Phần I: ĐỒNG THUẬN NỘI BỘ &
ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Hải Đăng
30-03-2015
Hối hả bồi đắp 7 bãi đá và rặng san hô để tạo ra các hòn đảo
nhân tạo là hành động rất quyết đoán của Trung Quốc trong chiến lược biển hiện
nay. Hành động ấy khẳng định tham vọng đòi chủ quyền trên toàn bộ các đảo, đá
và các thực thể khác ở Biển Đông và “vùng biển tiếp giáp” được gộp thành yêu
sách “đường đứt khúc chín đoạn”. Thiết lập sự hiện diện ngay tại trung tâm Biển
Đông bằng cách phi pháp ấy, Trung Quốc đang muốn vẽ lại ranh giới địa lý của
Đông Nam Á.
Thế trận các đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông giờ đây
không còn là nguy cơ tiềm ẩn nữa mà đã trở thành mối đe dọa trực tiếp và công
khai không chỉ đối với Việt Nam, đa số thành viên ASEAN, mà ngay đối với cả các
bạn bè lẫn đối tác ngoài khu vực Đông Nam Á như Hoa Kỳ, Ấn Độ, Ốtxrâylia và
nhiều nước khác. Căn cứ vào những bức ảnh vệ tinh chụp được, trận đồ mà Trung
Quốc đang triển khai trên Biển Đông được thấy rất rõ, kết nối quần đảo Hoàng Sa
mà Trung Quốc đã cướp từ Việt Nam năm 1974 với hệ thống 7 bãi đá, rặng san hô
tại quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc cưỡng chiếm từ Việt Nam và Philippines và
đã cấp tốc cải tạo trong những tháng qua. Các bãi đá, rặng san hô đó bao gồm:
Tư Nghĩa (Hughes Reef), Gạc Ma(Johnson South Reef), Ga
Ven (Gaven Reef), Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Châu
Viên (Cuarteron Reef), Én Đất(Eldad Reef) và Vành
Khăn (Mischief Reef).
“Bình chân như vại” là nguy hiểm
Bài học từ cuộc vận động quốc nội lẫn quốc tế chống lại việc hạ
đặt trái phép giàn khoan 981 không bao giờ cũ. Làm sao quên được làn sóng dâng
trào trong cả nước và nhiều nơi trên thế giới hồi “mùa Hè đỏ lửa” năm ngoái khi
Trung Quốc “cắm” giàn khoan khủng vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam! Tuy nhiên, vận hành hệ thống 7 bãi đá và rặng san hô nói trên
nguy hiểm hơn việc hạ đặt giàn khoan 981 rất nhiều. Tiến trình Trung Quốc gia
cố và mở rộng các hoạt động bồi đắp và xây dựng thành chuỗi đảo nhân tạo ấy cho
thấy những tính toán chiến lược dài hạn hơn của họ trên Biển Đông. Hạ đặt Hải
Dương 981 tuy là bước đi khá nguy hiểm, nhưng thực chất lại có cách xử lí và
thu hút được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế dành cho các nước như Việt Nam.
Trong khi đó, dù diễn ra chậm chạp và khó nhận biết, nhưng chủ trương bồi đắp
đảo nhân tạo lại nguy hiểm hơn rất nhiều, vì giá trị chiến lược và khả năng
thay đổi cục diện mà chuỗi đảo sẽ mang lại cho Trung Quốc khi được phát triển
đầy đủ.
7 hòn đảo nhân tạo sẽ cung cấp rào cản để đối phó với bất kỳ kết
quả bất lợi nào từ Tòa án Trọng tài Quốc tế hiện đang xem xét đơn kiện của
Philippines chống lại Trung Quốc. Bởi vì, các đảo nhân tạo không nằm trong phạm
vi thủ tục pháp lý đang tiến hành. Gạt được các cứ điểm quân sự trá hình ấy
khỏi trận đồ pháp lý, Trung Quốc có thể tự tung tự tác trong việc đe dọa trực
tiếp đối với Việt Nam, hoặc cô lập Việt Nam thông qua việc tấn công hoặc hù dọa
các thành viên ASEAN khác. Trong bối cảnh ấy, nếu không có những đột phá về
tính toán chiến lược, phải thừa nhận rằng, cả Việt Nam lẫn ASEAN khó có thể có
bất kỳ hành động chính trị và ngoại giao nào đối phó với Trung Quốc. Nguy hiểm
hơn, với thế trận hiện nay, Trung Quốc sẽ có thể chủ động hành sự, hay phản ứng
trước các sự cố nẩy sinh tại chỗ một cách nhanh chóng hơn nhiều so với trước
đây. Việt Nam sẽ còn ít thời gian để đáp trả. Các nhà phân tích quân sự Việt
Nam và quốc tế đều nói tới nguy cơ Bắc Kinh dễ dàng tấn công đánh chiếm các hòn
đảo do Việt Nam trấn giữ mà các lực lượng Việt Nam sẽ trở tay không kịp.
Để đối phó, cho dù chỉ trên tầm ngắn hạn, chúng ta phải làm sống
lại tinh thần Diên Hồng trong thời đại mới. Vấn đề không phải là “hòa” hay
“đánh”. Vấn đề là trên dưới phải đồng lòng và quyết tâm, trong ngoài phải biết
chia sẻ giá trị và kết nối thành một khối. Phải vô hiệu hóa càng sớm càng tốt
cái triết lý của kẻ chuyên đi bắt bí và ức hiếp. Không thể để cho Trung Quốc
thực hiện phương châm “cái gì của tôi là của tôi, còn cái gì của anh thì có thể
đưa ra đàm phán”. Không! Đảo bị cướp quyết không thể là đảo bị mất! Trung Quốc
đã chiếm giữ bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của chúng ta trên 40 năm nhưng không
hề có một quốc gia nào công nhận chủ quyền trên cơ sở chiếm đoạt bằng vũ lực ấy
của Bắc Kinh. Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng, thời gian chờ đợi không phải là vô
hạn. Chúng ta phải khẩn trương hành động trong khoảng thời gian ngắn còn lại!
Lẽ phải ở phía chúng ta, sự công chính ủng hộ chúng ta. Chúng ta hãy cùng các
quốc gia trong và ngoài khu vực kiến tạo nên một trật tự quốc tế mới để hậu
thuẫn cho xu hướng hòa bình và công lý trở lại với Biển Đông. “Bình chân như
vại” lúc này là nguy hiểm và sẽ đắc tội với tiền nhân.
Bùa chú không thay được giải pháp
Chiều 5/3, tại họp báo thường kỳ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao
tuyên bố: “Việc Trung Quốc xây dựng, mở rộng trái phép công trình trên các bãi,
đá và làm thay đổi nguyên trạng tại khu vực quần đảo Trường Sa không chỉ xâm
phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam mà còn vi phạm Tuyên bố về Ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC) đã được ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN. Việt Nam
phản đối và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay những hành động sai trái đó”.
Trong tình hình hiện nay, những tuyên bố routine như thế này rõ ràng không mấy
tác dụng. Vấn đề dư luận bức xúc hiện nay là nếu Trung Quốc cứ tiếp tục đà lấn
tới như thế, liệu Việt Nam có nên liên minh với các nước khác hay không để tự
bảo vệ chính mình trong tình huống khẩn cấp. Giới nghiên cứu chính sách đều
đồng ý, Việt Nam sẽ không liên minh với nước này để chống nước kia, nhưng chúng
ta rõ ràng cần sự hỗ trợ từ quốc tế “chống lưng” giúp Việt Nam đảm nhiệm được
sứ mệnh duy trì hòa bình và an ninh ở Biển Đông. Quan điểm này được phản ánh
trong phát biểu của TS. Lê Hồng Hiệp, từ Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh:
“Việt Nam chỉ có thể hòa hiếu với Trung Quốc nếu Trung Quốc tôn trọng độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nếu Trung Quốc dùng bạo quyền để
cưỡng bức thì chúng ta không thể mềm yếu để rồi mãi mãi đánh mất chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ vì một thứ ‘hữu nghị viễn vông’… Trong khi tìm mọi
cách cố gắng duy trì quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tương kính với
Trung Quốc, chúng ta (Việt Nam) cũng nên sẵn sàng theo đuổi các mối quan hệ
liên minh với các đối tác ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau để đối phó với các
mối đe dọa trên Biển Đông”[1].
TSKH. Lương Văn Kế từ Đại học Quốc gia Hà Nội tiến xa hơn khi
ông kiến nghị Việt Nam cần điều chỉnh chính sách “ba không”, theo đó Việt Nam
từng cam kết không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự
của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia. Nhà nghiên cứu về quan hệ quốc tế này
dường như cùng chia sẻ quan điểm với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện
trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Bộ Công an khi lão tướng này khẳng định
sức mạnh vượt trội của Hoa Kỳ, đối tác duy nhất ông cho là Việt Nam có thể liên
minh để đứng mũi chịu sào trước thế lực phương Bắc. Vị Thiếu tướng này tuyên bố
chúng ta phải chơi bài ngửa: “Việt Nam không liên minh với Mỹ để chống Trung
Quốc nhưng chúng ta cần sức mạnh của Mỹ để răn đe mọi thế lực ngoại bang muốn
xâm lược Việt Nam”[2].
Qua các tuyên bố có thể thấy, ước muốn liên minh đang là nhu cầu bức thiết nhất
hiện nay của đa số nhân sĩ trí thức, ngay cả trong hàng ngũ quân đội và công
an. Khi Việt Nam không thể tự mình đủ sức bảo vệ đất nước thì các câu bùa chú
không thể thay thế cho tư duy sáng tạo nhằm tìm ra giải pháp tối ưu, biết đặt
an nguy của dân tộc lên trên tất cả.
“Lụt sẽ lút cả làng”. Thế trận biển đảo nhân tạo chính là sản
phẩm từ “kinh lược hải dương” của Trung Quốc đang đe dọa lợi ích cốt lõi của
các nước trong và ngoài khu vực. Nhiều nước, trong đó có các nước lớn đã lên
tiếng. Một vài thành viên ASEAN cũng đã tuyên bố phản đối. Việt Nam đã bày tỏ
thái độ nhưng cần phải mạnh mẽ hơn nữa. Phải tố cáo trước công luận quốc tế:
thế trận đảo nhân tạo của Trung Quốc là âm mưu áp đặt quyền kiểm soát quân sự,
giám sát mọi hoạt động không quân và hải quân của các nước trong và ngoài khu
vực. Không chỉ bày tỏ thái độ mà Việt Nam cần phải thay đổi cả quan niệm về tập
hợp lực lượng trên trường quốc tế khi hữu sự. Không chỉ hợp tác và đấu tranh,
mà vấn đề là phải nhấn mạnh tinh thần đấu tranh kiên quyết để bảo vệ chủ quyền
thiêng liêng không thể đánh đổi và vượt qua mọi giới hạn để hợp tác toàn diện
với đối tác bên ngoài khi cần thiết.
Theo ý kiến của GS. Carl Thayer (Ốtxtrâylia) Việt Nam có thể tác
động đến thái độ của Trung Quốc thông qua các hoạt động ngoại giao mạnh mẽ ở
cấp độ song phương và đa phương. Giới lãnh đạo Việt Nam cần thẳng thắn nêu bật
vấn đề này với Trung Quốc. Việt Nam cần huy động sự trợ giúp từ khối ASEAN và
từ cộng đồng hàng hải quốc tế. Điều tốt nhất mà các nỗ lực này có thể đạt tới
là thuyết phục được Trung Quốc hành động với sự tự kiềm chế và minh bạch hơn về
ý định của mình. Việt Nam có thể làm việc chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ và các cường
quốc hàng hải khác để áp dụng một loạt “chiến lược áp đặt cái giá phải trả”
(cost-imposition strategy) trên Trung Quốc. Những chiến lược áp đặt giá phải
trả khả dĩ thực hiện được là nhờ sáng kiến từ Trung tâm vì An ninh Mới của Mỹ
(CNAS) ở Washington DC. Chiến lược này nhằm chứng minh cho Trung Quốc thấy rằng
các hành động của họ sẽ tạo ra phản ứng ngược lại từ phía các quốc gia khác,
khiến cho Trung Quốc khó mà tiếp tục con đường hiện tại, phải cân nhắc hơn
thiệt về các hành động của họ trong tương lai[3].
[3]http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150302-bien-dong-viet-nam-va-cac-de-doa-tu-the-tran-dao-nhan-tao-trung-quoc/
___
Phần II: TRẬT TỰ KHU VỰC SẼ ĐẢO LỘN
Dương Trọng Đông
04-04-2015
Vừa ăn cướp vừa la làng. Ngoại trưởng Vương Nghị tuyên bố Trung
Quốc xây các đảo nhân tạo trong “ao nhà” của mình, chứ không như các nước asaen
“xây trộm” trong lãnh hải của Trung Quốc. Coi Biển Đông là “ao nhà”, hẳn nhiên
Trung Quốc bị nhiều nước phê phán. Tuy nhiên, vai trò trung tâm của ASEAN vẫn
là điều còn thiếu vắng cho đến nay.
Có lẽ trong quan hệ quốc tế, ít khi có một nước lớn nào tuyên bố
và hành động như Trung Quốc. Nói một đàng làm một nẻo. Một mặt, tung hòa mù để
lấp liếm các hành tung phi pháp, áp đặt và đe dọa lân bang, mặt khác, cấp tập
sức người sức của để hòng đảo lộn trật tự khu vực ĐNÁ và thế chiến lược Đông Á
nói chung, phục vụ cho “kinh lược hải dương” của ban lãnh đạo Bắc Kinh – một
chiến lược quản lý biển đầy tham vọng và nguy hiểm cho hòa bình và ổn định của
khu vực và thế giới.
Vừa kiêu ngạo vừa tự mãn
Xã luận ngày 17/3 trên tờ The Yomiuri Shimbun của Nhật Bản bình
luận, Trung Quốc đã bộc lộ sự kiêu ngạo với lịch sử nhằm gây
sức ép với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong những phát biểu của lãnh đạo cấp
cao qua kỳ họp lưỡng hội vừa rồi ở Bắc Kinh. Sau khi kết thúc kỳ họp hàng năm
của Quốc hội, ThỦ tướng Lý Khắc Cường tổ chức họp báo và tuyên bố, các nhà lãnh
đạo Nhật Bản “phải chịu trách nhiệm với lịch sử về những hành vi phạm tội của
họ”. Trước đó, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cũng khẳng định, Nhật Bản đã
bị đánh bại trong cuộc chiến 70 năm trước. Tờ The Yomiuri Shimbun bình luận, cả
Lý Khắc Cường lẫn Vương Nghị đang dùng “chiêu bài lịch sử” như một phần của
cuộc chiến tuyên truyền, trong đó Bắc Kinh ở vai trò quốc gia chiến thắng và là
nạn nhân để gây áp lực lên ông Shinzo Abe khi Thủ tướng Nhật Bản chuẩn bị cho
tuyên bố được đưa ra năm nay nhân dịp kỷ niệm 70 năm kết thúc Chiến tranh Thế
giới thứ II. Tuy nhiên, tờ báo chỉ rõ rằng, quốc gia đang bị các nước nghi ngờ
hiện nay không phải là Nhật Bản, mà chính là Trung Quốc.
Trong cuộc họp báo sau kỳ họp Quốc hội, ông Vương Nghị đã có
những tuyên bố sai trái về những hoạt động xây dựng cải tạo (bất hợp pháp) biến
đá thành đảo, thiết đặt căn cứ quân sự (phi pháp) ở Trường Sa (thuộc chủ quyền
Việt Nam). Theo The Yomiuri Shimbun, khẳng định của Vương Nghị là một
nhận xét đầy tự mãn và không một quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi việc
xây dựng của Trung Quốc lại có thể chấp nhận được. Cũng liên quan đến việc
Trung Quốc bối đắp phi pháp 7 đảo trên Trường Sa, Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh
Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tuần qua được tờ Economictimes (Ấn Độ) trích
dẫn: “Tranh chấp giữa Trung Quốc và các nước liên quan ở Biển Đông gây nên căng
thẳng với tất cả các nước trong khu vực. Tôi quan ngại về điều đó. Tôi nghĩ đây
cũng là vấn đề đáng lo ngại với tất cả chúng ta”. Đô đốc Harris cho rằng cách
hành xử của Bắc Kinh ở Biển Đông mang tính “khiêu khích” và theo một chiến
thuật bài bản. Đô đốc cho rằng tất cả các nước đều quan ngại về tự do hàng hải
và đang theo dõi sát những gì Trung Quốc thực hiện ở khu vực này. Tư lệnh Mỹ
nhấn mạnh: “Việc bồi đắp gây tác động lớn. Nó khiến thay đổi hiện trạng ở Biển
Đông”. Đô đốc Harris cho hay Mỹ sẽ chuyển 60% thiết bị quân sự hải quân đến
Thái Bình Dương vào năm 2020, trong kế hoạch tái cân bằng ở châu Á.
Mỹ kêu gọi khu vực cùng ứng phó
Theo tiến sĩ Dean Cheng, chuyên gia về vấn đề chính trị và an
ninh thuộc Tổ chức The Heritage (Mỹ), chính quyền Bắc Kinh đang có ý đồ thiết
lập một thực tế mới tại Biển Đông. Thông qua việc xây dựng và bồi đắp chuỗi đảo
nhân tạo, Trung Quốc đang có âm mưu lèo lái cộng đồng thế giới công nhận quan
điểm sai trái rằng Biển Đông thuộc về nước này. Chuyên gia Robert Haddick, nhà
thầu độc lập của Bộ Tư lệnh chiến dịch đặc biệt (Mỹ), cho rằng Trung Quốc muốn
dần dần củng cố “tính hợp pháp” của những tuyên bố chủ quyền phi lý ở phần lớn
Biển Đông. Sau khi bồi đắp hàng trăm héc ta đất, Trung Quốc sẽ có thể thiết lập
công sở, đồn cảnh sát, cầu tàu, sân bay, cơ sở du lịch và nhà cửa như từng thực
hiện tại quần đảo Hoàng Sa, nhằm củng cố các cơ sở cho yêu sách chủ quyền.
Từ đó, ông Haddick đề xuất chính phủ Mỹ và các đối tác trong khu
vực hãy cùng nhau liên kết để ứng phó. Cần công khai ý đồ bành trướng trên biển
của Trung Quốc ở tầm thế giới, cũng như vận động các kênh ngoại giao để tuyên
truyền các hệ lụy từ hành động gây nguy hiểm mà chính quyền Bắc Kinh đang theo
đuổi. Còn theo nhận định của chuyên gia Ely Ratner, Phó giám đốc Chương trình an
ninh châu Á – Thái Bình Dương thuộc Trung tâm an ninh mới của Mỹ, Washington
vẫn chưa có hướng tiếp cận hữu hiệu để ngăn chặn những hoạt động xây cất trái
phép của Trung Quốc tại biển Đông. Chuyên gia Ratner cho rằng nếu Mỹ bỏ mặc
tình hình tại Biển Đông, chiến lược bồi đắp đảo của Trung Quốc về cơ bản có thể
làm trật tự khu vực bị đảo lộn và tình thế chiến lược ở Đông Á sẽ bị thay đổi
hoàn toàn. Theo ông Ratner, để thuyết phục Washington can thiệp sâu hơn, đầu
tiên giới phân tích cần phải xác định cụ thể về ý đồ trung và dài hạn của Trung
Quốc khi xây đảo nhân tạo. Chẳng hạn, liệu những cơ sở mới sẽ là nơi đồn trú
của quân đội Trung Quốc và là bàn đạp tấn công cả những mục tiêu xa hơn?
Song song với việc vạch rõ mưu đồ Trung Quốc, các nước trong khu
vực cần hợp tác để ngăn chặn việc Bắc Kinh tạo ra “sự đã rồi” trên Biển Đông.
Ngoài ra, Mỹ cần tiếp tục đầu tư vào việc nâng cao năng lực theo dõi trên biển
cho các đồng minh và đối tác. Theo chuyên gia Haddick, nhiệm vụ cấp bách đối
với các nước như Nhật, Philippines và Việt Nam là tăng cường sự hiện diện của
các đội tàu cá và đội tuần tra cảnh sát biển để tránh tạo ra hình ảnh nhường
vùng biển này cho Trung Quốc. Về phía Mỹ, nước này cần đẩy mạnh hiện đại hóa
lực lượng không quân và hải quân ở khu vực để bảo đảm rằng leo thang quân sự sẽ
không bao giờ mang lại chiến thắng cho Trung Quốc.
Trong khi đó, chuyên gia Mira Rapp-Hooper, Giám đốc Sáng kiến
minh bạch hàng hải châu Á thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế
(CSIS) kêu gọi các nhà hoạch định chính sách Mỹ hãy cảnh báo Trung Quốc rằng họ
sẽ không thành công trong việc sử dụng các tiền đồn ở Biển Đông để hăm dọa các
nước láng giềng hoặc làm xói mòn luật pháp quốc tế. “Các quan chức Mỹ nên kín
đáo cảnh báo những người đồng cấp Trung Quốc rằng Mỹ sẽ chủ động thách thức
vùng nhận diện phòng không ở Biển Đông nếu Bắc Kinh tuyên bố điều này”, bà
Rapp-Hooper viết. Với những đề xuất quyết liệt, chuyên gia Zack Cooper thuộc
CSIS kêu gọi Washington hãy mạnh mẽ hơn trong việc ứng phó với những hoạt động
của Trung Quốc ở “vùng xám”, tức những hoạt động khiêu khích chưa đến mức làm
phát sinh các rủi ro đáng kể đối với Bắc Kinh.
Châu Á có cần cơ chế mới?
Dư luận khu vực cho rằng, Trung Quốc kiểm soát lâu dài Hoàng Sa
của Việt Nam, dùng ảnh hưởng chính trị và kinh tế để thuyết phục các nhà lãnh
đạo Việt Nam hợp tác với Trung Quốc bằng cách giảm nhẹ tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ trên bộ và trên biển. Khi Việt Nam hành động độc lập hoặc hành động
theo cách làm Trung Quốc không hài lòng, Trung Quốc sẽ lại gây sức ép với Việt
Nam. Những hành động của Trung Quốc tác động nghiêm trọng đến niềm tin chiến
lược giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines. Hầu hết các nước trong khu
vực đều cố gắng đứng ngoài tranh chấp tại Biển Đông. Nhiều nước không tin rằng
sự trỗi dậy của Trung Quốc là hòa bình, nhưng một số vẫn đi theo Trung Quốc và
hy vọng sẽ được tưởng thưởng vì “xử sự tốt” (không lên án Bắc Kinh). Các nước
khác sẽ thực thi chiến lược rào cản, cố gắng duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc
trong khi tìm kiếm sự hỗ trợ từ Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ để cân bằng với Trung
Quốc.
Nhà phân tích địa chính trị hàng đầu Robert Kaplan gần đây đã
cho rằng: “Những đặc điểm tự nhiên của Đông Á cho thấy đây sẽ là một thế kỷ của
hải quân”. Xét về tầm quan trọng của các vùng biển trong khu vực được thể hiện
rõ trong mọi khía cạnh từ nguồn tài nguyên năng lượng phong phú, những tuyến
giao thương trọng yếu trên biển cho tới các tranh chấp lãnh thổ hết sức gay gắt
ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, đa số chúng ta sẽ đồng ý với quan điểm trên. Mặc
dù vậy, tại một diễn đàn diễn ra tháng trước ở Tokyo, ông Ken Sato, Giám đốc
Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc tế (Institute for International Policy Studies
– IIPS) nhận định rằng, Đông Á vẫn chưa có một cơ quan thường trực hoặc tổ chức
khu vực để giải quyết các vấn đề an ninh biển. Trong bài phát biểu khai mạc
Diễn đàn về một Cấu trúc mới về an ninh biển ở Đông Á do IIPS tổ chức (30/1),
ông Sato đã đề xuất thành lập một cơ quan mới dự kiến lấy tên là Tổ
chức An ninh và Hợp tác Biển Châu Á (Asia Maritime Organization for
Security and Cooperation – AMOSC).
Vấn đề đặt ra hiện nay là tổ chức nói trên liệu có thực sự giúp
quản lý các tranh chấp lãnh thổ hết sức gay gắt hiện nay hay không. Việc Trung
Quốc trì hoãn xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông với các quốc gia
Đông Nam Á cho thấy yếu tố thực sự ngăn cản việc giải quyết tranh chấp là do
thiếu thiện chí chính trị, chứ không phải thiếu vắng các thể chế. Nếu tính đến
các chiến thuật xảo trá mà Trung Quốc đang sử dụng để trì hoãn quá trình giải
quyết vấn đề ở các thể chế hiện có, liệu một thể chế mới có thể giúp cải thiện
vấn đề hay không là điều còn chưa rõ ràng. Thông qua kênh này hay kênh khác,
các tổ chức như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN Mở rộng (ADMM+) hiện cũng đang xử lý vấn đề an ninh biển. Diễn đàn Biển
ASEAN Mở rộng mới thành lập gần đây, trong đó bao gồm 10 quốc gia Đông Nam Á
cùng với Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, Nga và Mỹ đã
tập trung sâu hơn vào các vấn đề trên biển. Trên thực tế, những nhà ngoại giao
Châu Á đang chịu trách nhiệm xử lý những thể chế tăng trưởng ngày một nhanh này
đã nhấn mạnh đến việc hài hoà các tổ chức trên để tránh sự trùng lặp không cần
thiết.
Tuy nhiên, ý kiến ủng hộ AMOSC vẫn rằng một tổ chức hoàn toàn
mới là cần thiết, bởi cái gọi là cấu trúc do ASEAN dẫn đầu, với việc đề cao sự
đồng thuận, không gò ép và ‘tính trung tâm’ của ASEAN xưa nay vẫn được ca ngợi,
khá cồng kềnh, chậm chạp và không hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề
phức tạp, như đã minh chứng trong việc Trung Quốc trì hoãn ký kết COC. Ngay cả
khi lập luận này có điểm đúng, khó tưởng tượng làm sao để các thành viên ASEAN
không xem đây là sự coi thường hay mối đe dọa bởi lo ngại của khối trước những
toan tính của các cường quốc và vai trò của ASEAN trong việc dẫn dắt chủ nghĩa
khu vực non trẻ ở Châu Á với những thành công tiệm tiến trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, từ hội nhập kinh tế đến diễn tập quân sự thông qua cơ chế ADMM+.
Điều này không chỉ đơn thuần là mối lo đối với các tổ chức hiện hữu mà còn do
nhu cầu duy trì ‘tính trung tâm’ của ASEAN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét