+ Lê Quỳnh dịc
(tiếp theo - Kỳ 5)
Chắc chắn Trần Dần có biết
những tư liệu liên quan đến lá thư của Hồ Phong: ông đang ở Trung Quốc vào lúc
lá thư tạo ra chấn động và thảo luận trong giới trí thức Trung Quốc. Cũng chắc
chắn Trần Dần có cảm tình với Hồ Phong, vì bản thân ông gặp xung khắc với chính
dạng lãnh đạo văn nghệ mà Hồ Phong chỉ trích. Trần Dần được cho đi Trung Quốc
để hoàn tất kịch bản bộ phim về chiến thắng Điện Biên Phủ.
Theo thông lệ, đi cùng ông là một chính trị viên mà sau đó ông có
mâu thuẫn vì người kia xen vào công việc sáng tạo của ông. Trần Dần cũng ghét
sự áp dụng “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, giống như Hồ Phong. Cùng thời điểm ông
mở tranh luận với tướng Nguyễn Chí Thanh, Trần Dần cũng đăngbài phê phán tập
thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tố Hữu có chân trong Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động trí thức và văn nghệ, và tập thơ của
ông được xem là ví dụ mẫu mực khi mô tả các anh hùng. Công kích thứ văn chương
“hiện thực xã hội chủ nghĩa” kiểu Tố Hữu, Trần Dần nhấn mạnh: “Realism
encourages a hundred schools to thrive both in substance and in form”. Điều này
khiến Boudarel đặt giả thiết là “ngay từ tháng Hai 1955, một chiến dịch Trăm
hoa Đua nở đã hình thành trong Ban Văn nghệ của quân đội Bắc Việt. Nó xảy ra
một năm trước khi một phong trào có tên như thế bắt đầu ở Trung Quốc, và gần
hai năm trước khi chính sách này có hiệu lực.” [5] Tuy
nhiên, cụm từ “bách gia” thực sự đã có từ thời cổ sử Trung Hoa, chỉ không khí
tranh đua triết lý và tư tưởng trong giai đoạn Xuân Thu và Chiến Quốc (thế kỷ
tám đến thế kỷ ba trước Công nguyên)….
Khi đã biết ảnh hưởng của
văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam, sẽ không phải vô lý khi giả định rằng Trần Dần
đã dùng cụm từ này mà không nhận biết về nguồn gốc của nó. Ngoài ra, lần đầu
tiên cụm từ “bách hoa tề phóng” có mặt trong đời sống văn hoá Trung Quốc là năm
1951, khi Mai Lan Phương, nam diễn viên nhạc kịch nổi danh nhất Trung Quốc, nhờ
Mao ra chỉ thị cho Học viện Nhạc kịch Truyền thống Trung Quốc vừa mới thành
lập. Mao bảo: “Hãy để trăm hoa đua nở, để thể loại mới thay thế cái cũ.” [6].
Còn về cụm từ “bách gia
tranh minh”, thì đó là câu trả lời của Mao cho cuộc tranh luận giữa Quách Mạt
Nhược và Phạm Văn Lan, hai sử gia có tiếng, về cách làm thế nào áp dụng lý
thuyết của Marx vào việc nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc. Chính trong bối
cảnh này Trần Bá Đạt, thư ký riêng và là trưởng ban nghiên cứu lịch sử Trung
Quốc, đã yêu cầu Mao đưa ra chỉ thị [7] .
Như vậy, cả “trăm hoa” và “trăm nhà” đều đã được dùng ở Trung Quốc từ 1953 cho
công tác học thuật và sân khấu, mặc dù chúng được đề đạt riêng rẽ, lan toả
trong từng giới, và chưa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc cho đến giai đoạn hạ bệ
Stalin mùa Xuân 1956.
Theo Kim N. B. Ninh, sự bất
mãn của trí thức Việt Nam với chính quyền không phải bắt đầu từ cuộc xung khắc
giữa Trần Dần với Đảng mà đã có từ cuối thập niên 1940 [8] .
Vì thế liên hệ Trung Quốc trong trường hợp Trần Dần có thể được xem là cảm hứng
khiến ông bày tỏ (cùng nhiều người khác) những bức bối đã có từ trước. Sau này
các bạn của Trần Dần thừa nhận liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần trong bức
tranh biếm hoạ đăng trên Nhân văn, tờ báo phản kháng có ảnh hưởng
nhất, trongsố ra ngày 30-9. Đảng
thậm chí nhận ra sự liên hệ này, và ta không ngạc nhiên là khi Trần Dần bị bắt
tháng Hai 1956 – sáu tháng sau khi Hồ Phong bị giam – thì một số cán bộ nói lý
do của việc bắt giữ là “Trung Quốc có Hồ Phong, có lẽ chúng ta cũng có một Hồ
Phong.” [9] Như
tác giả Kim N. B. Ninh chỉ ra, “Có vẻ chiến dịch chống Hồ Phong dữ dội ở Trung
Quốc đã làm tăng sự cảnh giác ở Việt Nam” và kết quả là Trần Dần trở thành nạn
nhân của sự cảnh giác đó [10] .
Tuy nhiên, ngay sau khi
Trần Dần bị bắt, bối cảnh quốc tế lại trở nên có lợi cho giới trí thức. Liên Xô
tổ chức Đại hội 20 vào tháng Hai và Trung Quốc loan báo Chính sách Trăm hoa vào
tháng Hai, cả hai sự kiện ngay lập tức có tác động tới quan hệ giữa trí thức
Việt Nam và Đảng. Để giới thiệu đường lối mới của Liên Xô, Anastas Mikoyan, phó
Thủ tướng thứ nhất của Liên Xô, đến Bắc Kinh và Hà Nội trong tháng Tư. Cùng
tháng ấy, Trần Dần được thả, chủ yếu vì việc bắt giữ ông diễn ra mà không có sự
chuẩn y của ban lãnh đạo cao cấp nhất trong Đảng, nhưng sự thay đổi trong không
khí quốc tế rõ ràng đóng một phần vai trò trong việc thả Trần Dần. Diễn văn của
Lục Định Nhất vào cuối tháng Năm cổ vũ Chính sách Trăm hoa nhanh chóng được các
trí thức Việt Nam hăm hở đọc. Triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, trưởng Khoa Sử
của Đại học Sư phạm Hà Nội mới thành lập cùng năm ấy, nhanh chóng tìm người
dịch nó trong tháng Bảy [11] . .
--------------
Thơ Tố Hữu sùng bái Stalin
Đời đời nhớ Ông
Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo ông trắng giữa mây hồng
Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông! Thương Ông mẹ nguyện trong
lòng
Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời
(Tố
Hữu, 1950) .
-------------
Theo Bernard B. Fall, ban
đầu Bắc Việt cố không chú ý tới sự cởi mở bất ngờ ở Trung Quốc, nhưng sự bỏ qua
không thể tồn tại được lâu vì nhiều nhà văn có tiếng ở miền Bắc nắm bắt ngay
khẩu hiệu của Trung Quốc. Với họ, khẩu hiệu Trung Quốc có cùng âm vọng như nền
giáo dục cởi mở của Pháp mà họ từng thụ hưởng nhiều năm trước [12] .
Hai cuộc họp quan trọng trong mùa Hè trở thành điểm tập hợp cho ý kiến phản
kháng. Một là Hội nghị của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội từ cuối tháng Bảy
đến đầu tháng Tám, và tại đó các đại biểu phê phán nặng nề nhiều chính sách của
Đảng, từ việc thiếu thực phẩm đến thuế. Hai là hội nghị của Hội Liên hiệp Văn
học Nghệ thuật miền Bắc (1-18 tháng Tám) với chừng ba trăm đại biểu, nhằm học
tập Đại hội 20 của Liên Xô và chính sách văn hoá mới của Trung Quốc. Cuộc họp
đưa ra năm đòi hỏi, trong đó có việc đòi dịch và công bố Chính sách Trăm hoa
của Mao [13] .
Bị thúc ép trước các diễn
biến này, và rộng lớn hơn là vì không khí hạ bệ Stalin và cởi mở trong thế giới
cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chính sách mới với trí thức vào tháng
Tám, nhấn mạnh đoàn kết, tin tưởng và hợp tác với trí thức chứ không nói đến
cải tổ [14] .
Vẫn theo thói tục học tập kinh nghiệm Trung Quốc, Việt Nam gửi đại
diện sang Trung Quốc theo dõi phong trào Trăm hoa [15] .
Vào tháng Mười, khi khủng hoảng Ba Lan – Hungary đang lên cao trào,
sự xét lại chính sách của Bắc Việt chuyển sang giai đoạn mới mang tính chính
trị hơn. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ đầu tháng
Chín và kéo dài đến cuối tháng Mười, rõ ràng là vì sức nặng của các vấn đề được
thảo luận và chia rẽ trong Đảng. Cuối cùng, hôm 29-10, Đảng ra tuyên bố công
khai thừa nhận các
sai lầm trong chiến dịch cải cách ruộng đất và một số lĩnh vực
khác. Trường Chinh, người giữ chức Tổng Bí thư suốt từ 1941 và đứng số hai sau
Hồ Chí Minh, nhận trách nhiệm và từ chức, cùng với Thứ trưởng Nông lâm (Hồ Viết Thắng).
Một chiến dịch sửa sai sau đó được tiến hành nhằm giảm bớt các đau khổ của
người nông dân trong cải cách ruộng đất [16] .
Đài phát thanh Hà Nội hôm 30-10 tường thuật về Hội nghị 10, nói rằng dân chủ
hoá và cải thiện đời sống nhân dân nay là hai trọng tâm đầu tiên của Đảng,
trong khi việc thống nhất đất nước, vốn vẫn là ưu tiên số một, thì chuyển xuống
số ba [17] .
Những thay đổi lớn này tại
Việt Nam và không khí chung ở Trung Quốc và Đông Âu cho phép các trí thức Việt
Nam tận hưởng giai đoạn Nhân văn - Giai phẩm, một thời đoạn độc đáo
của quá trình giải phóng trí thức từ tháng Tám đến tháng Mười Một năm 1956. Sự
giải phóng được thể hiện bằng sự xuất hiện đột ngột tại các quầy báo nhiều ấn
phẩm của tư nhân tập hợp các trí thức phản kháng. Trong số đó có hai ấn phẩm
nhiều ảnh hưởng nhất mà tên được đặt cho giai đoạn này. Thứ nhất làGiai phẩm mùa
Xuân và Giai phẩm mùa
Thu, giới thiệu các văn phẩm mang nội dung chính trị. Thứ hai
là Nhân văn, một
tuần báo công khai nói chuyện chính trị. Trong văn cảnh ViệtNam, hai
chữ Nhân văn còn phản ánh ý niệm Nho giáo về việc trở thành một người
văn minh nhờ vào việc học văn chương và triết lý. Các thảo luận chính trị mà
các ấn phẩm này khơi dậy bao quát nhiều chủ đề, từ các chính sách trí thức và
văn hoá của Đảng cho đến cải cách ruộng đất, tệ quan liêu, tham nhũng, bất tài,
và sự chính danh của “chính thể đảng trị”, như cách gọi của sinh viên [18] .
Các thảo luận không giới hạn trong các bài báo và thư độc giả, mà còn lan ra
đại học, trường học và thậm chí các buổi họp của Hội đồng Nhân dân Hà Nội và
Mặt trận Tổ Quốc [19] .
Rõ ràng ta thấy có ảnh
hưởng của Trung Quốc trong quá trình nới rộng tự do ở Việt Nam. Tất cả các
ấn phẩm phản kháng đều hướng tới Trung Quốc như niềm cảm hứng. Như Kim Ninh chỉ
ra, “Thực sự, Nhân văntheo sát các sự kiện ở Trung Quốc và Đông Âu, ủng hộ
Chiến dịch Trăm hoa và xu hướng cởi mở ở Ba Lan và Hungary… Các cây bút
của Nhân văn cảm thấy rõ rệt là họ đang tham gia một phong trào quốc
tế rộng hơn…” [20] Ngoài
ra, tên của một số tờ báo phản ánh sự liên hệ trực tiếp với Trung Quốc. Ví dụ
ta có tạp chí Trăm hoa, trong khi cái tên Đất mới(một
tạp chí của sinh viên đại học đã dùng từ “chính thể đảng trị” để chỉ chính phủ)
ám chỉ vùng đất màu mỡ cho các loại hoa mới sinh sôi.
-------------
· Chú
thích:
[5]Georges
Boudarel, “Intellectual Dissidence in the 1950s: The Nhan-Van Giai-Pham
Affair,” in trong The Vietnam Forum, do O. W. Wolters chủ biên (New
Heaven, Conn.: Yale Southeast Asia Studies, 1990), 13: 158
[6]Gong
Yuzhi, Mao Zedong’s Reading Life (Shanghai: Shanghai People’s
Publisher, 1997), trang 493
[7]Lục
Định Nhất, “Cái nhìn lịch sử về ‘Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh
minh,” Guangming Daily, 7-5-1986
[8]Xem
Ninh, A World Transformed, chương 4, trang 121–161, nói về sự phản
kháng của trí thức.
[9]Như
trên, trang 140
[10]Như trên. Bài về Nhân văn – Giai phẩm của
Boudarel cũng có tư liệu về liên hệ giữa Hồ Phong và Trần Dần.
[11]Shawn McHale, “Vietnamese Marxism, Dissent, and the Politics
of Postcolonial Memory: Tran Duc Thao, 1946–1993”, Journal of Asian
Studies 61.1 (2002): 14
[12]Bernard B. Fall, The Two Vietnams - A Political and
Military Analysis(New York: Praeger, 1967), trang 188
[13]P. J. Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trong
cuốn Vietnam: Anatomy of a Conflict, R. Fishel Wesley chủ biên
(Itasca, Ill.: Peacock Publishers, 1968), trang 160
[14]Các chính sách mới này là: “1) Đoàn kết giới trí thức và
động viên toàn bộ lực lượng trí thức cho nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới; 2) Sử dụng trí thức theo khả năng và giao cho họ công tác phù hợp trên
nguyên tắc chức vụ và quyền lực được phân phối theo khả năng và đạo đức; 3) Bảo
đảm cho trí thức có phương tiện cần thiết để làm việc, tặng thưởng cống hiến
theo khả năng của đất nước; 4) Giúp các thế hệ trí thức lớn tuổi học tập ý thức
hệ cách mạng, đào tạo thế hệ trí thức mới, không ngừng nâng cao hiểu biết của
trí thức và mở rộng hàng ngũ.” Robert F. Turner, Vietnamese
Communism (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 1975), trang 152.
[15]Edward Friedman, “The Revolution in Hungary and
the Hundred Flowers Period inChina”, Journal of Asian Studies, 35.1
(1965): 122
[16]Chiến dịch “sửa sai” cải cách ruộng đất cũng chứng tỏ có
ảnh hưởng Trung Quốc. Theo Hoàng Văn Hoan (Hồi ký, bản dịch tiếng Anh, trang
285), Chu Ân Lai rất lo ngại về vai trò của cố vấn Trung Quốc trong cuộc cải
cách ruộng đất ở Việt Nam. Sau khi Hoan đi họp ở phiên Toàn thế thứ Mười
và quay lại Bắc Kinh, Chu Ân Lai gọi ông ta đến và hỏi rằng cố vấn Trung Quốc
chịu bao nhiêu phần trách nhiệm cho những sai lầm trong cải cách ruộng đất của
Việt Nam. Hoan trả lời rằng kinh nghiệm Trung Quốc tốt lắm, và mọi biện
pháp quá khích đều là do cán bộ Việt Nam quyết định cả - dĩ nhiên
nhận xét này không được các sử gia cho là chính xác.
[17]Ang Cheng Guan, Vietnamese Communists’ Relations with
China and the Second Indo - Chinese Conflict (Jefferson, N.C.: McFarland
& Company, 1997), trang 36
[18]Ninh, A World Transformed, trang 146
[19]Honey, “Ho Chi Minh and the Intellectuals”, trang 161
[20]Ninh, A World Transformed, trang 144.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét