trưởng Tư pháp Trần Công Tường đệ
trình nhưng vẫn “tán thành ý kiến bổ sung của Bộ trưởng Vũ Đình Hòe”, không
đụng đến Đoàn Luật sư395.
Trong thời kỳ tiền Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ra nghị
quyết, ngày 29-4-1958, tách hệ thống công tố ra khỏi tòa án để trở thành bốn cơ
quan ngang bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trong giai đoạn 1945-1958, cơ quan
công tố chưa được tổ chức thành một hệ thống riêng mà hợp cùng với cơ quan xét
xử thành tòa án các cấp. Nhiệm vụ của Viện Công tố là điều tra, truy tố những
vụ phạm pháp về hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều
tra của cơ quan điều tra, trong việc xét xử của tòa án, trong việc tạm giữ và
cải tạo ở các trại giam.
Sau Hiến pháp 1959, hệ thống tòa án nhân dân và viện kiểm
sát nhân dân ra đời, thay vì nằm trong hội đồng chính phủ, trở thành những cơ
quan trực thuộc Quốc hội, ở cấp tỉnh, thành thì trực thuộc hội đồng nhân dân
cùng cấp. Sau Hiến pháp 1959, Bộ Tư pháp bị giải thể. Theo ông Nguyễn Đình Lộc,
ngoài lý do sao chép từ mô hình nhà nước liên bang của Liên Xô, sự sửa đổi này
còn mục tiêu nhắm tới ông Bộ trưởng Vũ Đình Hòe396.
Đặc biệt, ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số
158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng
bổ các thẩm phán tòa án nhân dân huyện lên tòa án nhân dân tỉnh. Từ đây, trường
luật Tam Đảo lập ra theo chủ trương của ông Vũ Đình Hòe nhằm đào tạo các thẩm
phán đệ nhị cấp đã bị đóng cửa vì theo ông Hòe: “Chủ trương đào tạo thẩm phán
chuyên môn đương nhiên là bị Đảng đoàn Tư pháp gạt bỏ vì người cộng sản coi
chính trị là thống soái, nên chỉ cần đề bạt cán bộ công nông là đủ giải quyết
vấn đề cán bộ tư pháp”397.
Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe: “các thẩm phán huyện, đa số là
đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ”. Quan điểm lựa chọn
thẩm phán chủ yếu “đứng trên lập trường nhân dân” của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng
lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam. Trong giai đoạn 1960-1970, khi vai trò của
Nhà nước bị lu mờ trước vai trò của Đảng, sự sa sút về chất lượng của đội ngũ
thẩm phán và tính thiếu độc lập của tòa án ít được chú ý. Nhưng, từ cuối thập niên
1980, điều này bắt đầu trở thành một vấn đề lớn.
Theo một báo cáo của Bộ Tư pháp tại kỳ họp thứ nhất, Quốc
hội khóa IX: Năm 1981, chỉ có 3% cán bộ tòa án cấp tỉnh, huyện có trình độ đại
học. Năm 1991 số thẩm phán có trình độ đại học được nâng lên ở mức 50% nhưng
thẩm phán cấp quận huyện cũng chỉ 41% có trình độ đại học, trong đó nhiều người
tốt nghiệp hệ tại chức. Cũng trong kỳ họp đó, Đại biểu Quốc hội Hoàng Ngọc
Nhất, giám đốc Công an Thanh Hóa, nêu tình trạng thẩm phán, người nhân danh Nhà
nước, nhân danh pháp luật, lại không có hiểu biết về luật bằng người bảo vệ các
bị cáo: luật sư. Ông Nhất nói: “Có phiên tòa, bị cáo còn thuộc luật hơn cả thẩm
phán”. Trình độ thẩm phán càng thấp tòa án càng lệ thuộc lớn vào cấp ủy. Chính
báo Nhân Dân cũng phải thừa nhận ở tòa, các thẩm phán thường chỉ đưa ra các bản
án đã được cấp ủy xử trước; những người muốn độc lập với cấp ủy thường phải
gánh chịu hậu quả, có khi là mất việc398.
Đầu thập niên 1990, Đảng bắt đầu chấn chỉnh tình trạng cấp
ủy can thiệp thô bạo vào các bản án. Nhưng, đối với những bản án có ảnh hưởng
lớn, Đảng vẫn cho rằng, “cấp ủy cần tham gia ý kiến về quan điểm xét xử làm cơ
sở cho việc quyết định của cơ quan kiểm sát và tòa án”399. Chất lượng tòa án
cho đến lúc bấy giờ vẫn lệ thuộc vào “tính chất công nông” nằm ở trong số đông
của đội ngũ. Ngày 5-12-1997, Đại biểu Hoàng Ngọc Thành, Lào Cai, nói trước Quốc
hội: “Tỉnh tôi có bảy thẩm phán thì năm thẩm phán có trình độ từ lớp 2-3”. Đại
biểu Đặng Thanh Hương cho biết thêm: “Có chánh án chỉ tốt nghiệp cấp I”. Chất
lượng xét xử, buộc tội thấp đến nỗi, thời gian ấy, tòa án tỉnh phải hủy khoảng
10% án do tòa huyện xử; Tòa tối cao hủy 6,9% án của tòa tỉnh. Cũng trong phiên
họp ngày 5-12-1997, ông Vũ Đức Khiển, chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật cho Quốc hội
biết: Chỉ có 1/3 tổng số người bị bắt trong mười tháng đầu năm 1997 là bắt theo
lệnh có phê chuẩn của Viện Kiểm sát, số còn lại chủ yếu bắt khẩn cấp, bắt quả
tang; có tới 18.197 người bị bắt nhưng rồi phải xử lý hành chính, chiếm 30,26%.
Tình trạng này vẫn chưa được cải thiện nhiều trong thập niên kế tiếp400.
“Bỏ Điều 4 là tự sát”
Trong chế độ cộng sản, cho dù bộ máy nhà nước tổ chức theo
lý thuyết nào thì quyền lực cũng chỉ tập trung vào một nơi: Đảng.
Ngày 10-9-1980, khi phát biểu trước phiên họp “xem xét bản
dự thảo hiến pháp” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, Tổng Bí thư Lê
Duẩn nói: “Đảng cầm quyền phải biết sử dụng Nhà nước, coi đó là một công cụ
hùng mạnh và sắc bén để thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân và sự lãnh
đạo của Đảng trên quy mô toàn xã hội”401. Trong hai mệnh đề mà ông Lê Duẩn đề
cập, nếu như quyền làm chủ thực sự của nhân dân là rất mông lung thì sự lãnh
đạo của Đảng quả thực là đã ngự trị trên “quy mô toàn xã hội”.
“Công lao” của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu được ghi trong
hiến pháp từ năm 1959402. Lời nói đầu của Hiến pháp 1980 nói thêm: “Nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cần có một bản hiến pháp thể chế hoá đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới. Đó là hiến pháp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước”. Điều 4, Hiến pháp 1980, ghi:
“Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy
nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Tuy không dịch nguyên văn, nhưng theo ông
Nguyễn Đình Lộc, Điều 4 Hiến pháp 1980 được mô phỏng từ Điều 6 Hiến pháp 1977
của Liên Xô.
Ngày 12-12-1980, khi báo cáo trước Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban
Dự thảo hiến pháp Trường Chinh giải thích về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, theo ông: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
chuyên chính vô sản… Nhà nước chuyên chính vô sản chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân”403. Báo cáo
của ông Trường Chinh nói tiếp: “Vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận với
tinh thần và lời văn trang trọng như vậy là rất có ý nghĩa. Với Điều 4, Dự thảo
Hiến pháp khẳng định công lao to lớn của Đảng ta…; thể hiện tình cảm sâu đậm
của nhân dân cả nước đối với Đảng và đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo
toàn diện của Đảng trong tình hình mới”404.
Trước đó, ngày 10-9-1980, Tổng Bí thư Lê Duẩn định nghĩa:
“Nhà nước chuyên chính vô sản là nơi biểu hiện tập trung sự lãnh đạo của Đảng
và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”405. Trên thực tế, đây là một
giai đoạn mà các hoạt động của Đảng là bao trùm. Suốt cả nhiệm kỳ, Quốc hội
khóa VII không ban hành bất cứ đạo luật nào trừ Hiến pháp
1980. Đất nước chủ yếu vận hành theo các chỉ thị, nghị quyết
của các cấp ủy Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 25, khóa III, ông Lê Duẩn đưa ra mô
hình chính trị: “Đảng và Nhà nước dính nhau làm một. Ở trung ương, thủ tướng là
của Nhà nước, đồng thời là của Đảng, là Ủy viên Bộ Chính trị, bộ trưởng cũng
thế… Nhà nước làm là Đảng làm. Ví dụ, Đảng làm thủy lợi qua bộ trưởng Thủy lợi,
qua Bộ Thủy lợi chứ không qua một tổ chức khác”406.
Trong thời gian “Đảng và Nhà nước dính nhau làm
một”(1976-1986) này, một khối lượng lớn
chỉ thị, nghị quyết đã được Đảng ban hành. Các văn kiện Đảng đã trở thành những
văn bản có tính quy phạm, trực tiếp điều chỉnh mọi hành vi chính trị, văn hóa,
giáo dục và xã hội. Thậm chí, giấy đăng ký kết hôn giữa ông Võ Văn Kiệt và bà
Phan Lương Cầm lập năm 1984 cũng do Ban Tài chính Quản trị Trung ương cấp. Các
nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng trong giai đoạn này gần như đều có một sự nghiệp
chính trị trọn đời: Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn đều từ trần khi đang
tại chức. Vai trò của Đảng cũng như của các nhà lãnh đạo trong hệ thống chính
trị bắt đầu được điều chỉnh dần kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986)407.
Chủ tịch Quốc hội Lê Quang
Đạo tại Hội nghị toàn quốc về hội
đồng nhân dân vào tháng 2-1992 từng phát biểu: “Nhiều nơi, tổ chức Đảng đã tự biến
mình thành nhà nước, thậm chí siêu nhà nước”408. Luật pháp mà các công cụ nhà
nước thông qua thường chỉ là “thể chế hóa đường lối, nghị quyết của Đảng”.
Đặc biệt, Đảng nắm gần như tuyệt đối công tác cán bộ ở cả ba
ngành quyền lực. Lá phiếu của người dân trong các kỳ bầu cử chỉ là xác nhận
những người được Đảng ghi tên trong danh sách phiếu bầu. Đảng không chỉ kiểm
soát Quốc hội thông qua con số hơn 90% đại biểu là đảng viên. Ngay cả những đại
biểu Quốc hội không phải đảng viên cũng phải là người của Đảng. Quy trình giới
thiệu, hiệp thương, cho đến lấy ý kiến cử tri nơi ở và nơi công tác đều do các
cấp ủy Đảng chi phối, kể cả những ứng cử viên gọi là “tự ứng cử”409.
Ở cấp quốc gia, việc bỏ phiếu ở Quốc hội bầu các chức danh
nhà nước chỉ là vấn đề thủ tục. Theo quy trình cán bộ của Đảng, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định các chức danh chủ tịch quốc hội, chủ tịch nước, thủ
tướng, chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Tối cao; Bộ Chính trị
quyết định các chức danh phó thủ tướng, phó chủ tịch nước, phó chủ tịch quốc
hội, các bộ trưởng; Ban Bí thư quyết định các chức vụ tương đương thứ trưởng.
Bộ Chính trị cũng đồng thời quyết định nhân sự cấp bí thư, chủ tịch ủy ban, chủ
tịch hội đồng nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Cấp ủy Đảng ở
địa phương cũng quyết định nhân sự theo quy trình tương tự.
Dự thảo Hiến pháp 1992 chỉ thực sự được đưa ra thảo luận sau
Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991. Đó là một thời điểm cả thế giới lẫn
trong nước đều có nhiều biến động. “Kinh tế nhiều thành phần” mà Đảng Cộng sản
Việt Nam chấp nhận hồi năm 1986 buộc Đảng phải “đổi mới hệ thống chính sách,
pháp luật” thay vì tiếp tục chi phối mọi mặt đời sống bằng các chỉ thị, nghị
quyết như thời “quan liêu, bao cấp”. Nhưng kinh tế nhiều thành phần và sự sụp
đổ của các đảng cộng sản trên thế giới cũng đặt Đảng Cộng sản Việt Nam trước
mối lo về tính chính đáng trong vai trò tiếp tục nắm quyền lãnh đạo.
Tháng 5-1990, Yeltsin - người bị Gorbachev đưa ra khỏi Bộ
Chính trị trước đó không lâu - được bầu giữ chức chủ tịch Xô viết Tối cao nước
Cộng hòa Liên bang Nga. Tháng 7-1990, ông tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản. Tháng
6-1991, trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Cộng hòa Liên bang Nga,
Yeltsin trở thành tổng thống. Quyền lực của nhà nước liên bang có nguy cơ tan
rã khi vào tháng 8-1991, một hiệp ước liên bang mới trao chủ quyền cho các nước
cộng hòa bắt đầu được hình thành. Tình hình tưởng có thể đảo ngược khi, ngày
19-8-1991, Phó Tổng thống Liên Xô Yanaev làm đảo chính, bắt giữ Gorbachev và
lập ra “Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp”.
Trong khi thế giới, nhất là phương Tây, đang tỏ ra lo lắng
thì ở Việt Nam, có thể đọc thấy một sắc thái tình cảm khác thông qua lượng
thông tin về cuộc đảo chính tràn ngập mặt báo ra ngày 20-9-1991. Tất cả các văn
kiện của “Ủy ban Nhà nước về tình trạng khẩn cấp” đều được báo chí nhà nước cho
đăng nguyên văn, báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân còn gọi Yanaev là “đồng chí”
thay vì dùng chức danh “quyền tổng thống” như ngôn từ được phát đi từ chính
những người đảo chính.
Nhưng niềm hân hoan này đã không đủ để kéo dài tới ngày hôm
sau. Từ vị trí lãnh đạo Xô viết Tối cao Nga, Yeltsin trở thành người hùng Liên
Xô khi đứng trên tháp pháo xe tăng đọc diễn văn kêu gọi dân chúng tuần hành
chống lại những người đảo chính. Ngày 21-8-1991, những người đảo chính bỏ chạy
khỏi Moscow; một thành viên của “Ủy ban Khẩn cấp”, Bộ trưởng Nội vụ Liên Xô
Boris Karlovic tự sát. Gorbachev được đưa ra khỏi nơi “tạm giam” nhưng quyền
lực của ông thì đã hết.
Tháng 11-1991, cựu Ủy viên Bộ Chính trị Yeltsin ký lệnh cấm
Đảng Cộng sản hoạt động trên lãnh thổ nước Nga. Ngày 8-12-1991, một tuần sau
khi Ukraina trưng cầu dân ý tuyên bố độc lập với Liên Xô, Yeltsin gặp Tổng
thống Ukraina và Tổng thống Belarus, cả ba đưa ra tuyên bố giải tán Liên bang
Xô viết, lập ra “Cộng đồng các quốc gia độc lập”. Ngày 24- 12-1991, Nga nắm lấy
chiếc ghế của Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc. Hôm sau Gorbachev, vị tổng thống
không còn nhà nước, đành phải ra đi.
Trong khi đó, tại Việt Nam, trong bản dự thảo Hiến pháp mà
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công trình ra trước Quốc hội vào ngày
27-7-1991, Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn được nhắc tên trong lời
nói đầu. Ngày hôm sau, trong thảo luận tổ410, nhiều đại biểu đề nghị nên cân
nhắc. Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Trần Hồng Quân nói: “Một
khi chính những nước đó không còn muốn nhận họ là chủ nghĩa xã hội nữa thì ta
không nên nhắc lại”.
Phát biểu ngay sau đó của các tướng lĩnh có mặt trong Quốc
hội cho thấy, ở Việt Nam, chạm tới thành trì xã hội chủ nghĩa không phải là một
việc dễ dàng. Thượng tướng Nguyễn Minh Châu yêu cầu giữ nguyên phần nói về Liên
Xô, ông tuyên bố: “Chủ nghĩa xã hội vẫn còn và vẫn còn phát triển”. Một đại
biểu quân đội khác, Thiếu tướng Nguyễn Răng, cũng phản bác các ý kiến đề nghị
hiến pháp chỉ nên đề cập đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” thay vì bao gồm cả “Marx -
Lenin”. Tướng Nguyễn Răng nói: “Đừng vì thế giới có lộn xộn mà chúng ta thay
đổi”.
Khi thảo luận ở tổ hay thảo luận trong phiên họp toàn thể
trên Hội trường Ba Đình411, gần như không có ai phát biểu mà không đề cập đến
“Điều 4 Hiến pháp” nhưng tất cả đều chỉ góp ý về cách diễn đạt chứ không ai dám
đề nghị xem xét lại vai trò của lãnh đạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam không phải đang “lãnh đạo nhân dân
cầm quyền”, như Chủ tịch Lê Quang Đạo nói, mà đang trực tiếp cầm quyền. Đó là
lý do mà nhiều nhà lãnh đạo cao cấp trong Đảng cho rằng “bỏ Điều 4 Hiến pháp là
tự sát”412. Nguyên lý tam quyền phân lập, cho dù được coi là lựa chọn tốt nhất
để tránh bộ máy nhà nước tha hóa, lạm quyền, cũng không thể vận hành trong một
quốc gia độc đảng.
Chương XVIII: Tam
nhân phân quyền
Về mặt lý thuyết, chủ tịch quốc hội nằm trong “tứ trụ” nhưng
khi viết lời tựa cho cuốn Đại tướng Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười chỉ nhắc đến tổng
bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng. Ông Mười viết: “Ba chúng tôi về quan điểm
đường lối, đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều nhất trí với
nhau, có việc gì chưa thật thống nhất thì đưa ra tập thể Bộ Chính trị bàn để đi
đến thống nhất”. Rất khó để tìm được bằng chứng về sự không nhất trí giữa ba
ông thông qua các biên bản họp Bộ Chính trị. Khi xuất hiện trước công chúng, cả
ba đều đứng cạnh nhau tươi cười, và sinh thời, họ chỉ dành cho nhau những lời
tốt đẹp. Nhưng đằng sau sự yên tĩnh trên bề mặt ấy, quyền lực được ba ông chế
ước lẫn nhau một cách chặt chẽ trong thế chân kiềng.
Bộ ba
Không gian chính trị trong thập niên 1990 đã rút ngắn khoảng
cách giữa các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Trong các thập niên trước, chỉ
có các nhà báo thực sự cung đình như Thép Mới, Hoàng Tùng, Bùi Tín… mới mong có
thể tiếp cận được những nhà lãnh đạo như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng.
Giữa họ có một khoảng cách xa vời với không chỉ các thường dân mà còn với cả
các ủy viên trung ương, thậm chí cả với nhiều ủy viên Bộ Chính trị.
Tuy được truyền thông nhà nước mô tả như là một nhà lãnh đạo
giản dị, trên thực tế, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh vẫn là một người khó gần.
Theo ông Nguyễn Đình Hương413: “Ông Linh thường cấm những uỷ viên Trung ương có
khuyết điểm như Hà Trọng Hòa, Phạm Song… vào họp Trung ương một cách vô nguyên
tắc”. Thế hệ Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, tuy vẫn còn được coi như “cha,
chú”, đã bắt đầu ý thức được họ đang ở trong thời kỳ chuyển tiếp từ giai đoạn
cầm quyền với vai trò lãnh tụ sang giai đoạn cầm quyền như các nhà chính trị.
Đầu thập niên 1990, Quốc hội bắt đầu họp dài ngày hơn, vườn
hoa Nhà Kiếng và hành lang Hội trường Ba Đình bắt đầu trở thành nơi tiếp xúc
giữa các nhà lãnh đạo trung ương với các đại biểu là quan chức địa phương và
các nhà doanh nghiệp. Đây cũng là khu vực mà báo giới có thể tiếp xúc phỏng vấn
trực tiếp các bộ trưởng, các trưởng ban của Đảng, tổng bí thư, chủ tịch nước và
thủ tướng.
Chủ tịch Lê Đức Anh không có mặt thường xuyên bên ngoài vườn
hoa. Tuy ông luôn tỏ ra thân thiện nhưng uy lực của “vị tướng một mắt” vẫn làm
e ngại không ít người. Chỗ ông đứng không mấy khi có vòng trong vòng ngoài, và
báo chí cũng không có cho ông nhiều câu hỏi. Ngược lại, Tổng Bí thư Đỗ Mười
xuất hiện ở đâu là kéo theo đó một đám đông. Tổng Bí thư có thể “hùng biện” cho
đến khi các nhà báo lần lượt lẻn đi vì ông bắt đầu lặp lại những điều đã nói
trong các giờ giải lao trước đó. Ông Võ Văn Kiệt thì khác. Sau khi Trợ lý Vũ
Quốc Tuấn “bật mí” vài điều muốn giải tỏa của Thủ tướng với các nhà báo quen
biết, ông Kiệt sẽ tươi cười xuất hiện ở tam cấp của Hội trường Ba Đình, bắt đầu
một cuộc họp báo không chính thức.
Với Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt, ông Đỗ Mười bao giờ cũng thể
hiện sự tương kính. Khi có việc gì cần trao đổi, đích thân ông Mười đi thẳng
vào “Thành” gặp ông Lê Đức Anh hoặc ra tận sân tennis gặp ông Võ Văn Kiệt.
Nhưng với Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thì ông lại thường thể hiện cách
“lãnh đạo” rất khác thường. Khi Quốc hội không phê chuẩn ông Đào Đình Bình, một
ứng cử viên trẻ vào chức bộ trưởng Bộ Giao thông, từ hàng ghế đầu, ông Đỗ Mười
đã nhấp nha nhấp nhổm. Đến giờ giải lao, ông bước ngay lên bục Chủ tịch Đoàn,
đuổi theo ông Nông Đức Mạnh ra tận hậu phòng của Hội trường Ba Đình. Ông Đỗ
Mười dí tay sát cổ áo Chủ tịch Quốc hội và nói: “Anh lãnh đạo Quốc hội thi hành
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng như thế à?”414.
Ông Đỗ Mười sùng bái nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và chấp
hành nghị quyết một cách chân thành. Năm 1958, khi làm bộ trưởng Bộ Nội thương,
ông chỉ huy đánh tư sản ở Hà Nội. Hai mươi năm sau, cũng chính ông dẫn “đại
quân” vào Sài Gòn đánh tư sản ở miền Nam. Nhưng đến Tết năm 1989, khi đã trở
thành người đứng đầu của một chính phủ thi hành nghị quyết “đổi mới”, ông lại
lên tivi “chúc mọi người làm ăn phát tài”. Theo ông Trần Xuân Giá: “Khi về làm
chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, từ tư duy cho đến cách điều hành của ông Đỗ Mười
thay đổi một cách không ngờ. Ông lắng nghe và thấy được những cân đối lớn của
nền kinh tế, có khả năng tổng hợp và đưa ra được những quyết định sắc sảo”. Ông
Đỗ Mười cũng chọn mang theo sang Văn phòng Tổng Bí thư những người gần gũi
trong đội ngũ chuyên gia đã giúp ông chống lạm phát thành công như Lê Đức Thúy,
Nguyễn Văn Nam... Đặc biệt, không ít người bất ngờ khi ông chọn ông Hà Nghiệp
làm người giúp việc. Ông Hà Nghiệp được coi là một trong những người có đóng
góp trong tiến trình thay đổi tư duy của ông Trường Chinh. Sau khi ông Nguyễn
Văn Linh lên tổng bí thư, ông Trường Chinh có ý giới thiệu Hà Nghiệp với hy
vọng ông Linh tiếp tục phát triển tư duy đổi mới, nhưng ông Linh gạt đi. Ông Hà
Nghiệp phải sang làm trợ lý cho tổng bí thư của Lào rồi về nước “ngồi chơi xơi
nước”.
Tháng 8-1991, khi được đưa lên làm chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, ông Võ Văn Kiệt đã nhờ ông Hà Nghiệp viết cho mình bài diễn văn nhậm
chức và theo ông Kiệt, ông dự định sẽ mời Hà Nghiệp sang làm việc cho mình. Khi
Hà Nghiệp ở không thì không thấy ai hỏi han, khi ông Kiệt định mời thì ông Đỗ
Mười đã đi trước một bước ra quyết định đưa Hà Nghiệp về làm trợ lý.
Tiểu sử chính thức của ông Đỗ Mười ghi: “Xuất thân từ một
gia đình nông dân, bản thân là thợ sơn”. Nhưng, khi trở thành tổng bí thư, theo
thư ký của ông, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam, ông lại có tham vọng trở thành một nhà
lý luận. Bên cạnh hai nhà Marxist cứng rắn là Đào Duy Tùng và Nguyễn Đức Bình,
ông trọng dụng Lê Xuân Tùng và tới đại hội giữa nhiệm kỳ, đưa thêm một nhà lý
luận khác, ông Nguyễn Phú Trọng, vào Trung ương. Sự say sưa của ông đã tập hợp
thêm được Nguyễn Hà Phan, Lê Khả Phiêu, hai nhân vật được ông bổ sung vào Bộ
Chính trị trong hội nghị giữa nhiệm kỳ tháng 1-1994.
Nhưng, theo ông Nguyễn Văn Nam: “Ông Đỗ Mười vẫn là một con
người hành động chứ không phải là một con người lý luận. Cho nên khi điều hành
bên chính phủ, ông có thể nhận biết thực tế để có những quyết định phù hợp; khi
làm công tác Đảng, đụng đến các vấn đề lý luận thì ông phải trông cậy vào Đào
Duy Tùng, Nguyễn Đức Bình, về sau có thêm Nguyễn Phú Trọng và chịu ảnh hưởng
không ít từ những người này”.
Đỗ Mười tên thật là Nguyễn Duy Cống, sinh ngày 2-2-1917, tại
xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Chú ruột ông là Nguyễn Thọ Chân, bộ trưởng
Lao động trong Chính phủ Phạm Văn Đồng. Thuở hàn vi, ông có hai người bạn thân
là Hoàng Hữu Nhân và Phạm Viết Đào. Cả hai đều sắc sảo, ông Nhân từng có những
ý định đổi mới táo bạo từ khi còn là bí thư Thành ủy Hải Phòng, sau Đại hội VI
làm trưởng Ban Công nghiệp Trung ương nhưng phẫn uất, có lúc phải nhảy lầu, vì
bị Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh o ép. Ông Đào thì ngang ngạnh, vui vẻ hưu trí
với chức thứ trưởng Bộ Ngoại thương, thậm chí còn "đàn đúm" với Lê
Hồng Hà, Nguyễn Kiên Giang, những người từng ủng hộ Trần Xuân Bách. Ông Đào
thường gọi những người được Đỗ Mười trọng dụng như Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức
Bình… là lũ “chim ri, chim sẻ”.
Ông Đỗ Mười sống gần như độc thân trong ngôi nhà Tây phía
sau Phủ Chủ tịch, vốn là nơi ở của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Người gần gũi ông
nhất suốt gần ba thập niên tại ngôi nhà này là bà Thuận, người nấu cơm của ông.
Năm 1997, ông Đỗ Mười chuyển về sống trong biệt thự số 11 Phạm Đình Hổ. Bà
Thuận, lúc này đã có một người con, không về ở cùng. Trong phòng riêng của
mình, ông Đỗ Mười cho treo bức ảnh chụp ông và Fidel Castro, cho đặt một chậu
địa lan bằng nhựa… Bàn làm việc của ông đầy những tài liệu, bài báo chi chít
những nét gạch đỏ. Một chiếc phản cá nhân trải nệm bông gòn, bọc vải hoa màu đỏ
sẫm, được kê gần đó. Ông thường đặt lưng trên chiếc giường này sau những giờ
xem tài liệu.
So với Lê Đức Anh, lý lịch tham gia cách mạng của ông Đỗ
Mười rõ ràng hơn, và so với ông Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười là bậc tiền bối cả về tuổi
đời và tuổi Đảng415. Ông Đỗ Mười trở thành ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng từ
năm 1955. Ông Võ Văn Kiệt là ủy viên dự khuyết năm 1960. Trong khi tới năm
1976, ông Lê Đức Anh mới vào Trung ương. Đỗ Mười giữ chức phó phủ tướng từ năm
1969, nhưng, năm 1982, ở Đại hội V, ông bị đặt thứ ba trong hàng kế cận do Tổng
Bí thư Lê Duẩn và nhà tổ chức quyền biến Lê Đức Thọ sắp xếp: Tố Hữu, Võ Văn
Kiệt, Đỗ Mười.
Ngày 12-8-1991, ba ngày sau khi trở thành chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt nhận xét: “Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười vừa là người
kế thừa những kinh nghiệm rất lớn của đồng chí Nguyễn Văn Linh, vừa có những
kinh nghiệm lớn về quản lý nhà nước. Một khi đồng chí lãnh đạo cao nhất hiểu và
thông cảm sâu sắc những khó khăn của công tác quản lý nhà nước thì đó là một
thuận lợi lớn cho chúng tôi”416. Theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Sáu tháng sau, ông
Kiệt mới nhận ra là mình nhầm. Ông Kiệt nói với tôi: Tôi tưởng anh Mười đã từng
làm việc nhiều năm ở chính phủ, hiểu biết công việc chính phủ thì sẽ là một
thuận lợi cho tụi mình. Không ngờ, ông biết nhiều việc của chính phủ quá thì
ông lại can thiệp nhiều hơn, làm khó mình hơn”.
Theo ông Trần Xuân Giá: “Từ đầu đến cuối, ông Đỗ Mười không
ủng hộ ông Kiệt, cả về lối sống lẫn quan điểm. Cuối năm 1981, một buổi chiều
sau những giờ họp căng thẳng, tôi cùng ông tản bộ trên đoạn đường trước Lăng,
ông cho tôi biết tin Võ Văn Kiệt được điều ra Hà Nội. Khi đó, ông Đỗ Mười đã
dùng những câu, những từ rất nặng nề mà tôi không tiện nhắc lại để nói về ông
Kiệt. Ông Mười cho rằng: Thằng đó sẽ chết vì quan điểm kinh tế thị trường của
nó”. Ông Phan Văn Khải cho rằng: “Ông Đỗ Mười đổi mới là do áp lực chứ không
phải do chuyển biến về nhận thức như ông Trường Chinh. Ông cũng không được học
hành căn bản để hiểu các vấn đề một cách có hệ thống”.
Theo ông Đoàn Mạnh Giao: “Thời kỳ Đỗ Mười - Võ Văn Kiệt xuất
hiện thuật ngữ Nhà Đỏ - Nhà Trắng hay Hùng Vương Đông - Hùng Vương Tây để chỉ
mối quan hệ giữa bên Đảng và bên Chính phủ”. Nhưng, theo ông Phan Văn Khải:
“Khi còn cầm quyền, ông Kiệt không thèm nghe Đỗ Mười, ông Mười nói gì thì nói,
ông cứ làm theo kiểu của ông”. Ông Khải thừa nhận đây là lý do mà khi trả lời
phỏng vấn báo Thanh Niên ngay khi vừa nhận chức, ông nói: “Về bản lĩnh chính
trị tôi không thể nào so sánh với đồng chí Võ Văn Kiệt”417. Khi ông Kiệt làm
“phó”, theo ông Vũ Quốc Tuấn: “Những việc ông Đỗ Mười chủ trì thì ông Kiệt cũng
ít tham gia. Có nhiều cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, ông Kiệt không dự. Ông Kiệt
tập trung cho những công trình của mình ở Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là
chương trình khẩn hoang Đồng Tháp Mười. Ông Mười thấy ông Kiệt chủ động quá nên
lại kéo ông Kiệt về, hai ông tỏ ra tâm đầu ý hợp”.
Khi trở thành thủ tướng, ông Võ Văn Kiệt có các thành viên
chính phủ như Phan Văn Khải, Đỗ Quốc Sam, Lê Xuân Trinh và cả những người từng
được cất nhắc bởi ông Đỗ Mười như Trần Xuân Giá, Nguyễn Đình Lộc… Họ là những
nhà kỹ trị, giúp ông thiết kế các thiết chế pháp lý cho nền kinh tế thị trường
vận hành. Ông Kiệt tập trung thời gian của mình cho những công trình quốc gia
và tích cực hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại. Trong thập niên 1990, “nụ cười
Võ Văn Kiệt” trở thành một gương mặt nổi
bật không chỉ ở trong nước. Nhưng, uy tín trong dân không phải bao giờ cũng trở
thành sức
mạnh trong một nền chính trị mà quyền lực được giải quyết
trong nội bộ418.
Tướng Lê Đức Anh dường như không tham gia tranh luận về ý
thức hệ, về kinh tế thị trường. Chủ tịch nước, theo Hiến pháp, là một chức danh
không mấy thực quyền, nhưng trong thời gian giữ cương vị này, ông Lê Đức Anh đã
tạo ra được một ngoại lệ.
Năm 1986, khi từ Campuchia trở về thay thế Tướng Lê Trọng
Tấn làm tổng tham mưu trưởng, Tướng Lê Đức Anh không ở những căn biệt thự dân
sự bên ngoài mà chọn một căn nhà thuộc cụm nhà khách Bộ Quốc phòng. Đó là một
căn nhà hai tầng được xây từ thời Pháp nằm trong khuôn viên Thành Hà Nội cũ.
Tướng Anh thường vào ra Thành bằng cổng chính, 51B Phan Đình Phùng nhưng có thể
đón khách từ cổng phụ, số 5 Hoàng Diệu. Bà Võ Thị Lê, người vợ thứ hai mà ông
cưới năm 1956, sau khi tập kết ra Bắc, sống như hình với bóng với ông trên tầng
hai, trong khi những người giúp việc thì ở tầng dưới hoặc các ngôi nhà nằm
trong khuôn viên.
Ông Lê Đức Anh sinh ngày 1-12-1920 tại Truồi, một làng quê
nghèo đói bên phá Tam Giang, thuộc huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Cha ông vừa
làm ruộng vừa có thêm nghề thuốc nên cuộc sống gia đình, theo ông, đỡ cực hơn
mọi người. Ông học vỡ lòng ở trong làng rồi ra Huế học tiểu học. Năm mười một
tuổi, ông được gửi ra nhà chị gái, có chồng đang dạy học ở thành Vinh học tiếp
nhưng cũng chỉ được thêm một, vài năm. Học vấn của ông Lê Đức Anh ở mức đọc
thông viết thạo.
Ông Lê Đức Anh bắt đầu được “giác ngộ” thông qua những câu
chuyện về “một người có tên là Nguyễn Ái Quốc” do hai người cậu ruột của ông,
Lê Bá Giản và Lê Bá Dị, kể. Theo lý lịch tự khai: Lê Đức Anh chính thức tham
gia cách mạng từ năm 1937 và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào ngày
1-5-1938. Năm 1939, khi bị đàn áp, một số đồng chí bị bắt, ông lánh vào Đà
Nẵng, lên Đà Lạt, rồi đến năm 1942 thì xuống đồn điền cao su Lộc Ninh. Cuộc hôn
nhân với bà Lê cùng với một số điểm không rõ ràng về thời điểm vào Đảng là hai
vấn đề khiến ông Lê Đức Anh luôn bị những người từng hoạt động với ông xới lên
mỗi khi quyền lực của ông được nới rộng419.
Ông Lê Đức Anh gặp người vợ đầu tiên, bà Phạm Thị Anh, vào
tháng 8-1945, khi ông đang là “ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách tổ chức và
quân sự”420 và bà Bảy Anh đang là phó
chủ tịch Hội Phụ nữ xã An Tây, huyện Bến Cát.
Bà Phạm Thị Anh sinh năm 1925, con một gia đình địa chủ nhỏ
ở Bình Dương. Cả mấy anh chị em đều đi theo Việt Minh, có người đang làm chủ
tịch huyện, có người đang làm bí thư xã. Thời gian ấy, bà Bảy Anh chỉ mới vừa
đôi mươi lại được coi là hoa khôi trong khi ông Lê Đức Anh thì bị rỗ và một bên
mắt bị bệnh vảy cá. Ông Lê Đức Anh “tìm hiểu” bà bằng cách cho mượn sách và mỗi
lần như thế lại kẹp vào một mảnh giấy ghi mấy chữ. Làm hậu thuẫn cho ông còn có
hai tỉnh ủy viên: Tư Đang và Nguyễn Oanh421; Tư Đang khi ấy là con nuôi của gia
đình bà Bảy. Nhưng, bà Bảy Anh cho rằng, việc bà chọn ông Lê Đức Anh chủ yếu vì
nếu lấy ông thì bà không phải làm dâu; ông Lê Đức Anh cũng ngỏ lời đúng khi bà
muốn yên bề gia thất.
Cuộc hôn nhân ngay ngày đầu đã gặp sự cố: Đám cưới vừa bắt
đầu thì có Tây càn, ông Lê Đức Anh đạp xe chở vợ về bên Hội Phụ nữ rồi quay lại
chỉ huy chống càn. Đứa con đầu lòng của họ ra đời khi bà Bảy Anh chỉ mới có bầu
bảy tháng, bà ngoại cháu đặt tên là Lê Thiếu. Vừa sinh xong lại gặp càn, y tế
xã đưa lên võng gánh chạy vào rừng, đứa bé nhiễm lạnh, chết. Sau đó, Lê Đức Anh
được điều về Khu 8. Năm 1950, khi xuống miền Tây thăm chồng, bà Bảy có thai đứa
con thứ hai. Năm 1951, bà sinh hạ một người con gái đặt tên là Lê Xuân Hồng.
Sau Hiệp định Geneva, Lê Đức Anh nằm trong số những cán bộ
được đưa ra miền Bắc. Từ Bình Dương, hai mẹ con bà Bảy Anh xuống thăm chồng.
Nhưng bà quyết định không tập kết ra Bắc như những người phụ nữ khác. Khi ấy,
mấy anh em bà Bảy theo kháng chiến để lại một đám trẻ con lít nhít, bà không nỡ
để cho cha, một người đàn ông góa vợ phải một mình chăm nom bọn trẻ. Chỉ không
lâu trước đó, gia đình bà Bảy Anh đã phải mất ba anh em trai trong một vụ án
oan lớn ở Bến Cát422.
Lê Đức Anh ra Bắc, thoạt đầu được giao làm sư trưởng Sư đoàn
330, đóng ở Thanh Hóa; sau được điều về Bộ Tổng tham mưu làm cục phó Cục Tác
chiến. Thời gian này, quân đội đang chịu cuộc “chỉnh huấn, chỉnh quân” khốc
liệt do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo. Trong chi bộ của ông có hai người bị kiểm
điểm nặng, ông và ông Bội Dong, vì lấy vợ thuộc thành phần tư sản, địa chủ. Cả
hai sau đó đều tuyên bố “ly khai với gia đình vợ”423.
Năm 1956, ông kết hôn với bà Võ Thị Lê, có chồng là một đại
úy quân đội đã hy sinh và đang có một người con riêng. Năm 1957, họ có với nhau
một con trai, đặt tên là Lê Mạnh Hà; năm 1959, họ sinh thêm một người con gái,
cũng đặt tên là Lê Xuân Hồng. Giữa thập
niên 1960, Lê Xuân Hồng lớn, người con
của ông Lê Đức Anh và bà Bảy Anh, cũng được Tướng Trần Văn Trà tổ chức đưa ra
miền Bắc 424. Ở Hà Nội, bà Lê làm y sỹ ở bệnh viện Hữu Nghị. Những năm ông làm
bộ trưởng Quốc phòng rồi chủ tịch nước bà luôn ở bên cạnh chăm sóc ông. Đây là
thời gian mà cuộc sống của ông bà được mô tả là cẩn trọng tới từng chén cơm,
viên thuốc.
Gỡ cấm vận
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt bắt đầu nhiệm kỳ khi
“cánh cửa Trung Quốc” đã được khai thông. Chuyến đi Bắc Kinh, từ ngày 5 đến
10-11-1991, của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt
là chặng cuối trong tiến trình bình thường hóa mà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh
bắt đầu và Tướng Lê Đức Anh đóng một vai trò trung gian quan trọng. Sứ mệnh của
họ là gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại và bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Việc ông Võ Văn Kiệt chọn Thái Lan và các nước ASEAN trước
khi tới Bắc Kinh, mở đầu chuyến công du ngay sau khi nhận chức chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng là có cân nhắc. Theo ông Vũ Khoan: “Tại một cuộc họp của lãnh
đạo Đảng và Nhà nước bàn về cơ hội thoát khỏi tình thế bị bao vây, cấm vận, mở
rộng quan hệ quốc tế, trong lúc nghỉ giải lao anh Sáu gọi tôi - đại diện cho Bộ
Ngoại giao được triệu tập sang dự họp - ra trao đổi ý kiến. Anh đặt vấn đề: đã
có sự nhất trí cao về đánh giá tình hình và chủ trương phá vây, song ta cần
tính kỹ bước đi sao cho có hiệu quả nhất. Anh gợi ý nên áp dụng chiến thuật
‘hoa sen nở’, đi từ trong ra, theo đó trước hết cần cải thiện quan hệ với các
nước trong khu vực Đông Nam Á vốn có lợi ích sát sườn trong quan hệ với ta đi
đôi với việc bình thường hoá quan hệ với nước láng giềng phương Bắc là Trung
Quốc; từ đó tạo ra thế mới để cải thiện, thiết lập quan hệ với các nước ở vòng
cung thứ hai thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand, rồi vươn sang vòng cung xa hơn là EU; thành công của
những bước đi ấy sẽ tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy Mỹ chấm dứt chính sách cô
lập, cấm vận nước ta”.
Giữa ba ông gần như không có bất đồng trong các nỗ lực nhằm
thoát ra khỏi lệnh cấm vận thương mại của Mỹ. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận:
“Chúng ta bị dồn tới chân tường”. Lệnh cấm vận mà người Mỹ áp dụng với Việt Nam
đã khóa chặt cửa gần hai thập niên: Việt Nam không thể nhập khẩu công nghệ mới
từ các nước phương Tây, không thể làm ăn trực tiếp với các công ty đa quốc gia,
tài khoản bị phong tỏa, không thể hưởng các trợ giúp đầy đủ từ ngay cả các định
chế quốc tế như W orld Bank, IMF…
Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ gần như bế tắc kể từ khi
những nỗ lực dưới thời Tổng thống Jimmy Carter thất bại. Hai trở ngại chính cho
tiến trình này là việc Việt Nam đóng quân ở Campuchia và việc tìm kiếm tù nhân
và người Mỹ mất tích trong chiến tranh (POW /MIA). Cho tới lúc đó, Việt Nam
thường chỉ được người Mỹ nhớ tới như là tên của một cuộc chiến tranh, cuộc
chiến được biết theo cách mô tả của Hollywood.
Ngay sau Hiệp định Paris, 27-1-1973, 590 tù binh Mỹ bị bắt ở
Việt Nam, Lào và Campuchia đã được trao trả. Tuy nhiên, vẫn còn 2.646
người Mỹ bị xếp vào danh sách mất tích. Không ai biết bao nhiêu trong đó bị
chết mà không tìm được hài cốt. Việc tìm kiếm MIA gần như phải đình lại sau
ngày 30-4-1975. Trong khoảng từ tháng 2-1973 đến tháng 3- 1975, người Mỹ chỉ
xác nhận được sáu mươi ba bộ hài cốt trong đó có hai mươi ba chết trong thời gian
bị giam giữ và năm trường hợp chết tại Lào. Trong thập niên 1980, một số người
Việt vượt biên đến Mỹ đã đổ thêm dầu vào lửa khi nói là họ vẫn nhìn thấy tù
binh Mỹ ở Việt Nam. Nhiều người Mỹ tin rằng Hà Nội đã nói dối về số lượng tù
nhân chiến tranh.
Những cố gắng tìm kiếm của Chính phủ Mỹ ở Lào và Campuchia
sau năm 1975 không làm hài lòng người dân. Một số cựu binh Mỹ trong vai người
hùng đã quay lại Đông Dương trong các nỗ lực được gọi là “chiến dịch giải cứu”
tù binh. Hollywood làm trầm trọng thêm vấn đề POW /MIA khi để trí tưởng tượng
của mình tô vẽ những cuộc phiêu lưu của những cựu binh này. Trong thập niên
1980, có lẽ không mấy người Mỹ không biết đến Chuck Norris và Sylvester
Stallone. Đặc biệt là Sylvester Stallone trong vai Rambo. Trong khi tù binh Mỹ
được mô tả là đã bị chính phủ của mình bỏ quên thì hình ảnh Stallone và Chuck
Norris vạm vỡ, quả cảm trên những bích chương quảng cáo - “Chiến tranh chưa kết
thúc cho đến khi chàng trai cuối cùng trở về” - đã tác động rất lớn đến tinh
thần người Mỹ.
Chính quyền của Tổng thống Reagan (1980-1988) phản đối việc
bình thường hóa cho đến khi có sự xác nhận Việt Nam đã rút hết quân ở Campuchia
và có sự hợp tác đầy đủ của Việt Nam nhằm đạt được mức độ cao nhất có thể về
việc tìm kiếm những người mất tích có tên trong danh sách.
Ronald Reagan cũng như người kế nhiệm ông, George H. W. Bush
(1988-1992), đã giao công cuộc tìm kiếm POW /MIA cho Bộ Quốc phòng, nhằm tránh
áp lực của các nhóm vận động hành lang. Năm 1987, Reagan phái tướng về hưu John
Vessey đến Hà Nội. Năm 1988, Hà Nội cho phép các nhóm tìm kiếm POW /MIA đến
hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng vấn đề người Mỹ mất tích vẫn không
nhờ thế mà dịu xuống.
Chính quyền Mỹ liên tục bị chỉ trích là đã che giấu thông
tin, những sản phẩm bịa đặt thường lại được tin cậy hơn là những thông tin
chính thức. Tháng 7-1991, một thăm dò trên tờ Wall Street Journal cho thấy: 3/4
số người được hỏi tin chính quyền Mỹ đã không làm đủ những điều cần thiết để tù
binh được trao trả. Tổng thống Nga Boris Yeltsin, tháng 6- 1992, đã đổ thêm dầu
vào lửa khi nói với NBC News rằng, một số tù binh Mỹ có thể đã được chuyển từ
Hà Nội đến Liên Xô.
Năm 1991, theo đề nghị của Thượng nghị sỹ Bob Smith, Thượng
viện lập Ủy ban Đặc biệt về POW /MIA. Ủy ban do Thượng nghị sỹ John Kerry, một
cựu binh trong chiến tranh Việt Nam làm chủ tịch. Một cựu binh khác, Thượng
nghị sỹ John McCain425, tham gia với tư cách ủy viên. Tiếng nói của hai ông trở
nên có trọng lượng nhất trong vấn đề này426.
Từ Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt
cũng đã “đánh vào” tâm lý của dân chúng Mỹ khi ông trả lời phỏng vấn báo Time,
tuần lễ từ ngày 7 đến 13-1-1992, nói rằng: “Sự nghi ngờ chúng tôi còn giam giữ
một số người Mỹ còn sống… là một điều ngớ ngẩn. Động cơ nào có thể thúc đẩy
chúng tôi làm điều đó?”. Báo Time hỏi: “Làm sao để dân chúng Mỹ có thể tin vào
sự đảm bảo của các ông?”. Ông Kiệt: “Ở Việt Nam có hàng chục ngàn gia đình có
người thân bị mất tích. Tôi cũng là một nạn nhân. Gia đình tôi có bốn người, vợ
và ba con của tôi, bị mất tích trong chiến tranh. Trực thăng Mỹ đã giết 300
người trong một trận càn dọc sông Sài Gòn, vợ và con trai, một con gái của tôi
đã mất trong trận càn đó. Tôi có thể thấu hiểu được nỗi đau của tất cả các gia
đình Mỹ có người thân bị mất tích trong chiến tranh… Tôi mong muốn dân chúng Mỹ
hiểu được hoàn cảnh của chúng tôi trong vấn đề này. Chúng tôi xin mời bất cứ
người nào nghi ngờ còn người Mỹ sống ở Việt Nam hãy đến Việt Nam mà tìm hiểu”.
Cuối năm 1992, khi tới Hà Nội lần thứ hai, ông John Kerry đã
đề nghị Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho phép một cộng sự của ông, Thượng nghị sỹ
Bob Smith xuống đường hầm ở khu vực lăng Hồ Chí Minh để tận mắt thấy không có
lính Mỹ bị giam dưới lăng như Hollywood nói.
Vào cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống George H. W Bush đã
đi được một quãng dài trong “lộ trình” do phía Mỹ đơn phương đưa ra để bình
thường hóa. Đáp lại việc Việt Nam chấp nhận một văn phòng của Mỹ tại Hà Nội để
xử lý vấn đề POW /MIA, Mỹ bãi bỏ lệnh hạn chế đi lại trong bán kính hai mươi
lăm dặm đối với các nhà ngoại giao Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc, đồng thời cho
phép người Mỹ được đi đến Việt Nam một cách có tổ chức, thay vì chỉ được đi
theo từng cá nhân. Tháng 12-1991, các công ty Mỹ được phép có một số hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam. Tháng 11-1992, lệnh hạn chế liên lạc điện thoại được bãi
bỏ, dịch vụ gọi điện trực tiếp giữa Mỹ và Việt Nam được thiết lập.
Lệnh cấm vận có thể
đã được bãi bỏ nhanh hơn nếu G.H.W. Bush tái đắc cử.
Nhưng ông đã thua cuộc trước Bill Clinton, một thống đốc chỉ bằng tuổi con trai
ông. Bình thường hóa quan hệ với Việt Nam sẽ rất khó khăn với Bill Clinton,
người đã tránh nhập ngũ thời chiến tranh Việt Nam, nếu không có tiếng nói của
hai cựu binh, Thượng nghị sỹ Dân chủ John Kerry và Thượng nghị sỹ Cộng hòa John
McCain.
Đầu tháng 4-1993, Chính quyền Clinton lặng lẽ, thận trọng
tìm kiếm những bước đi tiến tới bình thường hóa với Việt Nam. Ngày 12-4-1993,
tờ Wall Street Journal tuyên bố “Bill Clinton dường như đã ở bên bờ của sự kết
thúc hoàn toàn chiến tranh Việt Nam”. Nhưng ngay trong ngày hôm đó, tờ New York
Times giật tít lên đầu trang nhất: “Nhiều tài liệu cho thấy năm 1972 Hà Nội đã
dối trá về số lượng tù binh”. Bài báo được viết bởi Celestine Bohlen, trưởng văn phòng tại Moscow của tờ
New York Times. Ngay trong ngày 12-4-1993, Hà Nội tuyên bố tài liệu này là bịa
đặt. Nhưng, cả báo chí và chính trường Mỹ lúc đó dường như không ai còn đủ sự
điềm tĩnh để đánh giá “bản báo cáo” về sau được chứng minh là ngụy tạo này427.
Báo chí Mỹ tuyên bố: “Chúng ta không thể thiết lập quan hệ với những kẻ đã giết
tù binh chiến tranh”. Một thăm dò do Wall Street Journal/NBC thực hiện vào các
ngày 17 và 20-4-1993 cho thấy 2/3 người Mỹ tin rằng tù binh Mỹ vẫn còn bị giữ
tại Đông Nam Á.
Ngày 18-4-1993, Tướng John Vessey từ Hà Nội trở về khẳng
định với Tổng thống Bill Clinton, không có cơ sở để tin là vẫn còn người Mỹ bị
giam giữ ở Việt Nam. Tuyên bố này của Tướng Vessay tiếp tục bị các tổ chức hoạt
động chống Việt Nam trong vấn đề POW /MIA phản đối. Khi đó, cựu Phó Thủ tướng
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Hảo đang ở Washington, D.C.. Hơn hai năm trước,
ông đã nhận giúp Hà Nội vận động hành lang. Khi ông Hảo xuất cảnh năm 1981, ông
Võ Văn Kiệt vẫn giữ liên lạc với ông thông qua bà Bùi Thị Mè428.
Tháng 2-1990, vừa tới Thụy Sỹ dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới,
ông Kiệt gọi điện thoại ngay cho ông Hảo, khi ấy đang là một chuyên gia tư vấn
của World Bank. Ông Nguyễn Văn Hảo kể: “Đang ở Haiti, tôi nhận được điện thoại,
người đàn ông ở đầu dây bên kia hỏi tôi có nhận ra ai không. Tôi đề nghị ông
nói lại một lần nữa, rồi kêu lên: Sáu Dân. Tôi hỏi ông đang ở đâu? Ông bảo:
Geneva. Tôi nói: Mai tôi qua”.
Tháng 12-1991, sau khi trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, Ông Võ Văn Kiệt mời ông Nguyễn Văn Hảo trở lại Việt Nam. Ông Kiệt bàn
với ông Hảo việc quay trở lại Washington, vận động Mỹ bỏ cấm vận và thúc đẩy
nhanh tiến trình bình thường hóa. Ông Kiệt không làm việc này “đơn tuyến”. Ông
bố trí để ông Hảo gặp Chủ tịch Lê Đức Anh và Tổng Bí thư Đỗ Mười. Theo ông Hảo:
Ông Đỗ Mười coi ông như một
“người của mình”. Ông Mười hỏi: “Anh về đã vào viếng lăng Cụ chưa?”. Ông Hảo trả lời: chưa. Ông
bảo: “Anh nên đi”. Ông Hảo nói: “Vậy anh đưa tôi đi đi”. Thế là ông Đỗ Mười
đích thân đưa ông Hảo viếng lăng Hồ Chủ tịch.
Sứ vụ của ông Nguyễn Văn Hảo bắt đầu cuối năm 1992, khi ứng
cử viên của Đảng Dân chủ, Bill Clinton dần dần thắng thế. Thông qua một nhà
cung cấp thực phẩm cao cấp, Marc Ashton, ông Hảo đã ba lần tiếp cận được ông
Ron Brown. Lần đầu, khi Ron Brown đang là chủ tịch Ủy ban Toàn quốc của Đảng
Dân chủ, tổ chức thành công đại hội của Đảng đưa Bill Clinton chính thức ra
tranh cử tổng thống Mỹ. Cuộc gặp gần như tình cờ khi ông Hảo đang ở nhà Ashton
và Brown từ cuộc gặp với các thành viên Đảng Dân chủ ở Virginia trở về ghé
ngang. Họ kéo nhau ra một nhà hàng gần đó. Bữa tối diễn ra khá thân thiện,
Brown còn nói đến việc hợp tác làm ăn với Việt Nam khi giao thương được tái
lập.
Tháng 12-1992, khi cuộc bầu cử đã ngã ngũ với phần thắng
thuộc về Bill Clinton, Ashton đến thăm cô em vợ, Madsen, đang là “bạn rất thân”
của Brown, đang ở trong nhà của chính Brown, rồi rủ Brown cùng ghé lai rai chút
đỉnh. Khi Brown đến thì ông Hảo đã ở đó. Cuộc gặp được viết lại trên báo Time
ngày 11-10-1993 rằng, ông Hảo mang theo một lá thư được viết sẵn của Chính phủ
Việt Nam chúc mừng ông Brown và hy vọng quan hệ hai nước sẽ tốt đẹp hơn. Brown
để lại lá thư trên bàn sau khi nói rằng ông không muốn nhận một lá thư như thế.
Mấy ngày sau, theo đề nghị của Ashton, Brown gửi ông Hảo một mảnh giấy ghi:
“Nice to have met you. Happy holidays”. Lần gặp thứ ba diễn ra vào trưa
13-2-1993, Ashton lại mời Brown ăn trưa cùng cô bạn Madsen, cùng đi có thêm ông
Hảo. Rồi chính ông Ashton đề nghị Brown đưa mọi người ghé thăm Bộ Thương mại
nơi Brown vừa được bổ nhiệm làm bộ trưởng. Brown đồng ý.
Thượng nghị sỹ John Kerry đưa tên của Thủ tướng Võ Văn Kiệt
lên đầu danh sách những người Việt Nam mà ông cho là có đóng góp đặc biệt cho
chương trình POW /MIA và tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ. Thượng
nghị sỹ John Kerry gặp ông Kiệt nhiều lần, và năm 1993 khi ông Kiệt tiếp ông ở
Thành phố Hồ Chí Minh, John Kerry đã đề nghị ông Kiệt nên viết thư gửi Tổng
thống Bill Clinton yêu cầu Mỹ xóa lệnh cấm vận thương mại, tiến tới bình thường
hóa. Ông Kiệt hỏi: “Theo ngài thì tôi nên viết cho tổng thống như thế nào?”.
Thay vì chỉ góp ý, ông John Kerry đã lấy giấy bút ra tự tay thảo giúp ông Kiệt
lá thư gửi Bill Clinton. Theo ông Võ Văn Kiệt: “Tôi gần như chỉ phải sửa lại
rất ít bản thảo mà ông John Kerry chuẩn bị giúp. Tôi cho chuyển bức thư ra Hà
Nội đóng dấu rồi gửi vào ngay để kịp nhờ Thượng nghị sỹ John Kerry mang về Mỹ”.
Ngày 2-7-1993, Clinton tuyên bố: “Mỹ
không còn phản đối những dàn xếp được ủng hộ bởi Pháp, Nhật, và các nước khác
nhằm nối lại sự giúp đỡ của các định chế tài chánh quốc tế cho Việt Nam”.
Đầu năm 1994, Việt Nam được Liên Hiệp Quốc mời đến Ohio dự
một hội nghị của Tổ chức Thương mại và Phát triển, UNCTAD. Thủ tướng Võ Văn
Kiệt cử Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết đi với tư cách là trưởng đoàn. Ông Lê
Văn Triết kể: Vừa tới Ohio thì Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, Boutros Boutros Ghali,
gặp nói: “Tôi muốn có một cuộc họp riêng giữa ông và ông bộ trưởng Thương mại
của nước chủ nhà”. Không kịp xin ý kiến Hà Nội, ông Triết trao đổi với phiên
dịch Trần Đức Minh và một quan chức Bộ Ngoại giao đi cùng rồi nhận lời. Hôm
sau, ông B.B.Ghali giới thiệu ông Triết với Bộ trưởng Thương mại Mỹ Ron Brown
rồi lấy cớ bận một việc khác, rút lui.
Sau vài câu xã giao, Ron Brown nói: “Tôi muốn có cuộc gặp
này để thông báo với ông, tổng thống của chúng tôi sắp tuyên bố bỏ cấm vận
thương mại đối với Việt Nam”. Ông Triết cố gắng giấu sự xúc động, trả lời: “Tôi
rất hoan nghênh; điều đó rất phù hợp với nguyện vọng của người Việt Nam cũng
như người Mỹ”. Brown nói: “Tôi muốn nghe ông nói sâu hơn về suy nghĩ của người
Việt Nam”. Ông Triết: “Lịch sử hai nước có sự bất hạnh là gặp nhau trong chiến
tranh, tôi không nói lỗi của ai, nhưng chiến tranh ở Việt Nam cũng là bất hạnh
của cả nhân dân Mỹ. Lệnh cấm vận gây thiệt hại rất lớn cho chúng tôi, chúng tôi
có nhiều hàng hóa mà không thể bán sang đây, nhưng nhiều doanh nghiệp Mỹ muốn
làm ăn với Việt Nam cũng không thể được”. Brown: “Tôi cám ơn ông. Tôi muốn hỏi
thêm, sau dỡ bỏ cấm vận, cái gì sẽ đi theo?”. Ông Triết: “Với tư cách cá nhân,
tôi nghĩ, sau đó là thiết lập quan hệ ngoại giao”. Brown: “Ở tầm nào?”. Ông
Triết: “Đại sứ”. Brown: “Đó cũng là ý kiến của Thủ tướng?”. Ông Triết: “Thủ
tướng sẽ có ý kiến riêng, nhưng tôi biết ông là một người cởi mở, đường lối của
Đảng chúng tôi hiện nay là làm bạn với tất cả, đây là một quyết định phù hợp
với thời đại”. Ron Brown cám ơn rồi nói tiếp: “Tôi đề nghị chúng ta nên thường
xuyên quan hệ với nhau. Sau ngoại giao, thương mại sẽ có rất nhiều việc để
làm”.
Ở thời điểm Bộ trưởng Ron Brown gặp Bộ trưởng Lê Văn Triết,
ông đang chuẩn bị để ra trước một bồi thẩm đoàn. Giữa năm 1993, một cộng sự của
Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo, ông Lý Thanh Bình - Việt kiều ở Miami - tố cáo: Chính
phủ Việt Nam đã hối lộ ông Brown 700 nghìn USD nhằm đổi lại việc Mỹ dỡ bỏ lệnh
cấm vận và thiết lập bình thường hóa. Theo Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo, Bình đã cùng
ông về Việt Nam và trong cuộc gặp các nhà lãnh đạo Việt Nam ông đã đưa Bình
theo và ông ta biết được phần nào câu chuyện. Sau khi máy kiểm tra không phát
hiện ra Bình nói dối, cảnh sát Miami đã khởi tố vụ án. Bình được trang bị các
thiết bị ghi âm, mang mật danh “radar” và được hướng dẫn cách đưa ông Nguyễn
Văn Hảo vào bẫy điều tra của cảnh sát. Nhưng những băng ghi âm của Bình sau đó
đã không cung cấp được thêm bằng chứng nào cho thấy ông Hảo đang thực hiện một
âm mưu hối lộ.
FBI thu được hai bản fax ông Hảo gửi cho các quan chức
Việt Nam hồi tháng 12-1992 nói rằng phản
ứng của Ron Brown là tích cực. Theo tờ New York Times thì FBI cũng tìm thấy dấu
hiệu chính quyền Việt Nam dự định mở một tài khoản ở Singapore. Tuy nhiên,
không có bằng chứng cho thấy việc mở các tài khoản này có liên quan tới những
hoạt động vận động hành lang của ông Hảo. Các tổ chức phản đối tiến trình bình
thường hóa Việt - Mỹ đã khai thác những lời tố cáo của Bình. Nhưng cả ông Hảo
và Brown đều chỉ nhận là có gặp nhau ba lần và không làm gì sai trái. Sau bảy
tháng điều tra công phu, ngày 1-2-1994, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Ron Brown phải
ra hầu tòa. Trong ngày, bồi thẩm đoàn cho rằng Ron Brown vô tội. Hai hôm sau,
3-2-1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại Việt
Nam.
Tuyên bố của Tổng thống Clinton được đưa ra vào 5 giờ sáng
ngày 4-2-1994 theo giờ Việt Nam. Chưa đầy hai giờ sau, Công ty Pepsi Cola tung
một quả bóng bay khổng lồ (hình cái lon Pepsi) lên vùng trời Thành phố Hồ Chí
Minh, và phát không những lon Pepsi đầu tiên sản xuất tại Việt Nam. Ngày
5-2-1994, Coca Cola bảo trợ một cuộc biểu diễn nhạc rock tại Việt Nam. Pepsi và
Coca Cola là hai trong số hơn 100 công ty Mỹ có mặt ở Việt Nam lúc đó.
Ngay trong tháng 4-1994, một hội chợ triển lãm hàng Mỹ lần
đầu được khai mạc. Ở thời điểm ấy, các doanh nghiệp Đài Loan, Hồng Kông, Hàn
Quốc, Nhật, Pháp và Úc đã ký kết các dự án đầu tư lên tới 8 tỷ đôla. Giới doanh
nghiệp Mỹ đã tạo sức ép khá lớn để bỏ cấm vận.
“Đa phương hóa”
Cả ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh đều thừa nhận vai trò của Thủ
tướng Võ Văn Kiệt trong các hoạt động đối ngoại. Tướng Lê Đức Anh nói: “Chủ
trương làm bạn với tất cả, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, trước hết do các
anh: anh Linh, anh Mười, anh Kiệt trong Bộ Chính trị và anh Tô, cố vấn, đề ra.
Nhưng nói cho đúng, hoạt động nhiều là ông Kiệt”.
Tuy nhiên, mọi đường đi nước bước của Chính phủ, của Bộ
Ngoại giao đều phải được các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười chấp thuận dưới dạng các
nghị quyết của Bộ Chính trị. Ông Lê Đức Anh được phân công phụ trách an ninh,
quốc phòng, ngoại giao. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm: “Các vấn đề về ngoại
giao tôi đều phải xin ý kiến ông Lê Đức Anh và thường được anh ủng hộ”. Ông Đỗ
Mười cũng rất ít khi phát ngôn, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Tôi hiểu ý anh ấy
thông qua ý kiến của Đào Duy Tùng, Nguyễn Hà Phan, Nguyễn Đức Bình”. Ông Kiệt
đôi khi còn nhận được thông điệp bất lợi từ tổng bí thư một cách trực tiếp.
Giữa năm 1993, trong một cuộc họp của Ban Bí thư do ông Đỗ
Mười chủ trì để quán triệt với cán bộ đối ngoại các ngành. Ông Đoàn Mạnh Giao
kể: “Tôi tới muộn một chút nên chỉ còn chiếc ghế trống trước mặt ông Đỗ Mười.
Vào họp, ông Mười than phiền: ‘Sao lại cho Tây ba lô mắc võng nằm cả ở Hồ Tây’.
Tôi bảo: ‘Họ cũng là dân Tây nghèo đi du lịch thôi ạ’. Ông Mười nói: ‘Chúng nó
làm gián điệp đấy! Tớ vừa ký cho cậu lên thứ trưởng mà nói gì cũng cãi’. Ông Đỗ
Mười vừa dứt lời thì Chánh Văn phòng Trung ương Hồng Hà lấy ra một đống sách do
sứ quán các nước châu Âu in bằng tiếng Việt, rồi nói: ‘Các sứ quán in tài liệu
tuyên truyền công khai anh ơi’. Ông Đỗ Mười hỏi: ‘Chủ nghĩa xã hội dân chủ à?’,
rồi quay sang tôi: ‘Tại sao Chính phủ lại cho in như vậy?’. Tôi nói: ‘Thưa bác,
luật lệ ngoại giao không cấm điều này. Hồi xưa, sứ quán ta ở Trung Quốc cũng in
những tài liệu tuyên truyền. Những tài liệu này để trong sứ quán, vấn đề là cán
bộ ta vào đó rồi mang ra thôi ạ”.
Cho dù về đối nội, tổng bí thư là người giữ vị trí cao nhất
trong hệ thống chính trị Việt Nam, nhiều quốc gia vẫn không thể tiếp đón ông Đỗ
Mười với các nghi thức dành cho nguyên thủ. Trong thời gian đầu, gần như ông Đỗ
Mười chỉ có thể thăm viếng những nước như Trung Quốc, Lào, Cuba… về sau có thêm
Hàn Quốc, Nhật… đồng ý tiếp ông. Trong khi đó, “nguyên thủ quốc gia” trên danh
nghĩa là Tướng Lê Đức Anh lại bị ấn tượng là quá cứng rắn.
Mãi tới tháng 11-1993, Chủ tịch nước Lê Đức Anh mới bắt đầu
chuyến thăm chính thức tới Lào và chặng kế tiếp theo thông lệ là tới Bắc Kinh.
Năm 1994, ông đến Indonesia và Iran. Năm 1995, thăm Kuwait, Syria, Cambodia,
Brazil, Cuba, Philippines. Cũng trong năm 1995, Lê Đức Anh đến Pháp dự lễ kỷ
niệm 50 năm chiến thắng phát xít và sau đó tới New York dự lễ kỷ niệm 50 năm
ngày thành lập Liên Hiệp Quốc. Ông là người duy nhất trong thế hệ các nhà lãnh
đạo vào Đảng trước năm 1945 và là vị nguyên thủ cộng sản Việt Nam đầu tiên tới
Mỹ.
Trong khi đó, ngay từ tháng 10-1991, ông Võ Văn Kiệt đã bắt
đầu các chuyến công du “phá băng” xuống các nước ASEAN. Không chỉ đi nhiều hơn
những người đồng nhiệm, thật khó giải thích vì sao ông Võ Văn Kiệt, một người
xuất thân từ nông dân, lại chính là nhà lãnh đạo đầu tiên nhận ra việc phải
chấn chỉnh từ bên trong để chuẩn bị một tư thế mới, không chỉ cho cá nhân ông
mà cho cả Việt Nam, trước khi thiết lập quan hệ rộng rãi hơn với các quốc gia
trên thế giới.
Ngày 5-11-1991, trên chuyến chuyên cơ từ sân bay Nội Bài đi
Bắc Kinh, ông Võ Văn Kiệt nói với ông Đỗ Mười ý định mở ngay một tuyến cao tốc
từ Hà Nội lên Nội Bài và đã được ông Đỗ Mười ủng hộ. Ngày ấy, để đi từ Hà Nội
đến sân bay, xe phải qua Cầu Đuống, sang Đông Anh, vừa phải lòng vòng xa, vừa
đi qua những khu phố nhếch nhác, chật hẹp. Không chỉ rút ngắn khoảng cách từ
sân bay quốc tế về Thủ đô, đoạn đường cao tốc đầu tiên được làm với nguyên tắc
BOT này đã gieo những ấn tượng đầu tiên về một Việt Nam đang thoát ra khỏi
nghèo nàn, lạc hậu.
Ông Kiệt cũng cho chuyển nơi đón các vị nguyên thủ quốc gia
từ Nhà khách Chính phủ số 12 Ngô Quyền về Phủ Chủ tịch. Ông Kiệt nói: “Một lần
tôi được cử tháp tùng Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đi đón Tổng Bí thư
Rumania Ceausescu. Lễ đón được tổ chức trước Nhà khách Ngô Quyền, hình Hồ Chủ
tịch đặt trên nóc tòa nhà Ngân hàng Nhà nước, một phông vải lớn căng che nhà
Ngân hàng, cờ quạt trông như một sân khấu hát bội. Cả chúng tôi và dân chúng
được huy động đến phải đứng đợi giữa nắng. Tôi thấy không ổn, nghĩ, phải thay
đổi từ những việc tưởng là nhỏ như thế này. Nhưng khi đó tôi mới chỉ là phó chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng”.
Chuyển nơi đón khách thì buộc phải phá một “vườn hoa con
cóc” ở trước sân Phủ Chủ tịch, Quyết định của ông Kiệt bị phản ứng. Ông Kiệt
kể: “Có người tố cáo với anh Phạm Văn Đồng: Ông Kiệt san bằng di tích. Anh Đồng
gọi tôi đến, tôi thưa: anh biết rõ cái gọi là di tích ở đó, chỉ là một cái mỏ
neo cắt trên một thảm cỏ cây. Rồi tôi nói, để tổ chức một lễ đón các nguyên thủ
cho có tư thế quốc gia, không có chỗ nào trang trọng như trước Phủ Chủ tịch.
Mặt khác, chúng ta cũng không thể phơi nắng, phơi mưa cả chủ lẫn khách như lâu
nay vẫn làm. Anh Đồng nói: anh nói cũng phải. Thế là tôi về, cho sửa. Lúc đầu
ta vẫn đón khách theo kiểu duyệt binh, có đủ hải-lục-không quân. Tôi bỏ duyệt
binh, chỉ để đại diện các binh chủng đứng thành hàng và không còn bắt dân phơi
nắng nữa”.
Ông Kiệt nói: “Các anh làm đối ngoại lâu năm như anh Nguyễn
Duy Trinh, anh Nguyễn Cơ Thạch, đặc biệt, anh Thạch là một bộ trưởng ngoại giao
rất có tầm, sau anh không có ai bằng. Nhưng, lạ là các anh ấy vẫn để cho việc
lễ tân trong những cuộc họp hành, đón khách quốc tế rất luộn thuộm. Gần như
không có đối chiếu, gần như không để ý đến cái không phù hợp của mình, để sửa”.
Ngay như quyết định của ông Kiệt cấm đi dép lê và yêu cầu mặc comple, thắt cà
vạt tại các nghi lễ trọng thể, theo ông Vũ Khoan: “Anh em làm ngoại giao lúc
đầu cũng cho rằng đó là một quyết định không thực tế.
Cho tới một lần, lên một tỉnh miền núi họp, tôi bị hố vì chỉ
có tôi ăn mặc tuềnh toàng trong khi các vị lãnh đạo địa phương đều mặc comple,
đeo cravat”.
Ông Võ Văn Kiệt cũng là nhà lãnh đạo đầu tiên nhận ra nhu
cầu chấn chỉnh cung cách thiếu chuyên nghiệp của các cơ quan ngoại giao Việt
Nam ở nước ngoài. Năm 1990, khi tới Davos dự Diễn đàn Kinh tế thế giới, ông
Kiệt nhận ra sự thiếu chuyên nghiệp của các quan chức ngoại giao. Nữ phiên dịch
của ông trong chuyến đi, bà Tôn Nữ Thị Ninh kể: “Khi tiễn ông ra sân bay, sứ
quán nói, đại sứ ra trước để chuẩn bị, tôi với ông đi sau. Nhưng cậu lái xe lại
không biết phòng VIP ở đâu, ba thầy trò loay hoay mãi. Cuối cùng, tôi đành phải
tìm một góc yên tĩnh, để ông ngồi đấy. Tôi đi được ít phút thì người của sứ
quán chờ không thấy ông, đi tìm. Ông không la mắng gì nhưng rất bực mình, trên
đường về ông nói, cơ quan ngoại giao của mình ở nước ngoài chưa đủ tầm và thiếu
chuyên nghiệp”.
Chuyến đi Davos tháng 2-1990 là chuyến đi đến phương Tây đầu
tiên của ông Võ Văn Kiệt. Trước ngày lên đường, bà Phan Lương Cầm, phu nhân của
ông, cho mời bà Tôn Nữ Thị Ninh đến, nói: “Chị sống ở bên đó lâu, xin chị mạnh
dạn góp ý, kể cả chuyện ăn mặc, anh Sáu nên thế nào?”. Bà Ninh nói: “Ông Kiệt
có phong thái của một chính khách rất gần với phương Tây”.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng: “Quan hệ cá
nhân đóng một vai trò quan trọng trong công tác đối ngoại. Trong đàm phán, ông
Kiệt thường tạo được cảm tình và độ tin cậy rất cao, không chỉ với những nhà
lãnh đạo châu Á như Mahathir, Than Shwe, Chatichai, Aquino… Các nhà lãnh đạo
ASEAN như Chatichai, Mahathir, đặc biệt là Lý Quang Diệu đều giữ quan hệ khá
thân mật với ông Võ Văn Kiệt.
Ông Võ Văn Kiệt gặp ông Lý Quang Diệu năm 1990, ở Davos, khi
cả hai cùng tham dự Diễn đàn Kinh tế thế giới. Lần đó khi phát biểu trên diễn
đàn, ông Lý Quang Diệu nói: “Tôi qua đây, có tiếp xúc với mười đoàn, và hiện
đoàn Việt Nam đang muốn gặp”. Ngồi ở dưới nghe, ông Kiệt nghĩ: “Ông này chơi
mình đây. Cuộc gặp là thỏa thuận của đôi bên, nhưng ổng nói như mình xin gặp
ổng”. Sau đó khi gặp nhau, Lý Quang Diệu lại chỉ trích: “Việc chọn đi theo mô
hình Liên Xô đã làm cho nền kinh tế Việt Nam lạc hậu mất hai mươi năm”. Nhưng,
thay vì tạo thêm xung đột, ông Kiệt đã tìm cách kết bạn với người đã phê phán
mình.
Năm 1991, khi ông Võ Văn Kiệt tới Singapore, Lý Quang Diệu
đã thôi làm thủ tướng được đúng một năm, nhưng vẫn là một nhân vật đầy quyền
uy. Trong một dạ tiệc đón tiếp, ông Kiệt ngồi gần, nói với ông Lý Quang Diệu:
“Chúng tôi hân hạnh mời ngài qua thăm Việt Nam và ngài nên bố trí thời gian đi
thăm nhiều nơi, qua đó ngài có thể có những ý kiến đề xuất, gợi ý vì chúng tôi
từ chiến tranh ra, chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng kinh tế”. Ông Kiệt kể:
Ông Lý cảm ơn lia lịa và nhận lời. Sáng hôm sau, khi báo chí phỏng vấn, Lý
Quang Diệu nói: “Thủ tướng Việt Nam mời tôi làm cố vấn và tôi đã nhận lời”. Ở
nhà, ông Đỗ Mười, rất lo. Ông Kiệt về, ông Mười hỏi: “Anh mời Lý Quang Diệu làm
cố vấn à?”. Ông Kiệt kể: “Tôi thuật lại sự tình nhưng có vẻ như ông Mười không
tin lắm. Ông nói, như thế là bất lợi. Tôi động viên, không sao, biết đâu về
chính trị, không phải bất lợi mà hay, vì mình được tiếng chịu chơi. Thực tế là
hay. Sau đó, báo chí nước ngoài viết: Việt Nam mời một ông chống cộng làm cố
vấn chắc đã đổi mới lắm”.
Năm 1992, Việt Nam được mời làm quan sát viên của ASEAN với
điều kiện năm năm sau mới có thể trở thành quốc gia thành viên. Nhưng, theo ông
Nguyễn Mạnh Cầm: “Chỉ hai năm, họ đặt vấn đề, nếu Việt Nam đã chuẩn bị và sẵn
sàng gia nhập ASEAN thì phải trả lời trong hội nghị ngoại trưởng các nước ASEAN
năm 1994 để năm 1995 gia nhập chính thức”. Đúng lúc đó, theo Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Mạnh Cầm: “Trong Bộ Chính trị có anh phân vân, quan hệ với ASEAN
thì được nhưng gia nhập ASEAN thì không được. Đào Duy Tùng nói: ASEAN là sự
tiếp nối của khối SEATO 429”. Ông Cầm cho rằng: “Nhận thức của một số đồng chí
trong Bộ Chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế
giới”.
Đầu năm 1994, ASEAN thông
báo nếu Việt Nam đủ điều kiện tham gia thì đến Hội nghị các bộ trưởng ngoại giao
ASEAN tại Bangkok phải trả lời. Tháng 7-1994, trước giờ ông Nguyễn Mạnh Cầm đi
Bangkok, Hà Nội vẫn chưa đưa ra quyết định. Ông Cầm kể: “Sáng sớm, gặp Thường
vụ Bộ Chính trị, tôi nói: Khi còn vấn đề Campuchia, ASEAN có những đối kháng
với mình. Nay, họ cũng có nhu cầu quan hệ với mình, ta phải tranh thủ. Bán anh
em xa mua láng giềng gần. Mình có quan hệ được với ASEAN thì mới quan hệ được
với các nước”. Đỗ Mười, Lê Đức Anh đồng ý nhưng, Đào Duy Tùng kiên quyết phản
đối. Ông Tùng cho rằng vào ASEAN không mang lại lợi ích gì trong khi lại làm
tăng nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Đến giờ ông Cầm phải ra máy bay, Đào Duy
Tùng vẫn bảo lưu ý kiến, ông Đỗ Mười dặn: “Anh cứ đi nhưng chưa trả lời, chờ
điện của Bộ Chính trị”.
Rồi, ông Đỗ Mười cử ông Vũ Khoan vào Sài Gòn gặp ông Võ Văn
Kiệt, lúc bấy giờ đang làm việc với Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Kiệt
từ cuộc họp trong 86 Lê Thánh Tôn ra bảo: “Tôi đã nói từ lâu, chuyện này còn có
gì mà phải cân nhắc nữa. Anh báo ngay với anh Cầm là ta đồng ý”. Ông Kiệt nói:
“Các chính khách thân tình của ASEAN nói với tôi, nếu ASEAN đặt vấn đề mà Việt
Nam do dự thì sẽ mất thời cơ vì họ sẽ nghĩ, Việt Nam chỉ thăm dò chứ không
thành thật. ASEAN làm việc theo nguyên tắc đồng thuận, chỉ cần vài nước rút lại
ý kiến là sẽ rất bất lợi”.
Ông Nguyễn Mạnh Cầm kể: “Ông Đỗ Mười dặn phải chờ điện trả
lời của Bộ Chính trị. Theo kế hoạch, các bộ trưởng sẽ gặp nhau trong bữa ăn tối
ngày hôm đó, tôi hy vọng nhận được điện vào buổi chiều nhưng chờ tới sáng hôm
sau vẫn
không thấy đâu. Tôi quyết định vẫn trả lời ‘có’ với ASEAN.
Anh Kiệt đã nỗ lực để đưa Việt Nam gia nhập ASEAN và tôi tin nếu có gì thì anh
sẽ đấu tranh trong nội bộ. Mãi tới chiều hôm sau mới có điện của Bộ Chính trị
đánh sang trả lời đồng ý”. Điện do Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ Chính trị
Đào Duy Tùng ký.
Khi nhận được câu trả lời từ ông Cầm, Bộ trưởng Ngoại giao
Malaysia, ông Badawi, vui vẻ: “Cầm ơi, năm tới Việt Nam sẽ là thành viên của
ASEAN nhưng với anh thì còn hai điều kiện”. Ông Cầm hỏi: “Điều kiện gì?”.
Badawi: “Đến đây, anh không nói tiếng Pháp hoặc tiếng Nga nữa mà phải nói giỏi
tiếng Anh và, điều kiện thứ hai là phải biết đánh golf”. Ông Cầm: “Tiếng Anh
thì tôi cố gắng được còn golf thì tôi sợ lắm. Thời gian để tôi chuẩn bị đánh
golf còn khó hơn Việt Nam chuẩn bị điều kiện gia nhập ASEAN”. Badawi: “Việt Nam
điều gì cũng làm được. Tôi sẽ giúp anh chuẩn bị. Golf là làm việc chứ không
phải chơi”.
Thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc, quốc gia mà cho
tới khi đó vẫn được Việt Nam gọi là Nam Triều Tiên, cũng là một mốc đáng nhớ
trong tiến trình hội nhập, cho dù bên thúc đẩy không phải Việt Nam. Việt Nam và
Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán, đầu tư từ năm 1983, nhưng chỉ ở mức phi
chính phủ. Ông Vũ Khoan kể: “Năm 1991, Ủy ban Kinh tế Xã hội của Liên Hợp Quốc
về châu Á và Thái Bình Dương, ESCAP, họp ở Seoul. Nam Triều Tiên muốn có đại
diện của Việt Nam, họ mua vé và chi phí cho cả đoàn. Tôi trở thành quan chức
đầu tiên của Việt Nam đến Nam Triều Tiên. Tại Seoul, chúng tôi bắt đầu đàm phán
về thiết lập ngoại giao. Họ muốn đặt sứ quán tại Hà Nội ngay, nhưng mình chủ
trương mở trước ở cấp tổng lãnh sự. Hai bên thỏa thuận là bàn kín nhưng đang
bàn thì họ lộ tin cho báo chí, tôi bỏ ra về”.
Sau đó, Nam Triều Tiên đề nghị đàm phán ở cấp vụ. Họ cử đại
sứ tại Thái Lan sang Hà Nội. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: “Trong quá trình đàm
phán có mấy điểm phải xin ý kiến Bộ Chính trị: Mình đòi bồi thường chiến tranh,
họ nói nếu chúng tôi nhận bồi thường, người Mỹ sẽ gây khó khăn; mình đòi họ
phải có trách nhiệm với Việt Nam, họ nói, vậy cũng không được vì Mỹ có trách
nhiệm lớn hơn. Thay vì bồi thường, họ hứa sẽ ưu tiên vốn ODA cho Việt Nam và
thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giữa hai nước”.
Việc thiết lập ngoại giao với Nam Triều Tiên cũng không suôn
sẻ. Trước 1975, Nam Triều Tiên là nước đồng minh của Mỹ, cùng với Australia,
Chính quyền Park Chung Hee có gửi quân đến tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Họp
Bộ Chính trị, ông Nguyễn Hà Phan phát biểu: “Tôi không bao giờ quên tội ác của
lính Park Chung Hee, các anh muốn quan hệ thì phải giải trình, phải làm tư
tưởng với người dân miền Đông nơi lính Park Chung Hee đã gây nhiều tội ác. Tôi
tin là người dân sẽ phản ứng”. Ông Phan nói: “Anh Đào Duy Tùng cũng có ý kiến
là tụi này nó xấu lắm”. Cả ông Nguyễn Hà Phan và Đào Duy Tùng thật ra chỉ là
người phát ngôn. Theo ông Võ Văn Kiệt, nói Nam Triều Tiên đã từng đưa quân tới
Việt Nam chỉ là cái cớ. Việc thiết lập ngoại giao với Nam Triều Tiên bị Bắc
Triều Tiên phản ứng và Trung Quốc thì tỏ ý không hài lòng 430. Tháng 4-1992, hai nước đồng ý thiết lập
văn phòng liên lạc.
Ngày 24-5-1992, sau một chuyến thăm Đại Hàn, Xuân Lương,
thành viên Hội Nhà báo Việt Nam viết bài “Seoul, Mùa Xuân Thoáng Qua” đăng trên
tờ Hà Nội Mới Chủ Nhật. Bài viết mô tả: Nam Triều Tiên sau giải phóng rất nghèo
bởi tài nguyên hầu như không có gì đáng kể, lại sau ba năm “chiến tranh huynh
đệ tương tàn”. Cũng Xuân Lương, ngày 30-5- 1992, có bài đăng trên báo Nhân Dân,
tựa đề: “Nam Triều Tiên Chặng Đường Đi Tới Phồn Vinh, mô tả “sự xuất hiện của
bốn con rồng Châu Á” theo đó, ca ngợi “con rồng” Nam Triều Tiên đi lên nhờ
“tinh thần dân tộc, tính nhẫn nại cộng với chủ trương đúng đắn của nhà nước”.
Ngay sau đó, Đại sứ Bắc Triều Tiên tại Hà Nội đã gặp Vụ phó
Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao Đỗ Công Minh để phản ứng về hai bài báo của Xuân
Lương. Ông Đại sứ cho rằng, cuộc chiến tranh năm 1953 ở bán đảo Triều Tiên là
“chiến tranh giải phóng”; sở dĩ Nam Triều Tiên phát triển là vì “họ sống bám
vào viện trợ của Mỹ, Nhật”. Ông Đại sứ còn đặt vấn đề: “Có thể dẫn tới sự chia
tay giữa ngành báo chí hai nước”431.
Từ trước đó, các phản ứng của Bình Nhưỡng đã được đưa ra cân
nhắc trong các cuộc họp của Bộ Chính trị. Y ếu tố xã hội chủ nghĩa được đặt lên
bàn cân. Ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Bắc Triều Tiên là xã hội chủ nghĩa nhưng
khi ta đánh sang Campuchia, họ là nước tiên phong chống ta nhất chứ không phải
Nam Triều Tiên. Nếu nói về xấu tốt thì chưa chắc ai đã hơn ai”. Bộ Chính trị
không có lý do để từ chối quan hệ với một nước quan trọng như thế trong khu
vực. Ngày 22- 2-1992, Bộ trưởng Ngoại giao hai nước ký tuyên bố chung thiết lập
ngoại giao ở cấp đại sứ.
Tháng 2-1993, khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm đến Seoul, ông
được đón tiếp rất trọng thị. Ông Cầm nói: “Cả tổng thống đương nhiệm và tổng
thống đắc cử đều bảo tôi, họ muốn mời Thủ tướng Võ Văn Kiệt sang thăm. Tôi trả
lời: Tôi nghĩ là Thủ tướng sẽ đồng ý”.
Trước chuyến đi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tháng 5-1993,
đại sứ Nam Triều Tiên tại Hà Nội trình
lên Bộ Ngoại giao một lá thư, đề nghị Việt Nam, từ nay gọi họ là Hàn Quốc thay
vì gọi Nam Triều Tiên. Ông Đoàn Mạnh Giao kể: “Ông Kiệt tham vấn, tôi nói: Thưa
chú, cháu tên là Giao, cháu yêu cầu mọi người gọi cháu đúng tên không lẽ hàng
xóm có quyền không chịu. Ông Kiệt cười. Trước khi ông lên đường, Văn phòng
Chính phủ có một công văn yêu cầu các cơ quan trong nước từ nay chính thức gọi
Nam Triều Tiên là Hàn Quốc”. Khi tiếp ông Võ Văn Kiệt, theo Bộ trưởng Nguyễn
Mạnh Cầm: “Tổng thống Kim Young Sam nói: Ngày trước, Hàn Quốc có một món nợ với
Việt Nam. Đó là điều đáng tiếc xảy ra trong một thời điểm mà chúng tôi không
thể tránh vì là đồng minh với Mỹ. Giờ đây tôi xin sửa bằng cách hợp tác với
nhau tốt hơn”.
Khi đàm phán để ký kết hiệp định hợp tác với EU, trong Bộ
Chính trị, cũng có nhiều ý kiến phản đối cho dù lúc đó Việt Nam rất cần các bạn
hàng châu Âu nhất là bạn hàng dệt may. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Bàn đi, bàn lại
rất nhiều. EU đưa ra các điều kiện đòi Việt Nam phải tôn trọng nhân quyền. Có ý
kiến cho rằng, đó là điều kiện chính trị, không thể chấp nhận. Tranh luận không
ngã ngũ. Năm 1995, khi tôi chuẩn bị đi châu Âu, tôi nói với ông Đỗ Mười: Đề
nghị anh đồng ý với tôi về mặt nguyên tắc, nếu như trong các hiệp định mà EU ký
với các nước khác không có điều kiện nhân quyền mà chỉ đặt ra khi ký với mình
thì tôi sẽ thuyết phục họ rút lại. Nếu đó là nguyên tắc mà EU áp dụng chung thì
đề nghị anh cho tôi quyết định vì mình không phải là một ngoại lệ. Việt Nam
cũng không thể đặt mình trong một sự khác biệt và không thể từ chối các đòi hỏi
hợp lý về nhân quyền. Ông Mười đồng ý về mặt nguyên tắc”.
Trong lịch sử ngoại giao, theo ông Nguyễn Mạnh Cầm, hiếm khi
trong một tháng có tới ba sự kiện lớn như tháng 7- 1995: Gia nhập ASEAN, bình
thường hóa quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung với EU. Kể từ khi Việt Nam đổi
mới cho tới năm 1996, ngoài việc phục hồi quan hệ với một số quốc gia, Việt Nam
thiết lập quan hệ mới với năm mươi bốn nước. Năm 1950, chỉ có các nước xã hội
chủ nghĩa công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1950-1987, Việt Nam thiết lập
quan hệ với 112 nước. Năm 1996, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 166 nước.
Tổng cục II
Khi nhận chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tướng Lê Đức Anh chọn
người đã kế vị mình ở Campuchia, Tướng Đoàn Khuê, làm tổng tham mưu trưởng. Năm
1992, Đoàn Khuê trở thành bộ trưởng Bộ Quốc phòng và, năm 1991, một nhân vật
khác cũng từng ở Quân khu IX và Bộ tư lệnh 719 với Lê Đức Anh, Tướng Lê Khả Phiêu,
được đưa lên làm chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngoài những chức năng hiến định, ông Lê Đức Anh còn được Bộ
Chính trị phân công phụ trách công tác quốc phòng, an ninh và ngoại giao.
Nhưng, khi nói đến thực quyền của ông không thể không nhắc đến lực lượng tình
báo quân đội mà cho dù trong thời bình, đã được ông nâng từ cấp cục lên tổng
cục.
Cuối năm 1986, khi Tướng Lê Trọng Tấn mất đột ngột, Lê Đức
Anh thay vị trí tổng tham mưu trưởng. Chỉ huy tình báo quân đội, Tướng Phan
Bình, được cho về hưu. Trung tướng Phan Bình là người kế nhiệm Đại tá Lê Trọng
Nghĩa làm cục trưởng Cục II kể từ năm 1968, thời kỳ mà tình báo quân đội thực
sự phục vụ cho quốc phòng. Sau khi bàn giao, Tướng Phan Bình vào Sài Gòn. Ông
nghỉ tại nhà khách Cục II, số 30 Lê Quý Đôn. Đêm 13 tháng Chạp năm Bính Dần
(đầu năm 1987), ông chết ở tư thế “ngã sấp trên thềm nhà trước phòng khách, ở
đầu bị bắn toác một lỗ rộng”.
Những thông tin không chính thức sau đó nói rằng “đồng chí
Phan Bình bị bệnh tâm thần, tự sát”432. Tướng Lê Đức Anh đưa Nguyễn Như Văn,
vốn là trưởng Đoàn 12, cơ quan tình báo quân đội bên cạnh Bộ tư lệnh 719 ở
Campuchia lên làm cục trưởng Cục II. Đại tá Vũ Chính, người kế vị ông Tư Văn ở
Đoàn 12 được đưa lên làm cục phó. Năm 1995, Cục II được nâng cấp thành Tổng cục
II, Tướng Vũ Chính thay Nguyễn Như Văn nắm quyền tổng cục trưởng. Một triều đại
mới của tình báo quân đội bắt đầu.
Không dừng lại ở quy mô tổng cục. Dưới sự chỉ đạo của Tướng
Lê Đức Anh, chủ tịch nước kiêm phó bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân sự Trung ương,
Tướng Vũ Chính bắt đầu soạn thảo Pháp lệnh tình báo theo đó thay đổi gần như
căn bản chức năng nhiệm vụ của cơ quan tình báo. Pháp lệnh được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thông qua và được Chủ tịch Nông Đức Mạnh ký vào ngày 14-12-1996.
Sau khi có Pháp lệnh, Tổng cục II soạn thảo một nghị định trình lên Thủ tướng
Võ Văn Kiệt.
Ông Kiệt thừa nhận là khi nhận thấy sự bất ổn của nghị định
tình báo, lẽ ra ông phải đủ can đảm để từ chối ký (Nghị định 96/CP). Nhưng, ông
Kiệt giải thích: “Phần do ông Lê Đức Anh không ngừng thúc ép, phần do, theo
nguyên tắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua pháp lệnh thì Chính phủ có
chức năng phải hướng dẫn thi hành nên chín tháng sau, ngày 11-9-1997, tôi đã
phải ký”. Ông Phan Văn Khải giải thích thêm: “Nghị định tình báo mở rộng quá,
ông Kiệt cảm thấy bất ổn nhưng không vượt qua được”433.
Từ một cơ quan trực thuộc Bộ Tổng tham mưu, Pháp lệnh Tình
báo đã đặt những cơ quan như Tổng cục II “dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp
về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản
lý thống nhất của Chính phủ”. Pháp lệnh cũng biến Tổng cục II, từ một cơ quan
thay vì chỉ làm chức năng chuyên trách tình báo về quân sự và thực thi các
nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng, trở thành một cơ quan có chức năng “tình báo” trong
nội bộ, có quyền: cài người vào các địa phương, các cơ quan của Đảng, Nhà Nước,
các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và kinh tế, được phép thiết lập kênh
thông tin đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, theo
ông Nguyễn Đình Lương 434, nhiều ủy viên Bộ Chính trị nhận được những “báo cáo
tình báo” của Tổng cục II do Tướng Vũ Chính trực tiếp đưa tận tay. Những báo
cáo này đã từng có tác động không nhỏ đến tiến trình đàm phán. Theo ông Võ Viết
Thanh: “Xem lại các báo cáo của Tổng cục II thấy, phần lớn đó là những báo cáo
mang tính chất tác động vào nội bộ của lãnh đạo Việt Nam, tạo bất lợi về mặt
tâm lý trong các hoạt động đối ngoại, có khuynh hướng đẩy tới sự đối đầu với
Mỹ. Tôi không hiểu tại sao khi đọc những báo cáo như vậy mà Bộ Chính trị không
yêu cầu chấn chỉnh”.
Ông Phan Văn Khải thừa nhận: “Ông Lê Đức Anh dùng quân đội,
lực lượng tình báo quân đội để tạo thế và dùng tin tình báo để gây ảnh hưởng
lên cả các vấn đề nhân sự. Năm 2002, khi Nguyễn Chí Vịnh được bổ nhiệm làm tổng
cục trưởng Tổng cục II thay bố vợ là Vũ Chính, tôi có dặn: anh đừng có dùng
Tổng cục II vào những việc như bố vợ anh đã từng làm, Vịnh nói, cháu sẽ nghe
lời chú”435. Thời Vũ Chính còn làm tổng cục trưởng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
cũng đã không thoát khỏi “lưới Tổng cục II” của Tướng Lê Đức Anh.
Đất quân đội
Hai ông Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt chính thức nhận vị trí
“nguyên thủ” ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, trong khi ông Lê Đức Anh phải
đợi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công chủ trì việc thông qua Hiến pháp
mới. Tướng Lê Đức Anh nhận chức Chủ tịch nước vào tháng 9-1992, khi Quốc hội
khóa IX bắt đầu nhóm họp. Ông có lẽ là vị nguyên thủ đầu tiên kết hợp khá nhuần
nhuyễn quyền lực trên thực tế với vai trò mang tính biểu tượng của chức danh
chủ tịch nước. Không phải ngẫu nhiên khi đã trở thành nguyên thủ quốc gia, ông
Lê Đức Anh vẫn ở trong Thành. Quân đội vẫn là một lãnh địa mà ông tiếp tục nắm
vững rồi từ đó tỏa ra sức mạnh.
Tướng Lê Đức Anh là người đưa ra sáng kiến phong tặng danh
hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng436. Ngày 10-9-1994, Lê Đức Anh ký Lệnh ban hành
Pháp lệnh 29-8-1994 và ngày 29-12-1994, trong một đại lễ được Đài truyền hình
Việt Nam trực tiếp truyền đi, Lê Đức Anh đã cùng với hàng trăm bà mẹ, khi ấy ở
tuổi ngoài 70, cùng duyệt hàng quân danh dự trong khuôn viên Phủ Chủ tịch.
Chiến tranh đã cướp đi hàng triệu sinh linh của cả hai bên,
chỉ riêng phía Cộng sản đã có tới 44.253 bà mẹ Việt Nam đủ mất mát để được gọi
là anh hùng: miền Bắc có 15.033 bà; miền Nam có 29.220 bà. Họ là những người
phụ nữ bị mất đứa con duy nhất, bị mất cả chồng lẫn con, bị mất ba con, thậm
chí, có những người như bà Nguyễn Thị Thứ, ở xã Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng
Nam, có tới 9 người con được Chính quyền công nhận là liệt sỹ.
Từ năm 1987, khi Việt Nam bắt đầu rút quân ở Campuchia, căng
thẳng biên giới với Trung Quốc giảm dần, hơn 600 nghìn sỹ quan, binh lính được
cho giải ngũ: 37.338 người đã được Bộ Quốc phòng “xuất khẩu lao động” sang các
nước Đông Âu, trong đó có 9.333 sỹ quan; 25.454 hạ sỹ quan và quân nhân chuyên
nghiệp; 2.551 người thuộc diện con em cán bộ quân đội. Phần lớn phải tự mình
xoay xở: một số trở lại quê hương lam lũ; một số đưa vợ con vào Nam, lên Tây
Nguyên… Các chàng trai chỉ mong có ngày cởi bỏ những bộ quân phục, chia tay với
súng đạn, ít ai nghĩ tới những ưu đãi mà quân đội sắp dành cho những người ở
lại.
Đầu thập niên 1990, sỹ quan quân đội bắt đầu được hưởng mức
lương ưu đãi theo hệ số 1,8. Theo đó, một sỹ quan sẽ nhận được số lương trên
thực tế cao gấp 1,8 lần so với một viên chức dân sự có cùng ngạch bậc. Theo ông
Vũ Quốc Tuấn: “Ông Võ Văn Kiệt không đồng ý. Ông Kiệt cho rằng, nếu anh ở chiến
trường hoặc ở biên cương, hải đảo thì mức lương đó tôi tán thành. Nhưng nếu anh
ở Hà Nội hay Sài Gòn, hằng ngày về với vợ con mà hưởng lương thế là vô lý”437.
Tranh cãi kéo dài suốt từ năm 1991 đến 1994 nhưng không có kết quả. Vấn đề
không phải là công bằng mà là vai trò quân đội trong tương quan chính trị.
Tướng Lê Đức Anh có một quyết định khác làm đổi đời nhiều sỹ
quan, đó là quyết định lấy đất doanh trại và đất mà các đơn vị quân đội đang
nắm giữ ở các thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Cần Thơ, Đã Nẵng… chia cho cán bộ
xây nhà. Ở Hà Nội là các phần đất quân sự xung quanh sân bay Bạch Mai, sân bay
Gia Lâm, khu Lý Nam Đế… Ở Sài Gòn là các vùng đất bao quanh Trung tâm như: trại
Hoàng Hoa Thám; trại Đào Duy Từ; căn cứ 26; Bộ Tổng Tham mưu; căn cứ Hải quân,
từ khu vực Ba Son ăn thông sang khu Lê Thánh Tôn, kéo xuống Tân Cảng; các nhà
máy thuộc Tổng cục Kỹ thuật kéo từ đường 3-2 đến Chí Hòa…
Con trai Tướng Lê Đức Anh, ông Lê Mạnh Hà nói: “Trong thời
gian ông (Lê Đức Anh) làm Bộ trưởng Quốc phòng, ngoài những việc về vấn đề
chiến lược quốc phòng, hay bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mà tôi không
dám lạm bàn, có một việc ông làm mà tôi nghĩ được nhiều quân nhân đánh giá cao,
nếu không nói là biết ơn. Đó là việc chia đất cho sĩ quan quân đội, những người
hầu như không có gì cả sau khi các cuộc chiến kết thúc. Cuộc sống của họ rõ
ràng có sự thay đổi, bởi như các cụ vẫn nói an cư lạc nghiệp” (theo
Vietnamnet).
Những người được cấp đất có thể sẽ dễ dàng đồng ý với ông Lê
Mạnh Hà. Nhưng, trong số hơn 1,6 triệu quân lúc đó, chỉ có hơn 50.000 sỹ quan
và quân nhân chuyên nghiệp được cấp đất, họ là những người may mắn công tác
trong những đơn vị đóng quân tại các thành phố lớn. Nhiều tướng lĩnh đã có biệt
thự ở cư xá Bắc Hải, cư xá Lam Sơn… vẫn được cấp đất trên đường Sư Vạn Hạnh,
trên đường 3-2 hay đường Cộng Hòa. Trong khi, nhiều sỹ quan khác, có người là
tướng, là sỹ quan cao cấp, trở về quê chỉ nhận được một ít lương, trợ cấp.
Đặc biệt, hàng trăm nghìn người lính, nhất là những người
đang bám trụ ở biên giới, hải đảo, đã không may mắn được hưởng đặc ân đất đai,
nhà cửa. Không chỉ tạo ra sự không công bằng trong quân đội, việc cấp đất ồ ạt
cho sỹ quan xây nhà trên những khu đất không được đầu tư cơ sở hạ tầng đã tạo
ra nhiều vấn nạn về đô thị và xã hội. Phần lớn các khu nhà này đều được xây lên
mà không có đường sá, cầu cống, đặc biệt là không có điện nước. Các gia đình tự
khoan giếng và câu điện. Nhiều nơi, mỗi khi mưa xuống là cả khu ngập ngụa, lầy
lội.
Ông Lê Văn Năm, khi ấy là Viện trưởng Viện Quy hoạch Thành
phố Hồ Chí Minh, nói: “Thành phố biết trước những khu đất này sẽ được chuyển
giao cho mục tiêu dân sự nên muốn chủ động quy hoạch để phát triển đồng bộ.
Nhưng, những năm 1987, 1988, mỗi lần vào khu vực Tân Sơn Nhất hay Hoàng Hoa
Thám, chúng tôi đều phải xin phép trước. Chủ tịch Thành phố Phan Văn Khải dặn:
Giữ thân, Lê Văn Năm ơi. Tôi đến Quân khu 7 xin cho làm quy hoạch, làm không
công, tôi nói: Làm xong sẽ trình các anh trước. Nhưng chỉ khi chia đất, xây nhà
xong, quân đội mới giao cho Thành phố. Chúng tôi lại phải điều chỉnh quy hoạch,
khép mối các tuyến đường vừa mở”.
Năm 1989, Chính phủ lập Đoàn Thanh tra 186. Mặc dù chỉ ra
nhiều điều bất cập về quy hoạch phát triển và không ít tiêu cực trong quá trình
phân phối đất, Đoàn Thanh tra chỉ đóng vai trò hợp thức hóa quyền cấp đất cho
Bộ Quốc phòng. Ngày 24-5-1990, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Địa chính ban hành một
thông tư liên bộ, thừa nhận quyền cấp đất của các quân chủng, quân khu với yêu
cầu quân nhân được cấp đất trước khi xây nhà phải liên hệ với chính quyền sở
tại.
Nhưng, các khu nhà ở vẫn mọc lên theo cách tự phát vì bản
thân chính quyền các địa phương cũng không hài lòng khi quyền chia đất không
nằm trong tay mình. Không phải sỹ quan nào được cấp đất cũng có tiền mua nhà,
một số xẻ đất ra bán một phần, hoặc bán hết rồi về quê.
Không chỉ tạo ra sự bất bình đẳng giữa những người được cấp
đất và những người không được cấp, hệ lụy do sự cát cứ đất đai của các cơ quan
không chỉ quân đội khiến cho tài nguyên quốc gia quan trọng này đã không được
huy động theo cách đúng đắn nhất cho quá trình xây dựng đô thị. Sau năm 1975,
đất đai, nhà cửa ở miền Nam cũng được coi như một loại chiến lợi phẩm. Từng ngành
tiếp quản các cơ sở mà Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng cho các chức năng tương
ứng. Ví dụ: Bộ Công nghiệp vào tiếp quản các nhà máy; Bộ Giáo dục tiếp quản
trường học; Bộ Y tế vào nắm các bệnh viện… Vì Sài Gòn là thủ đô của một bộ máy
chiến tranh, Bộ Quốc phòng tiếp quản nhiều đất đai, nhà cửa nhất, với tổng diện
tích lên tới 1.600 hecta.
Đất đai do các đơn vị quân đội tiếp quản trở thành các lãnh
địa mà địa phương bất khả sử dụng. Theo ông Vũ Quốc Tuấn, trợ lý của ông Kiệt,
đây cũng là một trong những vấn đề khiến cho Lê Đức Anh và Võ Văn Kiệt thường
có những bất đồng. Đất đai, nhà xưởng mà quân đội nắm giữ rộng mênh mông. Ở Đà
Nẵng, có lần địa phương dẫn ông Kiệt đi xem cả một dọc dài những vùng đất có
thể phát triển hạ tầng cho các khu kinh tế nhưng Đà Nẵng không thể làm gì vì nó
đang nằm trong tay quân đội. Ở Sài Gòn, quân đội nắm phần lớn những vị trí có
vai trò yết hầu.
Theo ông Lê Văn Năm, khi Thành phố trình phương án Quy hoạch
Tổng mặt bằng, dự kiến bắc bốn cây cầu qua sông Sài Gòn ở hướng Thủ Thiêm, ông
Lê Đức Anh nói: “Tại sao các cậu đòi nhiều cầu thế, trước nay Sài Gòn chỉ có
một cầu cũng đủ kia mà”. Theo quy định, Bộ Chính trị trực tiếp xem xét và quyết
định quy hoạch của những thành phố như Hà Nội, Sài Gòn. Thay vì dự báo mức tăng
trưởng để phát triển hạ tầng tương ứng, các nhà quy hoạch phải “vẽ” một thành
phố chỉ với quy mô dân số mà Bộ Chính trị phê duyệt. Theo ông Lê Văn Năm: “Năm
1993, Bộ Chính trị yêu cầu khống chế quy hoạch Thành phố ở quy mô 5 triệu dân.
Khi đó, chúng tôi đã thấy là không thể nào đáp ứng yêu cầu. Năm 1998, Bộ Chính
trị phải đồng ý điều chỉnh quy mô dân số Thành phố lên 10 triệu”438.
Khi trở lại Sài Gòn làm Chủ tịch, ông Võ Viết Thanh có ý
định di chuyển xưởng Ba Son và Tân Cảng về Thủ Thiêm, ông nói: “Tôi và anh Mai
Xuân Vĩnh, Tư lệnh Hải quân nhất trí với nhau, trước sau cũng phải dời, thấy
trước, chủ động thì đỡ tốn kém”. Một trong những cây cầu mà Thành phố định làm,
được bắc từ đường Tôn Đức Thắng, thẳng theo con đường này tính từ hướng Đinh
Tiên Hoàng chạy xuống bờ sông, trước khi nó uốn cong về phía cột cờ Thủ Ngữ.
Chủ tịch Võ Viết Thanh nói: “Tôi trình bày riêng với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông
nhất trí. Nhưng, theo lời khuyên của ông Kiệt, tôi mời Bộ trưởng Quốc phòng
Đoàn Khuê vào, dẹp hết các ấn tượng cá nhân về con người này, tôi đích thân
cùng ông đi ca - nô dọc sông Sài Gòn để xem kế hoạch di dời Tân Cảng, Ba Son
trong điều kiện xây cầu Thủ Thiêm. Ông Đoàn Khuê không kết luận gì, nhưng sau
chuyến đi ấy, thấy anh Mai Xuân Vĩnh cho Thành phố mượn trước 30 tỷ để giải phóng
mặt bằng”.
Nhưng khi phương án được trình lên, theo ông Võ Viết Thanh:
“Tại cuộc họp Bộ Chính trị, khi ông Đỗ Mười chưa kịp nói gì, ông Đoàn Khuê đã
phản ứng gay gắt. Đoàn Khuê nói rằng, xây cầu, nếu có chiến tranh thì làm sao
bảo vệ. Tôi nói thẳng, vấn đề là làm sao đừng để chiến tranh xảy ra, chứ khi đã
có chiến tranh thì không chỉ cầu mà đường hầm cũng không bảo vệ được. Tôi không
nghĩ là tất cả Bộ Chính trị đều không nhận ra tư duy quân sự ấu trĩ ấy của Đoàn
Khuê”. Theo ông Trần Xuân Giá: “Ông Lê Đức Anh cũng cho rằng, dứt khoát không
được làm cầu nổi vì Ba Son cần giữ bí mật”.
Khi làm đại lộ Đông - Tây, lẽ ra nếu làm cầu thì chỉ hết
chưa tới 100 triệu đôla, nhưng Thành phố cũng đã bị buộc phải làm đường hầm qua
Thủ Thiêm với kinh phí cao hơn gần gấp ba lần. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Thôi, Bảy
Thanh, hãy để cho 4 triệu dân Thành phố đánh giá”. Nhưng, sẽ không có một thiết
chế chính trị nào để bốn triệu dân Thành phố đánh giá những quyết định của các
nhà chính trị. Bản chất vấn đề, theo ông Lê Văn Nam: “Ông Kiệt nói ngắn gọn:
Tụi mình thua nhà binh”.
Theo Bộ trưởng Trần Xuân Giá, nhiều lần, ông Võ Văn Kiệt
“tức như bò đá” vì có những dự án đầu tư đã xong đâu vào đấy nhưng không thể
nào thực hiện vì Bộ Tổng Tham mưu trả lời không. Theo nguyên tắc, tất cả các dự
án đầu tư nước ngoài đều phải có văn bản hỏi ý kiến Bộ Tổng Tham mưu về vị trí.
Bộ Tổng Tham mưu sẽ căn cứ vào bản đồ “Bố phòng Quốc gia” để trả lời được hay
không mà không cần giải thích.
Theo ông Giá, quốc gia nào cũng có một bản đồ bố phòng,
nhưng vấn đề là những người lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã sử dụng tư duy quân sự
của thập niên 1960 để điều chỉnh những bước đi của thập niên 1990, 2000. Có lần
ông Kiệt phải kêu lên: “Tôi là Thủ tướng, là Ủy viên Bộ Chính trị mà cũng không
được xem bản đồ bố phòng”. Theo ông Giá, đấu tranh mãi cuối cùng ông Kiệt mới
yêu cầu Bộ Chính trị tổ chức một cuộc họp, đưa bản đồ bố phòng quốc gia ra,
thống nhất chỗ nào dứt khoát người nước ngoài không được đầu tư, chỗ nào có thể
xem xét.
Tuy nhiên, ông Kiệt cũng không dễ dàng thắng “tư duy nhà
binh”. Theo ông Giá: “Khi xem xét những vấn đề cụ thể như khu đô thị Nomura,
ông Lê Đức Anh cũng phản đối. Lê Đức Anh nói: Chúng ta để cho người nước ngoài
đứng ở những đầu cầu vững chắc để tấn công Hà Nội. Có lẽ ông ấy nghĩ, Nomura
được đầu tư bởi người nước ngoài thì cũng có thể thành một căn cứ quân sự của
nước ngoài”.
Hóa giá nhà
Ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam, sau ngày 30-4-1975, Chính
quyền tiếp quản hàng trăm nghìn căn nhà, phần từ quỹ nhà công của Việt Nam Cộng
hòa, phần nhà tư của những người di tản trước ngày 30-4-1975 hoặc tịch thu của
những người ở lại439.
Hơn 70.000 căn nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có hàng
ngàn căn biệt thự, được phân phối cho cán bộ, công nhân viên, dưới danh nghĩa
là “thuê”. Nói là thuê, nhưng những cán bộ ở trong đó đã coi việc thuê nhà như
một động thái chiếm hữu. Theo chính sách bao cấp, tiền thuê những căn nhà, kể
cả những căn biệt thự đó, được tính không quá 5% tiền lương của người thuê. Nhà
nước chỉ thu được một khoản tiền rất tượng trưng: một ngôi biệt thự chỉ từ 10
đến 20 nghìn đồng/tháng; một căn hộ cấp II, 5000 đồng/tháng; một căn hộ trong
chung cư có từ 2 -3 phòng, giá chỉ từ 2000 đến 4000 đồng/tháng. Chính sách bao
cấp đưa cả căn biệt thự rộng 400 - 500m2 cho một hộ 3-4 nhân khẩu, trong khi
hàng triệu người vẫn không có nhà.
Vì là chủ sở hữu nên Nhà nước vẫn có trách nhiệm phải sửa
chữa những căn nhà này khi có yêu cầu. Chính quyền Thành phố tính rằng, phải
thu 100 năm tiền thuê nhà mới bằng khoản tiền mà Nhà nước phải bỏ ra để sửa
chữa trong hơn 10 năm đó. Trong thời gian bao cấp, ít ai để ý, nhưng khi nền
kinh tế chuyển dần sang thị trường, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu vào, nhu
cầu thuê nhà xuất hiện thì sự bất hợp lý này càng bộc lộ. Giá biệt thự cho
người nước ngoài thuê ở thời điểm đầu thập niên 1990, trung bình từ 1000-3000
USD/tháng/căn, có khi lên tới 6.000 USD,
chủ nhà lại thường được trả trước một năm tiền nhà với một khoản tiền đủ để đi
mua nhà mới. Thành phố điều chỉnh bằng quy định, “điều tiết” một phần tiền từ
những người này với mức tối đa 25.000 đồng/m2, trong khi họ có thể cho thuê lại
với giá 10- 15 USD/m2.
Chính sách bao cấp
đã làm cho diện tích bình quân về
nhà ở ở Sài Gòn giảm từ 8m2/người năm 1945 xuống còn 5,1m2/người năm 1989. Với tốc độ tăng dân
số bình quân mỗi năm là 100.000 người, để giữ được diện tích tối thiểu của năm
1990: 5m2/người, mỗi năm Thành phố phải xây mới 500.000m2 nhà ở. Trong khi, theo thống kê của Sở Nhà
đất, 15 năm “sau ngày giải phóng”, Thành phố chỉ xây được từ 150.000 đến
175.000 m2 nhà ở/năm.
Ở thời điểm năm 1990, Thành phố có 43.000 căn nhà lụp xụp,
rách nát, trong đó có 17.000 căn hộ sống trên kênh rạch ô nhiễm nặng cần phải
cải thiện hoặc giải tỏa. 15 năm sau ngày “giải phóng”, trong số 185 hộ ở Cầu
Ván, một vùng nghèo ở vùng ven, chỉ có một hộ thay được mái lá bằng mái tôn,
loại tôn cũ gỡ lại. Ở phường 12, quận Bình Thạnh, năm 1990, có 1.200 người sống
trong 300 căn hộ dựng tạm trên nghĩa địa, không nước, không điện. Toàn Thành
phố còn hơn 10.000 người sống lang thang dọc các vỉa hè hoặc gầm cầu.
Từ cuối năm 1989, Thành phố chủ trương tìm nguồn vốn bằng
cách bán những căn nhà đang cho thuê này cho những người đang thuê những căn
nhà đó, chủ yếu họ là cán bộ, công nhân, với giá nhà nước, thấp hơn nhiều so
với giá thị trường, gọi là hóa giá nhà.
Theo ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp,
khi ấy là Chủ tịch Thành phố: “Đoàn
của Hội đồng Bộ trưởng đã đồng
ý cho phép Thành phố làm và khuyến khích khẩn trương làm. Ngày 9-2-1990,
Ủy ban Nhân dân Thành phố ra thông báo về chỉ đạo này của Hội đồng Bộ trưởng để
các nơi tích cực chuẩn bị tổ chức thực hiện”. Từ đó cho tới tháng 7-1991, theo
Báo cáo của giám đốc Sở Nhà đất: đã có 12.000 đơn xin hóa giá nhà cấp III, IV;
các ban chỉ đạo hóa giá nhà đã hoàn tất 3.349 hồ sơ, trong đó đã thu tiền bán
1.761 căn nhà; trong số này, có 87 căn nhà theo diện chính sách được cấp không.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991, ông Đỗ Mười trở
thành tổng bí thư, ông Võ Văn Kiệt, tuy chưa chính thức được Quốc hội bỏ phiếu
bầu, nhưng theo sự phân công của Đảng đã trở thành người thay thế ông Đỗ Mười
đứng đầu Chính phủ. Theo ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Thành phố cử ba cán bộ phụ
trách lĩnh vực - ông Nguyễn Văn Huấn, ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, phó chủ
tịch Ủy ban Phụ trách nhà đất; Ông Lê Văn Năm, ủy viên Ủy ban; Ông Lê Thanh
Hải, giám đốc Sở Nhà đất - ra Hà Nội xin ý kiến Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng và
Bộ Xây dựng cho hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự”. Đây là những cán bộ đã từng
có mối quan hệ gần gũi với ông Võ Văn Kiệt và sau khi tiếp xúc, cả chính thức
và tại nhà riêng, Đoàn về báo cáo với Thường vụ Thành ủy, Thường vụ Hội đồng Bộ
trưởng và Bộ Xây dựng đồng ý cho thành phố làm.
Sáng 12-7-1991, trong một cuộc họp có báo chí tham dự, Chủ
tịch Nguyễn Vĩnh Nghiệp chỉ thị phải tăng nhanh tiến độ hóa giá nhà để đến cuối
tháng 9-1991 phải hóa giá xong nhà cấp III, IV. Ngày 30-7-1991, Thành phố ra
Quyết định “hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự”.
Hàng trăm căn biệt thự đã được bán ra với giá vô cùng rẻ
mạt. Thế nhưng, để có tiền mua hóa giá, nhiều người đã phải “bán lúa non” cho
người khác với giá cao hơn hàng chục lần so với giá thực trả cho Nhà nước.
Thanh tra phát hiện ra bốn trường hợp bán lại, trong đó có những trường hợp đã
kịp bán lại hai lần trong những tuần đầu. Một trong những
người bán lại sớm nhất nhà hóa giá là Đại tá Lê Hãn, con
trai trưởng Tổng Bí thư Lê Duẩn. Khi được điều vào Quân khu VII, ông Hãn được
cấp một căn biệt thự có khuôn viên rộng trên đường Nguyễn Thông, giữa trung tâm
quận Ba. Ngay sau khi “hóa giá”, ông Lê Hãn đã bán lại căn nhà này với khoản
chênh lệch giá lên tới 1,6 tỷ, một khoản tiền khổng lồ lúc đó. Ông Lê Thanh Hải
nói: “Tôi biết là có chuyện liền gửi thư cho Lê Hãn nói đừng làm thế, nhưng Lê
Hãn không nghe”.
Khi cho cán bộ công nhân viên thuê nhà, thực chất là Nhà
nước đã trả lương cho những cán bộ, công nhân đó một khoản tiền lương bằng hiện
vật. Nhưng, có tới 70% cán bộ, công nhân viên và lực lượng vũ trang trên cả
nước không được cấp nhà, nghĩa là không được hưởng phần lương bằng hiện vật
này. Trong số 30% được cấp nhà ấy, phần lớn sống tại các thành phố phía Nam,
đặc biệt là Sài Gòn.
Trừ một số vị công thần của Đảng, đa số cán bộ ở Hà Nội, đầu
thập niên 1990 chỉ được sống trong những căn hộ chật hẹp, hoặc có khi, hàng
chục hộ chia nhau một căn biệt thự. Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc và Chủ
tịch thành phố Hà Nội Hoàng Văn Nghiên khi nhận chức đều đang sống trong những
căn hộ chỉ có 24m2. Trong khi, chỉ cần cán bộ cấp sở ở Sài Gòn cũng đã có thể
được cấp những căn biệt thự có khuôn viên rộng hàng trăm mét. Con số chênh lệch
giá lên tới hàng trăm lượng vàng sau khi được hóa giá nhà trở thành những thông
tin làm rúng động cả nước. Ông Nguyễn Văn Huấn nói: “Bà Ngô Bá Thành cho rằng
Thành phố tham nhũng tập thể. Nhiều ý kiến nói Thành phố chia chiến lợi phẩm,
cướp công trạng của cả dân tộc, chia chác xương máu của cả nước”.
Ngày 13-9-1991, Hội đồng Bộ trưởng có công điện yêu cầu
Thành phố đình hoãn việc hóa giá nhà. Nhưng, như đã đâm lao, Thành phố không
thể dừng lại ngay vì sức ép của chính các cán bộ đang ở trong những căn nhà mà
nếu được hóa giá ngay lập tức họ trở thành triệu phú. Nếu như, trong khoảng từ
30-7 đến 13-9-1991, Thành phố chỉ hóa giá được 465 căn nhà cấp I, II và biệt
thự, thì chỉ bảy ngày sau khi có lệnh ngưng của Hội đồng Bộ trưởng, từ ngày 13
đến 19-9-1991, số nhà được hóa giá lên tới 991 căn.
Bộ Chính trị triệu tập lãnh đạo Thành phố, Bí thư Võ Trần
Chí, Phó Chủ tịch Trương Tấn Sang và Giám đốc Sở Nhà đất Lê Thanh Hải, ra Hà
Nội. Những người ở hậu trường biết rõ, mũi tên hóa giá nhà chủ yếu nhắm thẳng
vào ông Võ Văn Kiệt. Ông Võ Văn Kiệt lúc đó buộc phải nói rằng những người gặp
ông hồi đầu tháng 7-1991 đã hiểu sai câu nói của ông, Hội đồng Bộ trưởng chưa
có chủ trương cho hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự.
Trước áp lực chất vấn của Quốc hội (ngày 20-12-1991), Bộ
trưởng Xây dựng Ngô Xuân Lộc nói: “Việc hóa giá nhà cấp III, IV là hợp lệ vì
Hội đồng Bộ trưởng đã cho phép. Tuy nhiên, hóa giá nhà cấp I, II và biệt thự
thì Hội đồng Bộ trưởng chưa có chủ trương. Việc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh ký quyết định cho hóa giá là vượt thẩm quyền”. Ông Lộc còn cho rằng:
“Chúng ta đang điều hành Nhà nước theo pháp luật nhưng đấy là một việc làm sai
pháp luật, gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước. Hội đồng Bộ trưởng tiếp tục
yêu cầu hoãn hóa giá nhà cấp I, II; những người đã mua, đã có chủ quyền, tạm
thời không được bán; khẩn trương xác định danh sách khu vực nhà không được bán
để thu lại những nhà đã hóa giá”.
Bộ trưởng Ngô Xuân Lộc vừa trả lời xong thì đại biểu Dương
Xuân An công bố trước Quốc hội văn bản số 96, ký ngày 2- 12-1991 của Thành phố
nói rằng “việc hóa giá nhà, Thành phố chỉ làm sau khi có thỉnh thị ý kiến của
Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Xây dựng”. Gần hai mươi đại biểu có ý kiến
ngay sau đó, nhiều người đòi “đặt vấn đề hóa giá nhà của Thành phố trong bối
cảnh chống tham nhũng” để xử lý, nhất là với những cán bộ đương chức được hóa
giá nhà với giá rẻ có thể bán lại thu lợi hàng trăm lượng vàng. Chánh án Phạm
Hưng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Tài, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Ngô
Bá Thành, đòi “vụ việc phải được xử lý trước pháp luật”440.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt phải xuất hiện, ông
nói: “Tôi tán thành với ý kiến của các đại biểu và đề nghị Quốc hội lập một
đoàn thanh tra, nếu phát hiện sai phạm pháp luật thì xử lý theo pháp luật”. Các
đại biểu Quốc hội cho rằng lập đoàn thanh tra là cần thiết để xử lý các sai
phạm, để thu hồi tài sản thất thoát và đòi Quốc hội phải ra một nghị quyết bày
tỏ thái độ441.
Lúc ấy, nhiệm kỳ của “tam nhân” chỉ mới bắt đầu, sức ép đã
đủ để ông Võ Văn Kiệt có những bước lùi. Về mặt công khai, Chủ tịch Quốc hội Lê
Quang Đạo cho trì hoãn việc Quốc hội ra nghị quyết bằng cách hứa là Hội đồng
Nhà nước sẽ ra quyết định. Ông Võ Văn Kiệt vượt qua được sóng gió nhưng đã phải
chịu những tổn thất lớn trong tình cảm với những người bạn ở Sài Gòn442.
Đường dây 500
Không còn như thời kỳ “nhà nước đảng”. Bắt đầu từ thập niên
1990, Chính phủ trực tiếp ban hành và trở thành trung tâm điều hành các chủ
trương, chính sách lớn. Một trong những chủ trương lớn của thời kỳ đó là cho
xây dựng đường dây tải điện siêu cao áp từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình vào miền
Nam, về sau gọi là Đường dây 500 kV443.
Cuối năm 1991, miền Nam thiếu điện nghiêm trọng, trong khi,
Nhà máy thủy điện Hòa Bình, dự kiến vào năm 1995, sẽ sản xuất ra một lượng điện
mà miền Bắc không có khả năng khai thác hết. Bộ Năng lượng tuy đưa ra hai
phương án: bán sang Trung Quốc hoặc làm đường dây siêu cao áp để tải vô Nam.
Nhưng Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải vẫn nói trong Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng: “Chúng
tôi khảo sát, nếu bán sang Trung Quốc thì giá không đến nỗi nào nhưng do phải
xây dựng một đường dây 220 kV để tải điện sang nên tính ra không còn dư bao
nhiêu. Nếu chuyển điện vào miền Nam thì phải xây một đường dây siêu cao áp”.
Việt Nam khi ấy vừa bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
phương án bán điện cho họ cũng được một số người tán thành. Nhưng, theo ông
Kiệt: “Nam Bộ thiếu điện trầm trọng, các nhà đầu tư vào, câu đầu tiên là hỏi về
điện. Vấn đề không chỉ là Trung Quốc, trong đầu tôi không có chuyện bán điện.
Cũng may là khi bàn chuyện bán điện, có người phản ứng, miền Bắc thiếu gạo thì
miền Nam đưa ra, bây giờ miền Nam thiếu điện, không lẽ miền Bắc đưa bán sang
Trung Quốc”. Theo ông Vũ Ngọc Hải: “Ông Kiệt nói: Tôi còn làm Thủ tướng thì
không bán điện đi đâu cả”. Ông Kiệt quyết định sớm làm đường dây siêu cao áp để
đưa điện vào Nam. Chủ trương này được Tổng Bí thư Đỗ Mười đồng tình.
Về mặt thủ tục, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, quá trình hình
thành chủ trương xây dựng đường dây 500 kV cũng có những thiếu sót. Ông Kiệt
nói: “Tôi và ông Đỗ Mười trao đổi, hai bên thống nhất lắm. Hai, ba lần họp Bộ
Chính trị, ông Mười nhắc: Anh Kiệt nên làm gấp đường dây 500. Nhưng, ông Mười
không bao giờ cho bàn chính thức để đi đến một quyết nghị của Bộ Chính trị. Thế
rồi, khi anh Nguyễn Văn Linh hỏi anh Đỗ Mười: Chủ trương đâu, thì té ra, trong
Bộ Chính trị cũng có nhiều người không đồng tình, tỏ ra bực bội, nói ông Kiệt
tự ý làm. Anh Mười im lặng. Ông Linh dựa vào đó nạt mình”.
Trước Tết năm 1992, nghĩa là ở thời điểm mà chủ trương đã
hình thành, Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một Việt kiều ở Pháp, nêu ra ba nghi vấn
về đường dây 500 kV: Đường dây dài gần 1.500 km, tạo ra chênh lệch 1/4 bước
sóng cho nên không thể tải điện đi miền Nam; Chưa có luận chứng mà đặt mục tiêu
thi công trong hai năm là không tưởng; Giá thành sẽ rất cao, về mặt hiệu quả
kinh tế là không có. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi đến gặp ông không lâu sau khi có
thư của ông Nhẫn. Ông đưa lá thư cho tôi coi rồi nói: Chú đã cho thư ký photo
gửi hết cho anh em. Tôi kêu lên: Trời ơi, sao chú làm thế? Ông cười: Không có
ai chỉ ra những điểm yếu của mình đầy đủ như những người phản đối mình. Ở đây
có những cảnh báo mà anh em chưa đặt ra hết”.
Ông Vũ Ngọc Hải thừa nhận: “Dù tin anh em, ông Kiệt vẫn bị
ám ảnh bởi ý kiến của Giáo sư Nhẫn”. Ông Kiệt triệu tập khẩn cấp ông Vũ Ngọc
Hải. Ông Hải nói: “Tôi thức trắng một đêm, xem tài liệu và tự mình tính toán.
Việc xử lý chênh lệch 1/4 bước sóng bằng năm trạm bù đã được các chuyên gia
nước ngoài thẩm định. Tôi quyết định ký và đảm bảo với Thủ tướng: Anh an tâm,
tôi lo nhất là vấn đề an ninh chứ không phải là an toàn. Anh đảm bảo vấn đề an
ninh, vấn đề kỹ thuật, tôi đảm bảo. Ông Kiệt quyết định và nói: Cứ làm, nếu
thất bại thì không đợi cách chức, tôi sẽ chủ động từ chức”.
Nhưng lá thư của ông Nhẫn đã được những người phản đối công
trình khai thác. Theo ông Vũ Ngọc Hải, ông Nguyễn Văn Linh vốn ủng hộ phương án
bán điện, lấy tiền xây nhà máy nhiệt điện ở miền Nam, nhưng trước đó, chưa có
đủ lập luận để phản bác. Sau khi có được lá thư của ông Nhẫn, từ miền Nam, bà
Ngô Bá Thành, người được ông Nguyễn Văn Linh đưa lên chức Chủ nhiệm Ủy ban Pháp
luật Quốc hội, nói gần nói xa: Làm đường dây 500 là tự sát. Ông Đỗ Mười lúng
túng.
Trụ điện đầu tiên của công trình đường dây 500 kV được khởi
công vào ngày 1-3-1992. Ông Võ Văn Kiệt đã “đổ thêm dầu vào lửa” khi, ngày
24-3-1992, ngày Quốc hội khóa VIII khai mạc kỳ họp cuối cùng, ông bay lên Hòa
Bình dự lễ khởi công công trình xây dựng cột điện ở nơi khởi nguồn của đường
dây. Ông Nguyễn Hà Phan nói: “Bữa ông đi khởi công, tôi khuyên: Anh đợi tới
chiều hẵng đi, dự khai mạc Quốc hội đã. Nhưng ông vẫn đi. Bà Nguyễn Thị Bình,
Phó Chủ tịch nước nói: Ông này bất kể thiên địa. Một ông rất to trong Quốc hội
lo: Gió bão nó đổ một cây cột thì ai chịu? Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo nói
với tôi: Sáu Phan à, làm cái này coi bộ vướng”.
Trong khi đó, Hà Nội nhận được những tín hiệu mà Cố vấn
Nguyễn Văn Linh phát ra từ Sài Gòn. Khi không chính thức đưa công trình đường
dây 500 ra bàn ở Bộ Chính trị, ông Đỗ Mười cũng có những tính toán. Năm 1989,
hai lần ông Đỗ Mười cho thảo một nghị quyết để Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành
Trung ương thông qua, hợp thức hóa chủ trương chống lạm phát bằng “lãi suất
cưỡi sóng” của ông, nhưng cho dù ủng hộ, ông Nguyễn Văn Linh lờ đi. Chỉ khi làm
thí điểm ở Hải Phòng có kết quả, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI mới đưa vấn đề
chống lạm phát vào Nghị quyết.
Không phải ông Võ Văn Kiệt không biết tình huống chính trị
này, nhưng khi không hối thúc ông Đỗ Mười chính thức có chủ trương, ông Kiệt
cũng có những cân nhắc. Ông Kiệt không muốn tạo tiền lệ Chính phủ làm gì cũng
phải được bàn trước trong Bộ Chính trị và phải xin ý kiến Quốc hội444. Việc ông
Kiệt phát lệnh khởi công một công trình lớn ba tuần trước khi Quốc hội khóa
VIII họp kỳ cuối cùng đã làm mếch lòng rất nhiều đại biểu.
Ngày 13-4-1992, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Giáo sư Vũ Đình Cự nói: “Ủy
ban chúng tôi đã phải làm một việc rất khó khăn vì phải phát biểu ý kiến về một
công trình quan trọng, nhân dân cả nước quan tâm, đã có quyết định của Hội đồng
Bộ trưởng và lại vừa được cử hành lễ khởi công rất trọng thể ở nhiều nơi trong
nước”445.
Ông Vũ Đình Cự nói tiếp: “Ngày 3-2-1992, Bộ Năng lượng mới
trình hồ sơ luận chứng kinh tế kỹ thuật, ngày 17-2- 1992, Hội đồng Thẩm tra Nhà
nước chỉ làm việc trong một ngày, vậy mà đến ngày 19-2-1992 đã trình lên Hội
đồng Bộ trưởng để phê duyệt. Từ đó dẫn đến một số khiếm khuyết. Nhiều vấn đề
khoa học kỹ thuật và công nghệ chưa được
nghiên cứu một cách thấu đáo... Chúng tôi xin nói thêm là khi đề nghị các
chuyên gia đầu ngành về kỹ thuật điện cho biết là đã có những nước nào làm
đường dây 500 kV dài trên 1000 cây số, thì các đồng chí không nắm vững; có một
đồng chí cho biết đường dây của chúng ta là đường dây thứ ba. Trên thế giới mới
có hai đường dây trên dài trên 1000 cây số và điện áp là siêu cao áp. Sau khi
xây dựng chỉ có đường dây của Pakistan, dài 1200 cây số là dùng được, còn đường
dây kia, dài 1700 cây số thì không dùng được”. Đặc biệt, theo ông Vũ Đình Cự:
“Chưa có cơ sở về khả năng thi công hoàn thành đúng thời gian trong hai năm khi
mà nguồn vốn chưa được xác định vững chắc, vật tư chủ yếu đều phải nhập ngoại”.
Một thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa
học Nhà nước Đặng Hữu, cũng dấy lên không ít hoài nghi khi ông nói trước Quốc
hội: “Chủ trương đặt ra là cần thiết
nhưng, có nhiều vấn đề khoa học chúng ta chưa kịp nghiên cứu. Anh em
cũng hơi băn khoăn lo lắng… Cái phần 1/4 bước sóng, tôi đồng ý như anh Nguyễn
Đình Tứ đã nói. Thực ra, về lý thuyết anh em hiểu hết và trên thực tế các nước
đã làm rất nhiều ở Liên Xô và Mỹ. Nhưng vấn đề lại là chúng ta chưa có đội ngũ
chuyên gia để làm những công việc đó. Lo là lo chỗ đấy!… Nếu như làm một cái
trụ thôi thì có lớn hơn chúng ta cũng có thể làm được. Nhưng mà đây là làm một
dãy dài hơn 3.000 cái trụ trong một thời gian ngắn. Mặt thứ hai, nếu dựa vào
nước ngoài một nửa thì hôm trước anh Hiệu có đề xuất với anh Sáu (Võ Văn Kiệt),
anh Sáu cũng đồng ý có thể mời chuyên gia Liên Xô cùng tham gia vào đây”.
Nhưng hai tiếng “chuyên gia Liên Xô” được nói lên ở thời
điểm này lại dấy lên những quan ngại khác. Bí thư Trung ương Đảng, Viện trưởng
Viện kiểm sát Tối cao Trần Quyết nói: “Liên Xô trước đây thì chúng ta rất an
tâm bởi vì là nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản cầm quyền, bây giờ Đảng Cộng
sản mất rồi, chính quyền Xô viết mất rồi. Những chuyên gia mà lại là đảng viên
cộng sản thì còn được dùng không? Có được gửi sang Việt Nam không? Hay người ta
gửi những thứ ba vạ sang đây, mang tiếng chuyên gia Liên Xô. Cái ông Yeltsin
ấy, Quốc hội chẳng lạ lùng với những gì họ làm ở nước Nga. Họ phá tan Đảng Cộng
sản, phá tan Liên bang Xô viết. Vậy thì đối với Việt Nam thì như thế nào”.
Tháng 8-1992, tại Hội nghị Cán bộ tổ chức toàn quốc, họp tại
Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh, bấy giờ đang là Cố vấn Ban Chấp
hành Trung ương đến dự đã nói: “Làm đường dây 500 kV là một chủ trương phiêu
lưu, mạo hiểm. Là lợi dụng tiền Nhà nước để gây thanh danh cá nhân”. Đặc biệt
tại đây, ông Linh đã dấy lên những lo ngại về vấn đề tham nhũng.
Nữ nhà báo Minh Thu nhớ lại: Đầu thập niên 1980, khi lên Trị
An làm phóng sự, bà chứng kiến một nhóm cán bộ đứng trong rừng trước một tấm
bản đồ. Chính giữa họ là một người đàn ông trạc 60 tuổi, phong trần, mặc áo may
ô, đang nói rất say sưa: “Tôi nói với mấy anh rằng, xây dựng một công trình như
thế này mà tham ô, ăn cắp, thì cũng như ăn đồ dơ”. Ông chấm dứt câu nói bằng
một cú chém tay rất mạnh ngang trong không khí. Minh Thu, một phóng viên mới
vào nghề, sau đó mới biết đó là Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt.
Hơn mười năm sau khi bắt đầu đường dây 500 kV, ông Kiệt cũng
căn dặn “các tướng” của mình là “không được tắt mắt”. Ngày 24-3-1992, khi ông
Kiệt lên xã Mạc Đức, Hòa Bình làm lễ khởi công trụ điện số Một, một công nhân
đã bỏ vào túi ông Vũ Quốc Tuấn, thư ký ông Kiệt, một lá thư tố cáo vụ mất cắp
năm tấn xi măng ở công trường. Ông Vũ Ngọc Hải nói: “Ông Tuấn báo với ông Kiệt,
ông Kiệt đọc và nói với tôi: Phải xử lý ngay để làm gương”. Vừa bắt đầu ra quân
đã phải trảm tướng: Giám đốc Công ty xây lắp Điện I bị cách chức.
Về sau, chính tác giả của đường dây 500, Bộ trưởng Bộ Năng
lượng Vũ Ngọc Hải cũng phạm phải một sai lầm chết người. Ban Quản lý công trình
do ông Hải đứng đầu có thẩm quyền nhập thẳng thiết bị, vật tư từ nước ngoài.
Nhưng, ông Hải đã đồng ý cho một “công ty đời sống” của Hội hữu nghị Việt Nam -
Ba Lan mà ông làm Chủ tịch, đấu thầu đứng ra nhập 4.000 tấn thép, giúp công ty
này hưởng một khoản lời khá lớn. Công trình đường dây 500 lúc ấy có hàng chục
nghìn công nhân nhưng đồng thời cũng có hàng triệu con mắt để ý đến từng chi
tiết. Áp lực chính trị đè nặng lên ông Võ Văn Kiệt khi có nhiều ý kiến yêu cầu
bỏ tù ông Hải.
Ông Vũ Ngọc Hải lúc bấy giờ đang là một ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương, theo nguyên tắc Đảng, việc khởi tố ông chỉ có thể tiến hành
sau khi Trung ương họp quyết định hình thức kỷ luật. Ông Hải kể: “Hôm Trung
ương hop đê ky luât tôi, ho co mơi tôi đên nhưng tôi không được vào phòng họp
ngay. Môt chuyên viên cua Văn phong Trung ương đợi tôi ở cổng số 4 Nguyễn Cảnh
Chân, kem tôi đi vao một phòng riêng, đợi đến khi Hội nghị Trung ương khai mac
mơi cho tôi vao dư. Trước Hội nghị Trung ương, tôi thừa nhận đã ‘bút phê’ để
công ty của Hội có thể tham gia đấu thầu và cho rằng việc đó không có gì sai
pháp luật. Nếu là một công ty khác, tôi vẫn giới thiệu”. Trinh bay xong, người
của Văn phong Trung ương lại đến bên ông Hải noi: “Theo yêu câu cua Ban Bi thư,
mơi anh vê”.
Ông Hải không được có mặt trong phần “luận tội” sau đó. Thủ
tướng Võ Văn Kiệt thấy “cách làm không dân chủ” cũng bỏ về. Theo Bộ trưởng Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Trinh: Cuộc họp do ông Đỗ Mươi chu tri. Thứ
trưởng Bộ Nội vụ Phạm Tâm Long chi noi môt câu: “Nêu không khơi tô anh Hai vơi
anh Lê Liêm thi vu an coi như bo đi”. Ông Đô Mươi kết luận: “Cư khơi tô, nêu
điêu tra xong ma không thây vân đê gi thi thôi”. Sau Hội nghị Trung ương, ông
Đỗ Mươi cho gọi Bộ trưởng Nội vụ Bui Thiên Ngô và Chánh án Tối cao Pham Hưng
lên, quán triệt: “Đây la Nghi quyêt cua Ban Chấp hành Trung ương, các anh chấp
hành”.
Sau đó, theo ông Vũ Ngọc Hải, ông Nguyễn Văn Linh có ra Ha
Nôi găp ông Lê Thanh Đao, viên trương Viên Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Cao
trang, được điều chỉnh từ khung 1, canh cao, lên khung 2, có mức án tư ba năm
tu trơ lên. Ông Hải sau đó lãnh án 3 năm tù giam. Thứ trưởng Lê Liêm lãnh án tù
treo.
Mất tướng giữa đường, ông Võ Văn Kiệt càng quyết tâm cao hơn
để hoàn thành công trình. Ông có mặt ở những nơi cam go nhất. Ông chứng kiến
những công nhân gùi vật tư leo lên đèo Lò Xo, đầu người đi sau chạm vào gót
chân người đi trước. Thay vì dùng trực thăng kéo cáp như Thái Lan, ông chứng
kiến cảnh công nhân cầm bó mía đi trước dụ con voi đang cong lưng kéo những
đoạn cáp mồi. Đường dây hoàn thành đúng tiến độ. Nhưng chính đây lại là thời
điểm ông Kiệt lo lắng nhất: Đóng điện.
Chiều ngày 27-5-1994, báo chí túc trực trước cổng Tổng công
ty Điện lực Việt Nam, ông Kiệt đến từ cổng sau. Gần 6 giờ mà báo chí vẫn chưa
được vào. Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi viết vào một mảnh giấy nhỏ: Xin chú cho
quay làm tư liệu thôi. Sát giờ đóng điện, ông nói với Điện lực: Cho truyền hình
vào. Tôi là người duy nhất có mặt. Khi ấy ông vẫn rất căng thẳng, môi ông khô
khốc, miệng há hốc, ngước nhìn lên bảng điện. 19 giờ 07, đèn bật sáng, báo: Phú
Lâm đã nhận được dòng điện đúng như tính toán. Ông thở phào bước lên phòng tiếp
tân. Người đầu tiên mà ông đi tới, ôm lấy, là Thứ trưởng Lê Liêm, đang thụ án
treo. Ông Liêm, khi ấy đã ngoài 60 tuổi, mếu máo trong vòng tay Thủ tướng”.
Sáng hôm sau, vào lúc 5 giờ sáng ở trại giam Thanh Xuân,
phạm nhân Vũ Ngọc Hải đang tập thê duc ơ sân thi một Trại phó chay tới bao:
“Anh Hai vê măc quân ao nhanh lên, Thu tương vao thăm đấy”. Ông Hải nhớ lại:
Tôi thay đồ, lên phong khach, Thu tương đa ngôi đo. Ông mang theo hai chai sâm
banh, ba chiêc ly, vi sơ trong tu không co ly. Ông đưng dây năm chăt tay tôi,
hoi tôi co khoe không, sinh hoat ra sao. Trâm ngâm môt chut, ông hoi: “Co biêt
vi sao minh vao không?”. Tôi bao: “Tôi biêt hôm nay đong điên, chi không biêt
đong vao giơ nao thôi! Nhưng tôi tin la đong điên đa thanh công”. Ông bao: “Mây
hôm nay minh mât ngu vi lo”. Tôi hoi: “Thê con tôi hôm qua anh co ngu đươc
không?”. Ông noi: “Cung mât ngu vi vui sương qua!”. Rồi ông găn huy hiêu đương
dây 500KV cho tôi. Ông bao: “Anh la ngươi đâu tiên đươc găn huy hiêu nay đây”.
Ông tư tay rot ba côc sâm banh, môt côc đưa cho tôi, môt côc đưa cho Giam thi
trai giam. Chung tôi cung cham côc. Con môt chai nữa, ông đưa cho tôi: “Hải câm
lấy”.
Phạm nhân được giữ lại trong trại cho đến khi Thu tương về.
Khi vừa ra khoi phong, họ giơ tay chao ông Hải, co ngươi hoi: “Bô trương vưa
mơi tiêp Thu tương a?”. Ông Hải: “Bô trương cai coc khô”. Nhưng rõ ràng là ông
Hải đã ở tù như bộ trưởng. Ông Hải kể: “Khi tôi nhâp trai, ông Lê Minh Hương,
khi đo la thư trương Bô Nôi vu vao kiêm tra trai giam va cho giai phong môt cai
tram xa cu đê tôi vưa ơ vưa tiêp khach. Cai tram xa nay môt nửa năm trong trai,
một nửa năm nhô ra khu tâp thê cua can bô trai. Hằng ngay, khach đên thăm tôi
nhiêu nên anh em bô tri môt phong gân phong lam viêc cua can bô trai giam. Đông
thơi bô tri môt pham nhân phuc vu, cư co khach đên đăng ky thi ho lai goi tôi
lên phong đo tiêp khach, tiêp không co công an ngôi kem đâu. Trong thơi gian
tôi ơ tu, ngoài Thu tương, Pho Thu tương, có hai mươi tám bô trương, thư trương
và hai phu nhân bộ trưởng cũng vao thăm”.
Sau Têt năm 1995, Phó Thủ tướng Phan Văn Khai vao thăm. Ông
Hải kể: “Anh Khai đem hai chai rươu, noi: Đây la cơ quan tăng câu. Rôi anh lây
ra môt chiêc ao ret: Cai nay cua tơ. Rồi rut ra môt bao li xi đo: Con đây la
cua vơ tơ li xi câu! Anh Khải bao: “Đương dây 500KV đong điên thanh công thê ma
co vi vân phan đôi đây”. Tôi nói: “Cai nay thi tôi biêt. Khi mơi bi khơi tô,
tôi vao Thanh phô Hô Chi Minh, đên chơi nha vơ chông ông Mươi Hai, một ngươi
cung vưa bi khơi tô trong vu an khac, ông Mười Hai noi: “Vi ây đa đông y se tha
tơ, nhưng câu se chêt”.
Sau khi vao trai gắn huy hiệu cho ông Hải, ông Kiêt tác động
để ông được tha. Ông Nguyễn Văn Linh nghe tin, điện cho ông Đỗ Mươi ngăn chặn.
Ông Mươi nói với ông Kiêt: “Tinh hinh chưa thê cho anh Hai ra trươc Têt đươc”.
Ông Kiêt nói: “Ta co ban linh cua ta, vi sao lai phai sơ?”. Ông Mươi: “Thôi cư
đê sau Têt”. Sau Têt ông Hải được đặc xá cùng với hàng ngàn phạm nhân khác. Lần
đầu tiên, lênh đăc xa được Hà Nội áp dụng, ở Sài Gòn, ông Nguyễn Văn Linh noi:
“Đây la con bai đê tha thăng Hai!”.
Đường dây 500 kV thành công nhưng Ban Bí thư không đồng ý
cho làm lễ khánh thành. Một người thư ký cũ của ông Kiệt lúc bấy giờ là Phó Chủ
tịch trực Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Huấn, nói:
“Chẳng lẽ không làm gì? Tôi nói với anh Sáu Dân: Để tôi làm cho. Anh Sáu dặn,
không được lấy một cắc từ ngân sách. Tôi huy động Hàng không, Sài Gòn Tourist
tài trợ, tổ chức một bữa tiệc mời 600 quan khách. Trước Dinh Độc Lập treo
băng-rôn: Thành phố Hồ Chí Minh mừng dòng điện 500 kV ”.
Nhà báo Minh Thu kể: “Tôi vào Dinh, không có một quan chức
nào của Ban Bí thư hay Bộ Chính trị vào dự. Thấy ông ngồi một mình, tôi đến,
hỏi: Chú, cái nhà trẻ xây xong còn có lễ khánh thành, sao một công trình thế
này mà không có ngày khánh thành hả chú. Ông kéo tôi ngồi xuống: Thôi, đóng
điện an toàn là tao mãn nguyện lắm rồi”.
Suốt buổi lễ, ông Kiệt im lặng. Một diễn từ cực ngắn được
ông Nguyễn Văn Huấn đọc: “Cái tên Phú Lâm giờ đây đã trở nên quen thuộc, thân
thương. Bởi, Phú Lâm là điểm cuối cùng của đường dây huyết mạch nối liền với
Hòa Bình. Sức mạnh sông Đà qua Phú Lâm tỏa khắp phương Nam, làm đẹp, làm giàu thêm, miền
đất Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh có thêm điều kiện mới để tiến lên trong
vận hội mới. Cho phép tôi được thay mặt đồng bào Thành phố gửi tới hai vạn
người anh hùng, vẫn đang đứng trên công trường, bất chấp tất cả”. Nhiều năm
sau, khi kể lại câu chuyện này, ông Nguyễn Văn Huấn vẫn tỏ ra vô cùng tâm đắc
với câu: Bất chấp tất cả!
( Còn nữa )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét